Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2011

38. Sinh cảnh toàn cầu và những con đập "Made in China"

http://hoangquang.files.wordpress.com/2009/08/dap-tieu-loan.jpgXin giới thiệu các bạn một bài viết mới nhất của Nhà văn Ngô Thế Vinh bàn về những con đập trên thượng nguồn sông Mê Kông.  Báo chí trong và ngoài nước gần đây cảnh báo sông Mê Kông đang lâm nguy vì những phương pháp xây đập vô trách nhiệm của “nước lạ”.  Bài viết này cung cấp thêm những thông tin về ảnh hưởng của việc làm nguy hiểm của nước lạ đó đến các nước thuộc vùng hạ nguồn sông Mê Kông.  NVT


Sinh cảnh toàn cầu và những con đập "Made in China"

Ngô Thế Vinh

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
“Nước trở nên quý, và càng quý hơn trong tương lai,
sẽ trở thành ‘Vàng Xanh’ của thế kỷ XXI”
“L’eau est devenue chère, et elle sera encore plus à l’avenir,
ce qui en fera l’Or Bleu du XXIe siècle”
Ricardo Petrella, 3/2000

NỬA TỈ NGƯỜI TRÊN HÀNH TINH NÀY
http://www.usbr.gov/power/edu/wcdogo.gifCách đây 10 năm (11/ 2000)  Ủy Hội Đập Thế Giới (WCD / World Commission on Dams), đã cho ấn hành một nghiên cứu rộng rãi trên toàn cầu về ảnh hưởng các con đập lớn và phát triển.
Mười năm sau 2010, Water Alternatives, là một nhóm độc lập gồm các nhà nghiên cứu, các chủ bút (independent academic online journal), đã cùng duyệt xét lại bản khảo sát của WCD, xem các con đập lớn hiện nay ảnh hưởng ra sao trên sinh cảnh môi trường, kinh tế  xã hội và đời sống cư dân ven sông – khảo sát này không phải chỉ có thu hẹp trên những nạn nhân trực tiếp trên vùng xây đập  bị cưỡng bách tái định cư mà bao gồm cả các cộng đồng dân cư phía hạ nguồn, tại 70 quốc gia nơi 120 con sông trên thế giới .
Theo Brian Richner, người chủ trì cuộc nghiên cứu và cũng là Giám đốc Chương Trình Bảo Tồn Thiên Nhiên  ( Nature Conservancy) thì có gần nửa tỉ người (472 triệu) trong số này 85% là cư dân Á Châu sống dưới nguồn phải chịu hậu quả tiêu cực thật đáng ngại từ những con đập lớn do hủy hoại môi trường, phá rừng, làm mất nguồn cá, mất đồng cỏ nuôi gia súc… Điển hình là vùng hạ lưu sông Mekong, nếu không kể đám thị dân, thì đã có hơn 40 triệu người chủ yếu là nông và ngư dân, sống bằng nguồn tài nguyên của con sông với nguồn lúa gạo, nguồn cá mà cá từ sông Mekong  là nguồn protein chính của họ.
Như một điệp khúc, ai cũng biết Trung Quốc là quốc gia thượng nguồn của nhiều con sông, chỉ thích nói tới các lợi lộc của các con đập như sản xuất điện, điều hòa lũ lụt và tạo thuận thủy lợi cho nông nghiệp. Nhưng lại hầu như không đề cập  tới những hậu quả tiêu cực và ảnh hưởng lâu dài trên sinh cảnh, môi trường và đời sống cư dân dưới nguồn.
Theo cuộc khảo sát của nhóm Water Alternative (June 3, 2010), thì có sự bùng phát xây cất các con đập lớn trên toàn thế giới: từ con số 5,000 con đập năm 1950 nay lên tới 50,000 con đập. Chỉ riêng Brazil, xứ sở của túc cầu đã có tới 1,700 dự án xây đập mới.
Cũng theo Brian Richner, ở một thời kỳ mà cao trào xây đập đã trải rộng trên toàn cầu như vậy, thì chúng ta càng phải khôn ngoan và thận trọng hơn ngay từ bước khởi đầu hình thành dự án cho tới phương thức điều hành các con đập để có thể “giảm thiểu” tác hại của các con đập trên đời sống con người và sinh cảnh”. [12]
Chẳng hạn, làm sao bảo đảm các con đập “phải  xả ra đủ nước” để  duy trì dòng chảy và bảo tồn sinh cảnh và duy sự sống nơi hạ nguồn.
Nhận xét: điều này chỉ phản ánh lòng mong mỏi không thực tế và cả nghịch lý nữa do “mâu thuẫn quyền lợi” đối với quốc gia và công ty sở hữu các con đập. Ví dụ trong mùa hạn hán vừa qua, khi mà chính những hồ chứa các con đập Vân Nam cũng thiếu nước để vận hành giàn turbines, phải bảo đảm cung cấp đủ điện cho các khu kỹ nghệ đang phát triển rất nhanh ở các tỉnh Tây Nam Trung Quốc, trong tình huống cực đoan ấy mà lại yêu cầu Trung Quốc lấy “từ tâm tự nguyện” xả nước từ các hồ chứa cũng đang thiếu nước chỉ để cứu các khúc sông cạn hạ nguồn “rõ ràng là một yêu cầu không tưởng”.
NHỮNG CON ĐẬP LAN THƯƠNG – MEKONG
GMS _ Greater Mekong Subregion
Lưu Vực Lớn Sông Mekong hay Tiểu Vùng Sông Mekong Mở Rộng
Diện tích: 795,000 km2
Chiều dài chính: 4,400 km
Dòng chảy trung bình: 15,000 m3 / sec
[ nguồn: MRC Secretariat 2000 ]
Theo dự báo của Chương Trình Môi Sinh Liên Hiệp Quốc (UNEP/ U.N. Environment Program) thì dân số vùng hạ lưu sông Mekong sẽ tăng lên 90 triệu vào năm 2025 với 1/3 sẽ chọn sống ở các khu đô thị [1], còn lại 2/3 cư dân ven sông, chủ yếu là ngư dân và nông dân đã và đang chịu hậu quả trực tiếp và tích lũy những tác hại của các con đập Vân Nam.
Do cơn khát năng lượng để đáp ứng nhu cầu kỹ nghệ phát triển, rõ ràng Trung Quốc thì vẫn cứ ráo riết xây thêm những con đập bậc thềm Vân Nam (Mekong Cascades) với cái giá kinh tế xã hội và môi sinh phải trả của các quốc gia vùng hạ lưu.
Hiện nay 2010, đã có  ba con đập (1) Mạn Loan/ Manwan 1,500 MW, (2) Đại Chiếu Sơn/ Daichaosan 1,350 MW, (3) Cảnh Hồng / Jinghong 1,350 MW đã hoạt động toàn công suất, con đập thứ tư  (4) Tiểu Loan/ Xiaowan 4,200 MW cao nhất thế giới 292 mét  (lớn thứ hai sau con đập Tam Hợp / Three Gorges trên sông Dương Tử), với diện tích hồ chứa hơn 190 km2 và dung tích 15 tỉ  mét khối,  bắt đầu lấy nước sông Lan Thương – Mekong từ 2009 dự trù phải cần tới 4 năm tới 2012 mới lấy đủ nước vào hồ chứa, nhưng đơn vị phát điện đầu tiên của đập Tiểu Loan đã bắt đầu hoạt động từ 25 tháng 9, 2009. Theo Wang Yongxiang , tổng quản trị Hydrolancang còn có thêm ba con đập nữa đang xây trong chuỗi 14 con đập bậc thềm Vân Nam. [13]
_ Không chỉ xây đập trên suốt nửa chiều dài sông Mekong  chảy qua tỉnh Vân Nam,  Trung Quốc còn thao túng trong các kế hoạch xây những con đập Hạ lưu trên lãnh thổ Lào như:  Pak Beng 1,320 MW, Pak Lay 1,320 MW,  Sanakham 1,000 MW và Cam Bốt :  Sambor  2,600 MW (lớn hơn con đập Mạn Loan/ Manwan Vân Nam chỉ có 1,500 MW) với tổn phí lên tới 5 tỉ $US.
Hai con đập Sambor và Don Sahong cùng với dự án các con đập Hạ lưu phía bắc sẽ  “đe dọa tới 70% sự sống còn của các đoàn “di ngư” từ Cam Bốt. [3]
_ Hội Nghị Thượng Đỉnh Mekong, Hua Hin Thái Lan
Trước sức ép của công luận, của các nhóm hoạt động môi sinh và gay gắt nhất là phong trào dân chúng từ các cộng đồng cư dân hạ lưu phản đối chống Trung Quốc  và mạnh mẽ  nhất là từ  các tỉnh đông bắc Thái –  nạn nhân trực tiếp của những khúc sông Mekong khô hạn.
Trước mối đe dọa sông Mekong cạn dòng  do chuỗi  đập thượng nguồn Vân Nam,  bốn quốc gia Đông Nam Á thuộc lưu vực sông Mekong gồm Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đã nhóm họp tại thành phố biển Hua Hin, 200 km phía nam Bangkok,  để  cùng thảo luận về phương cách khai thác bền vững nguồn tài nguyên sông Mekong. Thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva, cho dù đang phải đương đầu với cuộc khủng hoảng chánh trị có thể đưa tới nội chiến, nhưng vẫn đến khai mạc hội nghị thượng đỉnh này với tuyên bố khẳng định:
“Sông Mekong đang bị đe dọa nghiêm trọng vì sự lạm dụng nguồn nước và hậu quả của biến đổi khí hậu. Nếu không có một chính sách khai thác thận trọng và hợp lý các nguồn tài nguyên sông Mekong, con sông hùng vĩ  này không thể nào sống còn”.
Cũng để xoa dịu nỗi căm phẫn của cư dân khu vực hạ lưu, Bắc Kinh cử một phái đoàn quan sát do phó Ngoại trưởng  Tống  Đào / Song Tao tới dự hội nghị.  Không là thành viên của Ủy Hội Sông Mekong, không bị một ràng buộc nào ngoài tư cách “tham dự  đối thoại”.  Như từ bao giờ, Bắc Kinh vẫn khẳng định do tình trạng hạn hán nghiêm trọng mới là nguyên nhân đưa tới con sông Mekong cạn dòng – và cũng khá trớ trêu là phân tích của chính Ủy Hội Sông Mekong / MRC cũng hậu thuẫn cho luận điểm đó của Trung Quốc. [4] Và đó là lý do tại sao các nhà hoạt động môi sinh đã lên án Ủy Hội Sông Mekong  thất bại trong việc bảo vệ dòng sông Mekong. [5]
Trước sức ép của công luận, Bắc Kinh bắt đầu chịu chia xẻ  một phần dữ kiện thủy văn liên quan tới hai con đập Vân Nam.  Cũng nên ghi lại ở đây cái cảnh tiếp đón khá  bẽ bàng mà Trung Quốc đã dành cho phái đoàn 4 nước thuộc Ủy Hội Sông Mekong qua ghi nhận của Boonchai Ngamvitrot,  Giám đốc phòng Nghiên cứu Thủy văn của Thái Lan:
“Ngày đầu đoàn đến thăm  Đập Cảnh Hồng, đến đập quan sát khoảng 1 tiếng, phía Trung Quốc cho phép chụp hình. Ngày thứ hai, đoàn  đi thăm Đập Tiểu Loan, quan sát khoảng 1 tiếng nhưng tại đây họ không cho chụp hình. Tiếp đoàn chỉ có 5 hay 6 cán bộ công ty thủy điện, không có cấp đại diện chánh phủ hay bộ Thủy lợi Trung Quốc đi cùng. Chúng tôi nói chuyện rất ít, hầu như chỉ đi xem là chính”. [15]
Nếu gọi đó là chuyến đi quan sát thực địa / fact-finding, thì chỉ với vỏn vẹn 2 giờ đồng hồ đó, phái đoàn 4 nước đã thu thập được những thông tin gì nơi 2 con đập ấy ?
Ngoài chiến dịch tình cảm rất hời hợt ấy,  trước sau Trung Quốc vẫn khăng khăng từ chối trách nhiệm về tình trạng cạn dòng của con sông Mekong  trong thời gian vừa qua. [2]  Với những lý lẽ, vẫn là sự lặp lại, không có gì mới và không thuyết phục, đó là:
(1) Theo phái đoàn Trung Quốc thì chỉ có 13.5% lưu lượng sông Mekong  đổ xuống từ khúc sông Lan Thương / thượng nguồn, so với lưu lượng trung bình hàng năm sông Mekong đổ ra Biển Đông, nên các con đập Vân Nam không có ảnh hưởng đáng kể tới hạ nguồn; không những thế các hồ chứa còn có tác dụng tích cực là điều hòa dòng chảy, ngăn ngừa  lũ lụt và cải thiện dẫn thủy tiêu tưới cho nông nghiệp. 
Nhận xét: nhưng theo Milton Osborne, chuyên gia uy tín về Đông Nam Á và là tác giả những cuốn sách nghiên cứu về Sông Mekong (như : The Mekong: Turbulent Past, Uncertain Future; River Road to China: The Search for the Source of the Mekong)  thì  trong Mùa Khô, lưu lượng nước sông Lan Thương ( tên Trung Quốc của sông Mekong) ở một số nơi,  chiếm tới 40%  lượng nước sông Mekong , gấp 3 lần con số Trung Quốc đưa ra là 13.5%. [11]
(2)  Phái đoàn Trung Quốc cho rằng không phải chỉ có các quốc gia hạ lưu chịu cảnh con sông Mekong cạn dòng, mà chính hàng triệu cư dân các tỉnh Tây Nam Trung Quốc cũng bị thiếu nước và hạn hán nghiêm trọng  trong thời gian vừa qua.
Nhận xét: do thay đổi khí hậu, đã thiếu mưa, hạn hán, khi mà mực nước hồ chứa các con đập  xuống thấp tới gần “mực nước chết”và để duy trì mức sản xuất điện cho các khu kỹ nghệ… thì 40% nguồn nước  trong mùa khô bị giữ  lại trong các con đập Vân Nam, thì hậu quả thiếu  nước và cạn dòng dưới nguồn trầm trọng hơn là thế nào.
(3)  Cũng phái đoàn Trung Quốc đã phủ nhận tiếng nói báo động của các nhóm hoạt động môi sinh, và lên án những “lượng giá của họ về tác hại của các con đập Vân Nam là hoàn toàn không có cơ sở / groundless” vì Mekong cạn dòng là do “thiếu mưa / low rainfall” chứ không vì nguyên nhân nào khác.
Nhận xét: đã thiếu mưa trên toàn lưu vực từ thượng xuống hạ nguồn, trong suốt mùa khô, trông chờ  nước do nguồn tuyết tan từ cao nguyên Tây Tạng để duy trì dòng chảy thiên nhiên vốn có từ ngàn năm của con sông Mekong thì nay nguồn nước ấy bị giữ lại trong hồ chứa khổng lồ của các con đập Vân Nam và  cảnh “thượng nguồn tích thủy, hạ nguồn khan” tưởng là hiển nhiên vậy mà vẫn bị Trung Quốc phủ nhận. [11]
Nói gì đi nữa thì cho đến nay Trung Quốc vẫn cương quyết từ chối gia nhập Ủy Hội Sông Mekong để không bị ràng buộc bởi bất cứ quyết định nào của tổ chức này. Dưới mắt cư dân hạ nguồn thì Trung Quốc là một khuôn mặt “bất nhẫn” hay nói theo ngôn từ ngoại giao nhẹ nhàng hơn thì Bắc Kinh hoàn toàn  “vô cảm” với những khó khăn của các quốc gia ven sông nơi lưu vực dưới sông Mekong.
NHỮNG CON ĐẬP Á CHÂU
_ Trên Sông Irrawaddy:
Trung Quốc đã khởi công xây con đập thủy điện lớn nhất Miến Điện, Myitsone 3,600 MW trên sông Irrawaddy từ cuối năm 2007.  Vị trí con đập nằm ngay trên hợp lưu của hai nhánh sông, cách Myitsone thủ phủ của bang Kachin 42 km về hướng bắc.
Theo tờ báo của nhà nước Miến Điện, The New Light of Myanmar, từ tháng  5 năm 2007  Miến Điện đã hoàn tất phác thảo 7 dự án thủy điện trên sông Irrawaddy với tổng công suất lên tới 13,360 MW, do một ký kết giữa Công Ty Đầu Tư Điện Lực Trung Quốc (CPI / China Power Investment Corporation)  và Bộ Điện Lực Miến Điện.
Nhưng theo Tổ Chức Môi Sinh Kachin có trụ sở ở Chiang Mai Thái  Lan, thì tình trạng đàn áp nhân quyền cư dân địa phương trên luôn luôn diễn ra trên vùng xây đập. Di sản thiên nhiên và văn hóa của sắc tộc Kachin đang bị hủy hoại, với hơn 40 ngôi làng quanh vùng xây đập sẽ hoàn toàn bị ngập lụt và hơn 10 ngàn cư dân thì bị mất hết nhà cửa và bị cưỡng bách phải di dời. Chưa kể đến trường hợp nếu con đập bị xập do động đất sẽ gây thảm họa cho hàng triệu cư dân nơi hạ nguồn. ( Bắc Miến là vùng động đất đang hoạt động / seismically active zone giống như Vân Nam) [9]
Mới đây 6/ 2010,  khi Thủ Tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tới thăm giới lãnh đạo quân phiệt Miến Điện để thảo luận về “các vấn đề năng lượng” cũng có nghĩa là hai nước sẽ phải đẩy mạnh kế hoạch xây các con đập thủy điện trên lãnh thổ Miến. Đập Myitsone trên sông Irrawaddy chỉ là một trong 9 dự án án và ngoài Công Ty Đầu Tư Điện Lực Trung Quốc CPI  thì nay có thêm một công ty xây đập lớn khác của Trung Quốc CDT (China Datang Corporation), tham dự vào.
Cho dù gặp sự chống đối mạnh mẽ của sắc dân Kachin, điển hình là đã xảy ra các vụ nổ bom (17/04/2010) nơi công trình xây đập khiến 4 công nhân xây đập Trung Quốc chết và nhiều người khác bị thương,  thì ngay sau đó dân Kachin  bị quân đội bắt bớ, tra tấn và đàn áp dữ dội hơn. Kế hoạch cưỡng bách tái định cư / forcibly relocated  và tiến độ xây đập vẫn không hề bị chậm lại. [10]
Cũng dễ hiểu tại sao Trung Quốc vẫn chuộng ký kết hợp đồng làm ăn với các thể chế độc tài, nhân danh ổn định chánh trị bằng đàn áp.
_ Trên Cao Nguyên Tây Tạng :
Xứ tuyết Tây Tạng là vùng đất cao từ 3,500 tới 5,000 mét, được mệnh danh là “nóc của trái đất”, các con sông lớn như mạch sống cho toàn vùng Châu Á đều bắt  nguồn từ cao nguyên Tây Tạng. Phía đông ngoài hai con sông lớn Hoàng Hà và Dương Tử hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, còn phải kể tới ba con sông khác: Mekong, Irrawaddy và Salween. Phía tây và tây nam là các con sông: Indus, Sutlej và Yarlung Zangpo – Yarlung Zangpo còn được mệnh danh là “con sông cao nhất thế giới”.
Bắc Kinh đã xác nhận với Ấn Độ là, Hoa Lục sẽ xây con đập đầu tiên trên con sông Yarlung Zangbo – Brahmaputra, vốn  là một con sông lớn, chảy xuyên qua rặng Hy Mã Lạp Sơn, đổ xuống một đại vực (grand canyon) lớn và sâu nhất, trước khi chảy sang Ấn Độ. Đây là dòng sông huyết mạch của bao nhiêu triệu cư dân Ấn.
Các chuyên gia Hoa Lục còn cho họ biết sẽ xây thêm 4 con đập nữa trong vùng thung lũng giữa hai quận hạt Sangro và Jiacha. Khi hoàn tất, tổng số công suất của những con đập thủy điện này sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp  (Three Gorges Dam) lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. [6]
Nguồn năng lượng mới này tương đương với 100 triệu tấn than đá, hoặc bằng toàn trữ lượng dầu khí trên Biển Đông / it could generate energy equivalent to all the oil and gas in the South China sea. [14]
Ai cũng biết Biển Đông đang là “vùng tranh chấp nóng” giữa Trung Quốc, Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á.
Ấn Độ đã bày tỏ mối quan tâm về những con đập sắp tới của Trung Quốc, sẽ có ảnh hưởng hủy hoại sinh cảnh vốn đã mong manh của vùng Hy Mã Lạp Sơn và nhất là tác động trực tiếp trên lưu lượng con sông Brahmaputra, là nguồn cung cấp nước cho các vùng nông nghiệp và kỹ nghệ các tỉnh Đông Bắc Ấn Độ. Nỗi lo ngại của Ấn càng gia tăng khi nhận thức được rằng qua các con đập,  Bắc Kinh sẽ hoàn toàn kiểm soát nguồn nước cung cấp cho vùng đất 90,000 km2 đang trong vòng tranh chấp biên giới giữa hai nước.
[Tưởng cũng nên nhắc lại là trong quá khứ đã xảy một cuộc Chiến tranh Biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ (Sino-Indian War) vào tháng 10 năm 1962, trên cao độ hơn 4,000 mét, sau đó tuy ngưng bắn nhưng tình hình vẫn căng thẳng và vấn đề biên giới giữa hai nước chưa được giải quyết. Nay nhìn lại, người ta không thể  không liên hệ yếu tố chánh trị phía sau cuộc chiến này: sự vùng dậy của nhân dân Tây Tạng bị Trung Quốc thẳng tay đàn áp (1959) và sau đó Tân Đề Ly đón nhận Đức Đạt Lai Đạt Ma vào Ấn Độ tỵ nạn đã gây cho Bắc Kinh không ít giận dữ ].
Cũng như với các con đập thượng nguồn Sông Mekong, lập luận của Trung Quốc bao giờ cũng là tiếng nói “phủ nhận” ảnh hưởng của chuỗi đập trên cao nguyên Tây Tạng đối với nguồn nước của Ấn Độ.
Bằng một giọng khá trịch thượng và cả thách thức với một cường quốc láng giềng có cả vũ khí nguyên tử là Ấn Độ, giới chức Bắc Kinh cho rằng họ không có ràng buộc nào để phải công khai hóa kế hoạch của họ với Tân Đề Li, nhưng họ đã làm như vậy để tạo sự tin cậy và giảm thiểu căng thẳng giữa hai quốc gia. [Sic]
Yan Zhiyong, tổng giám đốc Nhóm Tham vấn Thủy điện Trung Quốc (China Hydropower Engineering Consulting Group) nhận định : “Tây Tạng là nguồn dự trữ thủy điện lớn nhất so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Chuyển điện  điện từ Tây Tạng sang các tỉnh miền Đông sẽ giải quyết vấn đề thiếu năng lượng đáng kể của Trung Quốc”.
Anant Krishnan, nhà ngoại giao cao cấp của Ấn Độ cho rằng kế hoạch xây đập tràn lan của Bắc Kinh, cho dù đó là trong lãnh thổ Trung Quốc nhưng chắc chắn sẽ ảnh hưởng tác hại mối quan hệ đối với các quốc gia hạ nguồn. Rồi ông ta cũng không quên so sánh :
“Ấn Độ  bị báo động vì những con đập trên sông Yarlung Zangbo- Brahmaputra, cũng giống như với các quốc gia Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đối với những con đập Vân Nam trên thượng nguồn sông Langcang – Mekong”. [6]
NHỮNG CON ĐẬP TRÊN LỤC ĐỊA PHI CHÂU
Theo báo Economist,  Châu Phi là một lục địa ít xây đập nhất. Cũng là lục địa thiếu nước và thiếu điện nhất. Đó là vùng đất hứa để xây thêm những con đập và Trung Quốc là quốc gia bỏ tiền xây nhiều con đập mới ở Phi Châu, nhưng hiệu năng của những con đập ấy thường dưới xa mức dự tính do khí hậu thất thường, tiên đoán thủy văn không chính xác cộng thêm với tham nhũng về chính trị nên Châu Phi không phải là  “đắc địa” để Trung Quốc vội vã đầu tư thêm vàokỹ nghệ xây đập [7], ngoài những kế hoạch đang sinh lợi khác như thuê đất, phá rừng lấy gỗ và chuyên trở các nguồn tài nguyên từ Phi Châu về Trung Quốc.
XÂY ĐẬP TOÀN CẦU: TRUNG QUỐC VÀ NHÂN QUYỀN
Phân nửa những con đập lớn trên hành tinh này là nằm trong lãnh thổ Trung Quốc và Bắc Kinh cũng là chủ nhân các đại công ty xây đập lớn nhất thế giới.
Chỉ mấy thập niên trước đây thôi, Trung Quốc còn cần yểm trợ kỹ thuật của các công ty xây đập Tây Phương, như với tập đoàn đa quốc gia EHDC (Ertan Hydroelectric Development Corporation)  khi thực hiện dự án đập Tam Hợp (Three Gorges projects). Nhưng cũng lúc đó, Trung Quốc có ngay chiến lược làm ăn với các công ty ngoại quốc, họ đặt ra yêu cầu các công ty này phải chấp nhận cho sản xuất phân nửa những giàn turbines và các nhà máy phát điện ngay tại Trung Quốc với sự tham gia của các kỹ sư thủy điện và công nhân kỹ thuật Trung Quốc. Một hình thức thu hút kỹ thuật cao của Tây Phương vào Trung Quốc trong một thời gian ngắn với gía rẻ.
Trước mối lợi nhuận hàng tỉ Mỹ kim, các đại công ty Tây Phương như  ABB, Alstom, General Electric and Siemens đã chấp nhận giải pháp này cũng có nghĩa đồng ý chuyển giao quy trình công nghệ xây đập cho Trung Quốc. Và  các nhóm kỹ sư trẻ Trung Quốc đã không bỏ lỡ cơ hội,  rất mau chóng học hỏi và làm chủ các khâu kỹ thuật xây đập của ngoại quốc và rồi không lâu sau đó, Trung Quốc đã có thể tự chế tạo và sản xuất mọi trang bị cho kỹ nghệ xây đập ngay tại Hoa Lục.
Để rồi ngày nay, Trung Quốc vượt qua các bậc thầy, thống lĩnh thị trường xây đập toàn cầu, nhận xây 19 trong số 24 dự án đập lớn nhất thế giới. Không có con số chính xác, nhưng có thể nói rằng không ít các giàn turbines và trang thiết bị xây các con đập lớn nhỏ ở Việt Nam hiện nay đều mang thương hiệu Made in China, điều phỏng đoán ấy chắc không sai.
Nhưng ngoài vấn đề Hoa Lục làm chủ được kỹ thuật xây đập, nhiều người đã tự hỏi bằng cách nào Trung Quốc đạt được những thành tựu “xuất cảng kỹ nghệ xây đập” nhanh như vậy sang  nhiều quốc gia khác ?
Giám đốc chánh trị  Mạng Lưới Sông Thế giới (IRN/ International River Network), Peter Brosshard đã tìm được lời giải đáp. Đó là, trong khi các đối tác Tây phương tuy có nhiều kinh nghiệm và kỹ thuật cao hơn nhưng cũng vì biết quan tâm nhiều hơn tới ảnh hưởng môi trường và tác động xã hội của từng con đập nói chung vì “tôn trọng nhân quyền”  họ đã rất  “dè dặt và bảo thủ” , trong khi đó  phía Trung Quốc không có cùng mức độ quan tâm như vậy và Bắc Kinh chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội sinh lợi, cứ thế nhận đấu thầu và tiến tới cho dù không đáp ứng được những tiêu chuẩn môi sinh  quốc tế. [8]
Nhưng rồi ra, trước công luận thế giới, Trung Quốc không thể nói  là hoàn toàn vô can trước tác hại của những con đập nơi các quốc gia mà Trung Quốc trực tiếp đầu tư vào. Điển hình là những gì tệ hại đang diễn ra trong Lưu Vực Lớn Sông Mekong (GMS/ Greater Mekong Subregion); và báo chí đã đưa ra một ví von rất gợi hình là Trung Quốc đang liều lĩnh bước đi trên trên những tảng băng mỏng / China walks on thin ice. Một hình ảnh nước lớn Trung Quốc chắc chắn sẽ xấu xí hơn nếu cứ tiếp tục với những công trình xây dựng thiếu bền vững như vậy trên khắp hành tinh này.
Trung Quốc đã chia rẽ, khống chế được các nước nhỏ Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, nhưng khi Bắc Kinh hành xử ngang ngược chặn nguồn nước một nước láng giềng lớn như Ấn Độ, liệu có dễ dàng như vậy không hay là bắt đầu “châm ngòi” cho một cuộc “chiến tranh  vì nước”.
NGÔ THẾ VINH
California 16/ 06 / 2010
Tham khảo:
1/ The Mekong In Peril, Prashanth Parameswaran, Wed, 02 June 2010
2/ China New Dam as Water Hog. USA Today, April 21, 2010
3/ Mekong Tipping Point: Hydropower Dams, Human Security and Regional Stability. Richard P. Cronin & Timothy Hamlin. The Henry L. Stimpson Center, Washington DC, 2010
4/ Mekong Nations Join Forces on Shrinking River. Bangkok Post 05/04/2010.
5/ Mekong body ‘failed to protect waterway’. Dowstream Nations suffering, activists say. Apinva Wipatayotin. Bangkok Post 02/04/2010.
6/ China to dam world’s highest river. SNM Abdi in Calcutta, Stephen Chen & Kristine Kwok in Beijing. South China Morning Post, Honglong April 24, 2010
7/ The Economist on Dam Building in Africa: Tap that water. Controversy surrounds the argument for dam-building in Africa.
8/ China’s Dam Builders Go Global. China Dams the World. Peter Bosshard.
9/ Irrawady Dam Construction Begins, Human Rights Abuses Begin. Saw Yan Naing. The Irrawady News Magazine, Jan 29, 2008
10/ Kachins anxious Wen’s visit will boost Irrawaddy dam construction. June 03, 2010. www.kachinnews.com/News/Kachins-anxious-Wen’s-visit-will-boost-Irrawaddy-dam-contruction/
11/ China’s “Charm Offensive” Loses Momentum in Southeast Asia [Part II].
Ian Storey. Source: The Jamestown Foundation Publication: China Brief  Volune:10, Issue: 10, May 13, 2010
12/  472 Millions People Worldwide Negatively Affected by Dams. Jaymi Heimbuch, San Francisco, California. Sciences & Technology 06/10/2010
13/ Xiaowan Dam Generating Electricity in Kunming. Li Yingqing  and Guo Anfei. Chian Daily Yunnan Bureau, Seot 25, 2009
14/ Chinese Hydro-engineers propose World’s Biggest Dam in Tibet. Jonathan Watts, Asia environment correspondent. The Guardian, Monday May 24, 2010
15/ Thăm đập Cảnh Hồng / Jinghong và đập Tiểu Loan / Xiaowan
 http://nguyenvantuan.net/news/6-news/925-sinh-canh-toan-cau-va-nhung-con-dap-qmade-in-chinaq

37. Kinh tế Việt Nam năm 2010 và kiến nghị cho năm 2011.

TS. LÊ QUỐC HỘI
Năm 2010, mặc dù tình hình kinh tế thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng thể hiện thành tựu đạt được nền kinh tế vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế và thách thức. Việc đánh giá, nhìn nhận lại kinh tế Việt Nam năm 2010 để rút ra những bài học, chỉ rõ những thách thức và giải pháp cho năm 2011 có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam. Có thể tiếp cận và đánh giá một nền kinh tế từ nhiều phương diện. Trong bài viết này, bức tranh kinh tế Việt Nam được nhìn nhận từ góc độ vĩ mô dựa trên diễn biến tình hình kinh tế trong năm và các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản.
1. Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2010
Tăng trưởng kinh tế

Năm 2010, kinh tế của Việt Nam tiếp tục có sự phục hồi nhanh chóng sau tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Hình 1 cho thấy có cải thiện tốc độ tăng GDP theo các quý trong năm 2010. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II là 6,4%, quý III tăng lên 7,14% và dự đoán quý IV sẽ đạt 7,41%. Uớc tính GDP cả năm 2010 có thể tăng 6,7%, cao hơn nhiệm vụ kế hoạch (6,5%). Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn phục hồi chậm chạp và trong nước gặp phải nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao như trên là một thành công. Với kết quả này tốc độ tăng trưởng GDP cả giai đoạn 2006-2010 đạt bình quân 7%/năm và thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm  2010 ước đạt 1.160 USD.

Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng phục hồi rõ rệt. Công nghiệp tiếp tục là đầu tàu của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2009 và năm 2010 ước tăng 14% so với năm 2009. So với khu vực công nghiệp thì khu vực dịch vụ cũng có sự phục hồi sau khủng hoảng kinh tế thế giới những ở mức độ thấp hơn. Tốc độ tăng trưởng trong 9 tháng đầu năm là 7,24% và triển vọng tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cả năm 2010 có thể đạt 7,5%. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, năm 2010 gặp nhiều khó khăn: đầu năm hạn hán nghiêm trọng, giữa năm nắng nóng gay gắt, cuối năm mưa lũ lớn kéo dài ở miền Trung và Tây Nguyên. Những khó khăn này đã gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất vụ mùa, nuôi trồng thuỷ sản và chăn nuôi. Tuy nhiên, do thực hiện nhiều chính sách và giải pháp hỗ trợ hộ nông dân và các doanh nghiệp về vốn, vật tư, tiêu thụ kịp thời, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng đầu năm đã tăng 2,89% so với cùng kỳ năm 2009, và ước cả năm 2010 tăng khoảng 2,8%.
Đầu tư Kinh tế phục hồi là một nguyên nhân quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 đã đạt được những kết quả tích cực. Ước tính tổng đầu tư toàn xã hội năm 2010 đạt 800 nghìn tỷ đồng, tăng 12,9% so với năm 2009 và bằng 41% GDP. Trong đó, nguồn vốn đầu tư của tư nhân và của dân cư dẫn đầu bằng 31,2% vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư nhà nước (gồm đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước và nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) bằng 22,5%, tăng 4,7% so với năm 2009. Những kết quả này cho thấy các nguồn lực trong nước được huy động tích cực hơn. Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tính đến hết tháng 11, cả nước thu hút được 833 dự án mới với tổng số vốn đăng ký đạt 13,3 tỷ USD, bằng 60% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó vốn thực hiện ước đạt 10 tỷ USD, tăng 9,9%. Mặc dù vốn FDI đăng ký có thấp hơn nhiều so với năm 2009 nhưng tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký lại cao hơn nhiều. Đây có thể được coi là điểm sáng trong thu hút FDI năm 2010. Điều này cũng cho thấy sự cam kết lâu dài các nhà đầu tư nước ngoài ở thị trường Việt Nam.
Tốc độ tăng vốn đầu tư cao và nhanh một mặt thể hiện quan hệ tích lũy – tiêu dùng đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, nhưng mặt khác lại cho thấy những hạn chế trong hiệu quả đầu tư. Nếu như năm 1997, chúng ta đạt được tốc độ tăng trưởng 8,2% với vốn đầu tư chỉ chiếm 28,7% GDP thì cũng với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ như vậy năm 2007 (8,5%) chúng ta phải đầu tư tới 43,1% GDP. Đến năm 2010, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 41% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 6,7%. Chỉ số ICOR đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Hệ số ICOR của doanh nghiệp và đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân chỉ có 3-4, trong khi đó ICOR của khu vực kinh tế nhà nước và từ đầu tư của nhà nước tới 9-101 . Bên cạnh đó còn xảy ra tình trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư. Những đặc điểm này là đáng báo động về cả trước mắt cũng như lâu dài.
Lạm phát và giá cả Năm 2010 lạm phát có những diễn biến phức tạp. Từ đầu năm đến cuối tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng diễn biến theo chiều hướng ổn định ở mức tương đối thấp, trừ hai tháng đầu năm CPI ở mức cao do ảnh hưởng bởi những tháng Tết. Tuy nhiên, lạm phát đã thực sự trở thành mối lo ngại từ tháng 9 khi CPI tăng bắt đầu xu hướng tăng cao. Đến hết tháng 11, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng tới 9,58% và mục tiêu kiềm chế lạm phát cả năm dưới 8% mà Quốc hội đề ra sẽ không thực hiện được.

Lạm phát và giá cả của năm 2010 tăng cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, sự phục hồi của nền kinh tế làm cho nhu cầu các loại hàng hóa dịch vụ đều tăng cao, cộng với thiên tai, lũ lụt ở các tỉnh miền Trung lại càng làm tăng nhu cầu về lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng… Thứ hai, giá của một số mặt hàng nhập khẩu của nước ta trên thị trường thế giới tăng lên do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu làm tăng chi phí sản xuất của nhiều doanh nhiệp. Thứ ba, việc điều chỉnh tỷ giá làm đồng tiền nội tệ mất giá làm cho chi phí nhập khẩu tăng lên đẩy mặt bằng giá nhiều hàng hóa tăng theo. Bên cạnh đó những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao ở Việt Nam những năm trước vẫn còn. Đó là sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Do vậy, kích cầu đầu tư thông qua nới lỏng tín dụng cho các DNNN và tập đoàn cùng với thiếu sự thẩm định và giám sát thận trọng cũng góp phần kích hoạt cho lạm phát trở lại. Sự điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước và sự gia tăng lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại ở những tháng cuối năm 2010 sẽ tiếp tục gây sức ép làm tăng lạm phát không chỉ những tháng cuối năm mà có thể cả trong năm 2011.
Tỷ giá Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách ổn định đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong năm 2010 là khá phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng hai lần vào tháng 2 và tháng 10, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do luôn ở mức cao. Tỷ giá chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do tới 10%. Đến cuối tháng 11 năm 2010, tỷ giá trên thị trường tự do đã đạt mức 21.500 đồng/USD.

Hình 3 cho thấy về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng. Những bất ổn về tỷ giá có nguyên nhân sâu xa từ những bất ổn về kinh tế vĩ mô đó là bội chi cao, nhập siêu lớn và hiệu quả đầu tư công thấp… làm cho cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ. Bên cạnh đó hiện tượng đầu cơ và tâm lý cũng gây áp lực mạnh mẽ lên tỷ giá. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng và tính không ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ.
Thu chi ngân sách Năm 2010, tình hình kinh tế trong nước chuyển biến tích cực đã tạo điều kiện để tăng thu ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nước năm 2010 ước đạt 520.100 tỷ đồng, vượt 12,7% so với dự toán, tăng 17,6% so với năm 2009, và đạt tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà nước là 26,7%. Mặc dù tỷ trọng thu nội địa có tăng nhưng chiếm tỷ trọng không lớn (khoảng 60%). Việc chấp hành kỷ luật ngân sách không nghiêm, thất thu, gian lận, nợ đọng thuế, kể cả thuế nội địa và thuế xuất nhập khẩu còn lớn. Số nợ thuế chờ xử lý (chiếm hơn 20% tổng số nợ thuế) tăng khá nhiều. Đây là dư địa quan trọng để tăng thu ngân sách và giữ kỷ cương luật pháp về ngân sách nhà nước. Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước ước đạt 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự toán và tăng 9% so với thực hiện năm 2009. Bội chi ngân sách năm 2010 ước khoảng 117.100 tỷ đồng, bằng khoảng 5,95% GDP, giảm so với năm 2009 (6,9%) và cũng giảm so với kế hoạch đề ra (6,2%). Đó là những kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh nền kinh tế vừa trải qua cơn suy giảm. Tuy nhiên, bội chi ngân sách vẫn còn cao (chưa về mức dưới 5% như đã duy trì trong nhiều năm) và là một trong những nhân tố góp phần làm gia tăng lạm phát. Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của ngân sách trong các năm tiếp theo nếu như không chủ động có các biện pháp cải cách để tạo nền tảng tăng nguồn thu cũng như tăng cường kỷ luật tài chính cho ngân sách.

Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại

Năm 2010, xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam có nhịp độ tăng trưởng đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế của những nước vốn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU… vẫn phục hồi chậm chạp. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước đạt khoảng 70,8 tỷ USD, tăng 24,9% so với năm 2009. Xuất khẩu tăng là do sự đóng góp lớn của những mặt hàng công nghiệp chế biến cộng với sự phục hồi của kinh tế thế giới làm cho xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản được lợi về giá. Vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu đã bộc lộ trong nhiều năm qua là việc vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, dệt may, da giầy… Hơn nữa, các mặt hàng công nghiệp chế biến vẫn mang tính chất gia công. Như vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa xây dựng được các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.

Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 82,6 tỷ USD, tăng 19,8% so với năm 2009. Nguyên nhân chính của sự gia tăng nhập khẩu là do kinh tế có sự phục hồi làm gia tăng nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất (chiếm khoảng 80% cơ cấu nhập khẩu). Mặc dù cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều tăng, nhưng do tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu, nên nhập siêu năm 2010 giảm xuống chỉ còn khoảng 11,8 tỷ USD, chiếm 16,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, so với những năm gần đây cán cân thương mại đã có sự cải thiện đáng kể, thể hiện quyết tâm của chính phủ trong việc kiềm chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết. Song mức nhập siêu vẫn còn cao cho thấy việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn còn chậm.
Cán cân thanh toán Nếu như năm 2009, cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 8,8 tỷ USD, thì năm 2010 đã có sự cải thiện đáng kể. Phần thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai năm 2010 trên thực tế có thể được bù đắp hoàn toàn bởi thặng dư trong cán cân tài khoản vốn. Tuy nhiên, dự báo cán cân thanh toán năm 2010 vẫn thâm hụt khoảng trên 2 tỷ USD do phần “lỗi và sai sót” trong cán cân tài khoản vốn gây ra. Thực tế, tình trạng căng thẳng trên thị trường ngoại hối và việc giá vàng liên tục leo thang khiến doanh nghiệp và người dân găm giữ đô la và vàng. Như vậy, việc bố trí lại danh mục đầu tư của doanh nghiệp và người dân sang các loại tài sản bằng ngoại tệ và vàng sẽ tiếp tục gây ra vấn đề “lỗi và sai sót” và thâm hụt trong cán cân thanh toán trong năm 2010. Bên cạnh đó, mặc dù cán cân thanh toán được cải thiện trong năm 2010, lượng dự trữ ngoại hối vẫn không tăng một mặt do Ngân hàng nhà nước can thiệp vào thị trường để giữ ổn định tỷ giá, mặt khác có một lượng ngoại tệ lớn đang lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng.

Nợ công Đến năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam ước khoảng 42,2% GDP và tổng nợ công đã vượt quá 50% GDP. Theo phân tích của IMF (2010), Việt Nam vẫn ở mức rủi ro thấp của nợ nước ngoài nhưng cần lưu ý rằng khoản nợ này chưa tính đến nợ của các doanh nghiệp nhà nước không được chính phủ bảo lãnh. Hơn nữa, vấn đề ở đây không chỉ là tỷ lệ nợ so với GDP mà cả quy mô và tốc độ của nợ nước ngoài và nợ công của Việt Nam gần đây đều có xu hướng tăng mạnh. Nếu năm 2001, nợ công đầu người là 144 USD thì đến năm 2010 lên tới 600 USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 18%. Nợ công tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách lớn và hiệu quả đầu tư công thấp đặt ra những lo ngại về tính bền vững của nợ cả trong ngắn hạn và dài hạn. Điều này cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc cần tăng cường quản lý và giám sát nợ công một cách chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ở Việt Nam.

2. Những thách thức của kinh tế Việt Nam năm 2011 và khuyến nghị chính sách
Những thách thức của kinh tế Việt Nam năm 2011
Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2011 phụ thuộc vào ba yếu tố chính: tình hình kinh tế thế giới, sức mạnh nội tại và ổn định kinh tế vĩ mô trong nước và sự điều hành của Chính phủ. Tuy nhiên bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì cũng đặt ra nhiều thách thức cho cả ba yếu tố trên.
Trong ngắn hạn, năm 2011 sẽ tiếp tục chứng kiến sự phục hồi ở những nền kinh tế trên thế giới. Hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế sẽ được hồi phục nhanh hơn sau khi có sự phục hồi chậm trong năm 2010. Hơn nữa, Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong những thị trường đầu tư hấp dẫn và nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh trong những năm tới. Những điều này tạo ra những ảnh hưởng tích cực trực tiếp lên nền kinh tế Việt Nam để có thể duy trì tăng trưởng khả quan hơn trong năm 2011. Tuy nhiên, xuất khẩu của Việt Nam sẽ chịu thách thức lớn hơn, nhất là trong bối cảnh hậu khủng hoảng những rào cản thương mại mới ngày càng nhiều với các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại các thị trường lớn sẽ dành cho các mặt hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như khoáng sản, nông, lâm, hải sản.
Đối với trong nước, những bất ổn vĩ mô và những yếu kém trong nội tại nền kinh tế sẽ trở thành thách thức lớn cho phát triển kinh tế năm 2011. Trước hết, những nhân tố tiềm ẩn lạm phát vẫn tiếp tục trong năm 2011. Đó là giá cả thị trường thế giới sẽ tăng khi kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi, chính sách điều chỉnh tăng lương vào tháng 5/2011 sẽ tạo ra tâm lý và lý do để thị trường tăng giá hàng hóa tiêu dùng, tỷ giá biến động, đầu tư công chưa hiệu quả và bội chi ngân sách tiếp tục gây sức ép lên lạm phát… Thứ hai, mặc dù tình trạng nhập siêu đã được cải thiện nhưng chưa tạo được nền tảng vững chắc. Tình trạng này chắc chắn không dễ giải quyết trong ngắn hạn khi cơ cấu kinh tế kém hiệu quả, công nghiệp phụ trợ yếu kém và nguyên phụ liệu, máy móc, thiết bị, phụ tùng còn phụ thuộc khá nặng nề vào nước ngoài. Thứ ba, bội chi ngân sách cũng là áp lực cần giải quyết. Với mức bội chi cao và nếu nguồn vốn bù đắp ngân sách chủ yếu từ thị trường vốn trong nước, mặt bằng lãi suất sẽ chịu áp lực của nhu cầu vốn, mà đầu tiên là lãi suất tiền gửi ngân hàng… Bội chi vẫn là thách thức khi chưa có những biện pháp nghiêm khắc và cụ thể để giải quyết thông qua việc nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước và tiết kiệm chi thường xuyên. Trong bối cảnh thâm hụt, cơ cấu chi, hiệu quả chi và khả năng kiểm soát chi thể hiện dấu hiệu thiếu bền vững của ngân sách bởi các khoản chi tiêu của chính phủ không tạo nên nguồn thu trong tương lai và gây sức ép cho bội chi mới. Thứ tư, đồng nội tệ sẽ tiếp tục bị áp lực giảm giá trong thời gian tới vì lạm phát của Việt Nam luôn ở mức cao hơn so với khu vực và thế giới và NHNN không thể dùng dự trữ ngoại hối ít ỏi để can thiệp mạnh theo nhu cầu vì cần ngoại tệ để giải quyết các nhu cầu thiết yếu khác. Thứ năm, những “nút thắt” của tăng trưởng kinh tế như cơ sở hạ tầng, trình độ nguồn nhân lực và cải cách hành chính vẫn chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước mà còn cản trở lớn đến tăng trưởng kinh tế theo hướng hiệu quả và bền vững trong năm 2011 và các năm tiếp theo.
Về điều hành kinh tế vĩ mô, hiện nay chúng ta dựa trên 3 công cụ chính để tác động đến nền kinh tế, đó là chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và chính sách cán cân thanh toán. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các chính sách đó còn lúng túng và thiếu linh hoạt. Nhiều chính sách mạng nặng tính hành chính và thiếu kết hợp với các giải pháp dựa trên nguyên tắc thị trường. Hơn nữa, các cơ quan quản lý nhà nước còn đưa ra các giải pháp mang tính tình thế, giật cục, thiếu sự minh bạch và nhất quán làm giảm lòng tin của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Năng lực dự báo kém cộng với dự kiến các biện pháp ứng phó với diễn biến kinh tế thấp kém cũng là những hạn chế quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Khuyến nghị chính sách Năm 2011 có tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam, bởi đây là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011- 2015 và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011- 2020. Đồng thời cũng là năm tiền đề để Việt Nam chuyển sang thực hiện chương trình tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng nhằm nâng cao sức cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Vì thế, cần có các giải pháp chính sách không chỉ cho năm 2011 mà còn cả trong những năm tiếp theo.
Thứ nhất, đặt ưu tiên vào ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiệm vụ điều hành ổn định kinh tế vĩ mô trong thời gian tới tiếp tục rất phức tạp và khó khăn, đòi hỏi Chính phủ và các cơ quan chức năng phải bám sát tình hình, có những chính sách, giải pháp chỉ đạo điều hành kịp thời và linh hoạt. Các định hướng chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ trong cả năm cần được công bố ngay từ đầu năm để cho người dân và doanh nghiệp được biết. Những dự kiến thay đổi cụ thể về chính sách ở từng thời điểm cụ thể trong năm chỉ nên công bố khi chắc chắn sẽ thực hiện. Cùng với thông tin về quyết định chính sách, các thông tin kinh tế vĩ mô (như nhập siêu, bội chi ngân sách, dự trữ ngoại hối, cán cân thanh toán, nợ quốc gia…) phải được công khai, minh bạch ở mức cần thiết để người dân và doanh nghiệp tránh bị động trong sản xuất kinh doanh. Cần có cơ chế phối hợp đồng bộ, toàn diện hơn nữa giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là sự phối kết hợp chặt chẽ ngay từ khâu hoạch định chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, chính sách tỷ giá và các chính sách khác để giải quyết và đạt được các mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường ngoại tệ. Chính phủ cũng cần nâng cao năng lực dự báo và tăng cường phối hợp trao đổi thông tin giữa các cơ quan dự báo và cơ quan giám sát để đảm bảo thống nhất khi công bố.
Thứ hai, đảm bảo ổn định các cân đối vĩ mô. Đối với vấn đề bội chi ngân sách, chính phủ cần xác định rõ lộ trình và giải pháp cho việc giảm bội chi và tiến tới cân đối ngân sách một cách tích cực. Cần cải cách lại cơ chế cấp phát ngân sách và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi nhằm đảm bảo chi ngân sách có hiệu quả. Chi ngân sách cần gắn liền với công khai, minh bạch và dân chủ. Xây dựng và áp dụng cơ chế thưởng phạt cũng như xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước. Đối với vấn đề kiểm soát nhập siêu, cần đặt trong tổng thể của tất cả các chính sách từ chính sách tài khóa, tiền tệ đến chính sách tỷ giá, từ việc chuyển đổi cơ cấu xuất khẩu đến phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ vì nhập siêu bản chất là vấn đề cơ cấu kinh tế.
Thứ ba, thực hiện các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng và hấp thụ vốn đầu tư của nền kinh tế. Để thực hiện điều này, cần tập trung vào tái cơ cấu doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các DNNN, theo hướng rà soát lại hệ thống doanh nghiệp DNNN, kiên quyết cắt bỏ các DNNN làm ăn thua lỗ. Bên cạnh đó, cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn đầu tư từ ngân sách. Nghiên cứu lại việc phân bổ và sử dụng nguồn lực theo hướng nguồn lực cần phải được phân bổ đến những ngành có độ lan tỏa lớn, có giá trị gia tăng cao. Ưu tiên hỗ trợ những doanh nghiệp có phương án kinh doanh khả thi và những doanh nghiệp có khả năng tiếp cận được với công nghệ hiện đại để giúp họ trang bị lại thiết bị, cải tiến công nghệ nhằm bắt kịp với nền sản xuất của thế giới.
Thứ tư, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh. Khi cùng chung sống trong một môi trường kinh tế và chính sách kinh tế, các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp nhà nước hay ngoài nhà nước cần có được sự bình đẳng như nhau về cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, khi nền kinh tế ngày càng thị trường hóa sâu hơn đòi hỏi phải tách biệt giữa chức năng kinh doanh và chức năng hỗ trợ chính sách kinh tế của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Điều này sẽ vừa nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp này vừa không gây ra những méo mó trong nền kinh tế. Ở khía cạnh khác, để tạo môi trường đầu tư minh bạch có tính cạnh tranh, cần tách biệt vai trò của chính phủ là chủ sở hữu ra khỏi vai trò điều hành chính sách.
Thứ năm, để đảm bảo tăng trưởng trước mắt cũng như lâu dài cần giải quyết các “nút thắt” của nền kinh tế, đó là cơ sở hạ tầng và công nghiệp phụ trợ yếu kém; chất lượng nguồn nhân lực thấp; hệ thống tài chính còn bất ổn và mang tính đầu cơ; bộ máy hành chính cồng kềnh, kém hiệu quả. Thực tế cho thấy, việc thực hiện các chính sách để giải quyết các “nút thắt” này luôn mang lại những tín hiệu tốt cho dài hạn và không làm méo mó toàn bộ nền kinh tế trong ngắn hạn. Do vậy, một khi nền kinh tế đã phục hồi trở lại, cần chuyển sang ưu tiên tập trung giải tỏa các “nút thắt” trên.
———————————————————————————————————————————–

1
Theo tính toán của Uỷ ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội Tài liệu tham khảo
  1. Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XII về tình hình kinh tế – xã hội năm 2010 và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2011.
  2. Báo Đầu tư, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Thời báo Kinh tế Sài Gòn năm 2010.
  3. IMF, Vietnam – Joint IMF/World Bank debt sustainability analysis, 2010.
  4. Lương Xuân Quỳ, Mai Ngọc Cường và Lê Quốc Hội, Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2009 và khuyến nghị cho năm 2010, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số tháng 12 năm 2009.
  5. Nguyễn Kế Tuấn và Ngô Thắng Lợi, Kinh tế Việt Nam năm 2009, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân năm 2010.
  6. Số liệu thống kê hàng tháng của Tổng cục Thống kê trên website: http://www.gso.gov.vn
  7. Victoria Kwakwa, Vietnam’s continued success in the post crisis world, the World Bank, 2010.
SOURCE: TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN ĐIỆN TỬ
Trích dẫn từ: http://www.ktpt.edu.vn/website/249_tong-quan-kinh-te-viet-nam-nam-2010-va-khuyen-nghi-cho-nam-2011.aspx

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2011

36. Thấy gì qua sự điều chỉnh chiến lược biển của các nước lớn



Thế kỷ XXI là thế kỷ của biển và đại dương. Phần lớn các quốc gia đều hướng ra biển khai thác tiềm năng thế mạnh của biển. Tuy nhiên, trong bối cảnh vừa trải qua khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhất là giá cả dầu mỏ, năng lượng, lương thực tăng cao bất thường càng làm cho cho các nước đặc biệt quan tâm đến vai trò của biển và đại dương.

Trong bài viết này chỉ xin đề cập vấn đề Thấy gì qua sự điều chỉnh chiến lược biển của các nước lớn với 4 nội dung chủ yếu sau:
1. Những đánh giá mới về vị trí, vai trò của biển và đại dương


Các nhà hoạch định chiến lược của các nước lớn đều cho rằng nền kinh tế thế giới đang ngày càng phụ thuộc vào biển và đại dương, 75% tiềm năng công nghiệp của thế giới nằm ở khu vực rộng 500km tính từ bờ biển. Những nguồn lợi về khoáng sản, sinh học và năng lượng của biển và đại dương có một ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế và hoạt động sống còn của cả hành tinh. Chỉ tính riêng trong thềm lục địa phía Bắc và Viễn Đông bao quanh Nga đã có diện tích 3,9 triệu km2, theo kết quả thăm dò địa chấn thì có khoảng 13,7 tỷ tấn dầu và 52,3 nghìn tỷ m3 khí.


Hiện nay đội tàu vận tải biển của thế giới có tổng trọng tải lên đến hơn 1 tỷ tấn, mỗi năm vận chuyển hàng hóa với tổng giá trị lên đến hơn 40 tỷ USD. Dân số và tiềm năng kinh tế của hành tinh phần lớn đều nằm tập trung dọc theo bờ biển, 25% trong vùng 50km, 50% trong khu vực 100km và đến 75% ở những khu vực 500km. Do đó, nền văn minh của nhân loại trong tương lai gần hoàn toàn có thể gọi là “nền văn minh duyên hải”. Theo kết luận của một số nhà nghiên cứu thì biển, đại dương và mối quan hệ chiến lược quân sự đều có tầm quan trọng. Nó được xác định bằng việc tập trung phần lớn tiềm năng chiến lược hạt nhân tại vùng biển và khả năng gây sức ép chính trị tại bất kỳ khu vực nào trên thế giới, nó cũng có thể được sử dụng có ích trong việc củng cố khả năng phòng thủ của những cường quốc lớn về biển.


- Trung Quốc là một trong những nước lớn cho rằng họ có gần 3 triệu km2 diện tích biển trực thuộc. Đây là không gian quan trọng để phát triển lâu dài của dân tộc Trung Hoa. Trung Quốc rất coi trọng việc khai thác biển nên đã xây dựng và cho ra đời một loạt đạo luật về quản lý và khai thác biển. Kinh tế biển của Trung Quốc phát triển với tốc độ khá nhanh, năm 2005 chiếm khoảng 4% GDP, dự kiến đến năm 2020 con số này sẽ còn lớn hơn. 


- Biển đã mang lại nguồn lợi kinh tế rất lớn cho Mỹ, theo thống kê năm 2000 biển đã đóng góp hơn 117 tỷ USD và tạo ra hơn 2 triệu việc làm. Hàng năm, các cảng biển của Mỹ thu được hơn 700 tỷ USD từ dịch vụ vận tải hàng hóa và 12 tỷ USD từ vận tải hành khách. Các dịch vụ này tạo ra hơn 13 triệu việc làm. Hoạt động khai thác dầu khí ngoài khơi mở rộng tới các vùng nước sâu, hàng năm tạo ra 25 đến 40 tỷ USD lợi tức thu được và tiền cho thuê mỏ đóng góp khoảng 5 tỷ USD vào ngân sách Liên Bang.


- Đối với nước Nga, biển có vai trò cực kỳ quan trọng. Biên giới biển của Nga dài 38.800 km (biên giới đất liền chỉ là 14.500 km); vùng lãnh hải 4,2 triệu km2, trong đó 3,9 triệu km2 có tiềm năng khoáng sản lớn. Nga cho rằng, các hạm đội hiện đại được trang bị máy bay và hệ thống tên lửa tầm xa mới, có khả năng kiểm soát được tình hình đại dương và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quân sự và ổn định chính trị toàn cầu.

Vì thế các nhà nghiên cứu đã dự báo rằng đại dương là một lĩnh vực đầy hứa hẹn đối với các hoạt động kinh tế và là nhân tố quan trọng nhất trong lĩnh vực địa chính trị, nên sẽ trở thành địa bàn cạnh tranh khốc liệt để phân chia phạm vi ảnh hưởng trong tương lai.

2. Quan điểm mới về khai thác biển và đại dương

Những năm gần đây đa số các nước lớn đều quan tâm và nhấn mạnh đến đại dương như một phần lợi ích của họ, vì đại dương, nhất là những vùng biển sâu vẫn còn ẩn dấu nhiều tài nguyên khoáng sản mà con người cho đến nay vẫn còn chưa biết đến. 


- Trung Quốc xác định quan điểm “phát triển khoa học, xuất phát từ nhu cầu chiến lược quốc gia, thích ứng với việc thực hiện mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả vào năm 2020, xoay quanh 4 trọng điểm: hiện đại hóa sản nghiệp biển; xây dựng quy hoạch khai thác biển; đẩy mạnh khoa học kỹ thuật và bảo vệ môi trường sinh thái biển; khai thác, phát triển biển toàn diện hài hòa. Và tuân thủ 5 nguyên tắc cơ bản: bảo vệ quyền lợi biển; quy hoạch tổng thể và phát triển hài hòa; phát triển bền vững; lấy khoa học kỹ thuật đi trước để chỉ đạo; tích cực tham gia khai thác biển quốc tế.


- Mỹ cũng cho rằng, trong tương lai các đại dương, các bờ biển và vùng Hồ lớn phải sạch, an toàn, thịnh vượng và được quản lý một cách bền vững. Phải có kế hoạch sử dụng tốt hơn, hạn chế tác động của thời tiết xấu và các thảm họa thiên nhiên, giảm nhẹ thiệt hại về người và tài sản. Một chương trình táo bạo nhằm khám phá những vùng chưa biết đến của đại dương đã tạo động lực để mọi người tham gia. Mỹ cũng cần chủ động trao đổi khoa học, kỹ thuật, công nghệ và chính sách với các quốc gia khác, đặc biệt là các nước phát triển, nhằm tạo điều kiện để đạt được thành quả trong công tác quản lý biển bền vững ở tầm quốc tế.


Để xây dựng luận cứ cho quan điểm mới của mình Mỹ đã đưa ra khái niệm “toàn cầu mở rộng”. Nội hàm của khái niệm là sự gắn kết, nhuần nhuyễn giữa lực lượng quân sự, hoạt động quân sự có vũ trang và phi vũ trang với mục tiêu bảo vệ lợi ích chiến lược quốc gia của Mỹ trên cấp độ toàn thế giới. 


Thượng tướng Hải quân Timothy Keating Tư lệnh quân đội Mỹ đóng tại Thái Bình  Dương cho rằng: “Vấn đề Nam Hải không chỉ là việc của người khác mà cũng là việc của nước Mỹ, tất cả mọi việc đều phải thương lượng với Mỹ”. Quan điểm trên cho thấy Mỹ muốn can thiệp vào các vùng biển và đại dương trên thế giới, thực chất là họ muốn kiềm chế các nước lớn ở châu á và muốn giành được vị trí chủ đạo ở khu vực này.


- Chương trình đại dương của Nga cũng đã xác định 3 nhiệm vụ chủ yếu: một là làm cho nước Nga trở nên năng động hơn trên đại dương gắn với các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển quốc gia; hai là định hướng các hoạt động của nước Nga trong đại dương nhằm vào những kết quả cụ thể có tính khả thi; ba là tạo điều kiện tối đa cho sự hợp tác và nâng cao hiệu quả các hoạt động của cả chính quyền cấp Liên bang và chính quyền các nước cộng hòa thuộc Liên bang. Chương trình đại dương đã đưa ra 5 nguyên tắc chỉ đạo: (1) Hiện thực hóa và bảo vệ các lợi ích quốc gia và vị thế địa chính trị của nước Nga; (2) Phát triển kinh tế - xã hội các vùng bờ biển; (3) Bảo đảm phát triển đồng bộ kinh tế biển; (4) Nâng cao độ an toàn cho các lĩnh vực hoạt động trên biển; (5) Duy trì và phát triển hơn nữa tiềm năng khoa học và kỹ thuật liên quan tới đại dương.


3. Nhiệm vụ và giải pháp chiến lược khai thác biển và đại dương

Trong xây dựng chiến lược biển mới các nước rất coi trọng diều chỉnh theo hướng pháp luật hoá chủ quyền biển của mình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đồng thời khẳng định lợi ích của họ trên đại dương phù hợp với tiềm lực và sức mạnh của họ về khoa học, kỹ thuật, công nghệ thăm dò, khai thác đại dương. Đây là vấn đề mà các nước nhỏ, chậm phát triển còn lâu mới có thể vươn tới.


- Trung Quốc đã đưa ra chủ trương “gác lại tranh chấp, cùng nhau phát triển” tìm kiếm lợi ích chung trên con đường “phát triển hòa bình” biển Hoa Đông và cho rằng “cần có sự đánh giá toàn diện vấn đề Trường Sa”. Trong giai đoạn hiện nay, sự hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN cũng chưa nói đến việc khai thác tài nguyên, mà chủ yếu là các tiêu chuẩn, nguyên tắc liên quan đến môi trường và nghiên cứu khoa học. Vì thế, cần đề xướng khai thác mang tính tổng hợp, phù hợp với hiệp định đã ký với ASEAN. Trung Quốc và Việt Nam cũng đã ký Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ có hiệu lực từ ngày 30/6/2004. 


- Mỹ cũng cho rằng cần phải có một khung chính sách biển quốc gia mới nhằm tăng cường công tác phối hợp và lãnh đạo ở cấp quốc gia: ở cấp Liên bang, 11 trong tổng số 15 bộ ngành thuộc Chính phủ và 4 cơ quan độc lập giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng chính sách biển. Mỹ đang có kế hoạch mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực Đông Nam á, kiềm chế các nước lớn ở khu vực này, Vì đại bộ phận dầu mỏ mà họ nhập từ vùng Vịnh và châu Phi về đều thông qua biển Nam Hải, do đó việc tăng cường sự có mặt về quân sự của Mỹ ở khu vực này là cần thiết.


Để bảo đảm khống chế đường giao thông quan trọng trên biển, Mỹ luôn duy trì quyền đi lại tự do đối với các vùng biển đang tồn tại tranh chấp chủ quyền, không thừa nhận đòi hỏi chủ quyền của bất cứ quốc gia nào đối với vùng biển này. Hằng năm Mỹ thường cho các chiến hạm qua lại hoặc diễn tập quân  sự ở Nam Hải để bảo đảm “quyền đi lại tự do trên vùng biển này”(!). Mỹ đã giao cho Hải quân của họ 4 nhiệm vụ: (1) Duy trì kiểm soát bờ biển; (2) Bảo đảm an ninh trên biển; (3) Sử dụng sức mạnh từ biển; (4) Bảo đảm sự đồng thuận trên biển.


- Nga cũng cho rằng lực lượng hải quân là yếu tố sống còn, là một trong những công cụ quan trọng nhất để bảo vệ các lợi ích quốc gia của Nga trong đại dương, duy trì sự ổn định chính trị trên biển và không gian biển, an ninh quốc phòng và uy tín trên trường quốc tế.


Đối với các mục tiêu an ninh, chính sách của nước Nga dựa trên các biện pháp chính trị, kinh tế và các biện pháp phi quân sự khác. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự là một trong những thành tố của sức mạnh quốc gia trong một thế giới mới, duy trì tầm ảnh hưởng quan trọng như là công cụ phòng ngừa, bảo vệ lợi ích và mục tiêu quốc gia và là công cụ ngăn chặn sự xâm lược, nếu điều này là cần thiết. 

4. Những quan tâm đến kinh tế biển của Việt Nam từ góc độ quốc phòng - an ninh


Một là Mỹ, Nga và Trung Quốc là những cường quốc có lợi ích chính trị, quân sự, kinh tế liên quan nhiều đến biển và đại dương, họ đều quan tâm đến khai thác đại dương dựa trên cơ sở tiến bộ khoa học - kỹ thuật biển. Chiến lược biển mới của các nước lớn đề cập đến nhiều vấn đề có liên quan đến chủ quyền trên biển và quyền lợi kinh tế biển của Việt Nam, nhất là Biển Đông. Đây là vấn đề cần được quan tâm trong nghiên cứu điều chỉnh chiến lược biển (bao gồm cả chiến lược bảo đảm AN-QP) của nước ta cho phù hợp với tình hình mới.


Hai là Quá trình thực hiện chiến lược biển Việt Nam cần chú ý đến chiến lược biển của các nước lớn vì họ có tiềm lực về nghiên cứu thăm dò và khai thác biển, đại dương. Cần có chính sách để tạo ra mối quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh bình đẳng, đồng thời chế ước lẫn nhau giữa các nước có lợi cho khai thác và bảo đảm QP-AN biển của Việt Nam. 

Ba là, để “sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế”, chúng ta cần sớm cụ thể hoá Chiến lược biển bằng xây dựng quy hoạch, kế hoạch phù hợp với thời kỳ mới, trong bối cảnh nhiều nước không chỉ khai thác vùng biển thuộc chủ quyền của họ, mà còn quan tâm đến khai thác nguồn lợi trên các vùng biển quốc tế bao gồm cả độ sâu của đại dương .


Bốn là cần đầu tư thoả đáng để xây dựng, phát triển lực lượng bảo vệ biển mà nòng cốt là Hải quân và Cảnh sát biển đáp ứng nhu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia của Việt Nam trong thời kỳ mới, bao gồm cả vùng biển và đại dương phù hợp với năng lực thăm dò và khai thác biển, đại dương khi nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 ./.
 
Tài liệu tham khảo
 
1. Văn kiện Đại hội lần thứ X; tư liệu Bố trí quân sự của Mỹ ở Biển đông;
2. Tạp Chí Kiến thức quốc phòng hiện đại. Số 9/2008.
3. Một số văn kiện về Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam.
http://www.khucongnghiep.com.vn/news_detail.asp?ID=163&CID=-1&IDN=2242&lang=vn

35. “Đề án Trung Đông lớn” của Mỹ - Nhìn từ các cuộc bạo động chính trị hiện nay ở một số nước Bắc Phi và Trung Đông

15:59' 19/3/2011

Qua nghiên cứu diễn biến cũng như kết cục các cuộc “cách mạng nhung” ở Tuy-ni-di, Ai-cập và hiện nay ở Li-bi và nhiều nước khác ở khu vực Bắc Phi và Trung Đông, có thể thấy rõ, các cuộc bạo động chính trị đó trước hết xuất phát từ tình trạng khủng hoảng kinh tế, chính trị và xã hội như nạn thất nghiệp gia tăng, sự bất bình đẳng trong xã hội, khoảng cách quá xa giữa người giàu và người nghèo chưa có dấu hiệu rút ngắn mà ngày một lớn hơn, chính quyền ở các nước đó bảo thủ và trì trệ trong nhiều năm, nhưng đã bị một số thế lực bên ngoài, trước hết là ở Mỹ, lợi dụng để kích động nhằm nhanh chóng thay đổi chế độ cầm quyền, tạo cơ hội để thiết lập ảnh hưởng trong thời kỳ “hậu cách mạng”.


Theo chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ, kịch bản các cuộc bạo động chính trị đã và đang diễn ra ở nhiều nước châu Phi và Trung Đông được thực hiện theo cái gọi là “Đề án Trung Đông Lớn” mà Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ đã từng tuyên bố vào năm 2004.
Đề án Trung Đông Lớn của Mỹ
“Đề án Trung Đông Lớn” (“The Greater Middle East”) là một trong những nội dung của chiến lược xây dựng “trật tự thế giới mới” của Mỹ dựa trên cơ sở văn kiện mang tên “Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ ở Trung Đông: phân tích sau sự kiện 11-9-2001”. Đề án này nhằm thay đổi biên giới của 24 quốc gia, từ châu Phi, Trung Đông tới Trung Á, từ Ma-rốc tới Áp-ga-ni-xtan, làm bàn đạp để Mỹ tiến tới thiết lập quyền kiểm soát đối với toàn bộ lục địa Á-Âu (1).
Đề án “Trung Đông Lớn” đã từng được nhiều đời tổng thống Mỹ và giới tinh hoa chính trị ở Oa-sinh-tơn ấp ủ xây dựng cách đây hơn 30 năm nhằm mục đích trước hết và quan trọng nhất là bảo đảm duy trì nguồn cung cấp dầu mỏ liên tục, thường xuyên cho Mỹ từ khu vực này. Theo dự báo của Bộ Năng lượng Mỹ, đến năm 2025, 2/3 nhu cầu dầu mỏ của Mỹ được đáp ứng từ khu vực Trung Đông Lớn. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà hiện nay ở Trung Đông Lớn đã tập trung các căn cứ quân sự chủ yếu của Mỹ, trong đó có 10 sân bay quân sự lớn nhất và một số căn cứ hải quân dùng cho lực lượng hải quân tiến công của Mỹ. Hơn 200.000 quân Mỹ đóng quân thường trực ở Áp-ga-ni-xtan, I-răc và trên bán đảo A-rập (2).
“Đề án Trung Đông Lớn” đã được ấp ủ và điều chỉnh qua nhiều đời tổng thống Mỹ. Lần đầu tiên, người Mỹ đến Trung Đông vào cuối thế kỷ XIX chỉ nhằm mục đích giao tiếp và trao đổi văn hoá. Đến những năm 1920, Mỹ bắt đầu đặt vấn đề lợi ích kinh tế trong quan hệ với các nước Trung Đông liên quan tới nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú ở khu vực này. Chỉ sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II, để thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm xây dựng trật tự thế giới đơn cực do Mỹ “lãnh đạo”, Oa-sinh-tơn bắt đầu chú ý tới lợi ích địa-chính trị ở Trung Đông.
Sáng kiến đầu tiên của Mỹ về Trung Đông là Học thuyết Ai-xen-hao (được đề xuất vào năm 1957) nhằm lấp khoảng trống chiến lược ở khu vực này sau khi thực dân Anh và thực dân Pháp bắt đầu rút lui dần ảnh hưởng của họ tại đây trước phong trào giải phóng dân tộc bùng phát ở nhiều quốc gia, thông qua các khoản viện trợ quân sự và viện trợ kinh tế, thực chất là thực hiện chế độ thực dân kiểu mới.
Sáng kiến thứ hai của Mỹ về Trung Đông là “Học thuyết Gu-am” hoặc “Học thuyết Ních-xơn” do Tổng thống Mỹ Ních-xơn đề xuất vào những năm 1970 nhằm giao một số chức năng quân sự cho các nước trong khu vực Trung Đông, còn Mỹ chỉ viện trợ công nghệ, vật chất - kỹ thuật và kinh tế. Theo cựu cố vấn an ninh quốc gia cho Tổng thống Mỹ Ních-xơn, ông Hen-ri Kit-xinh-giơ, thì Mỹ tạo điều kiện để các nước Trung Đông “tự quyết định vận mệnh của mình”, nói cách khác là “Trung Đông hoá” sự hiện diện của Mỹ.
Sáng kiến thứ ba của Mỹ về Trung Đông là “Học thuyết Ca-tơ” do Tổng thống Mỹ Ca-tơ đề xuất nhằm đối phó với sự can thiệp quân sự của Liên Xô vào Áp-ga-ni-xtan (năm 1980), mở đầu giai đoạn Mỹ tranh giành quyết liệt ảnh hưởng với Liên Xô ở khu vực này. Trên cơ sở “Học thuyết Ca-tơ”, Mỹ thành lập “lực lượng phản ứng nhanh” hoặc “lực lượng phản ứng linh hoạt” ở vùng Vịnh, với sự tham gia của các đồng minh của Mỹ trong NATO ở châu Âu.
Sáng kiến thứ tư của Mỹ về Trung Đông do Tổng thống Mỹ Ri-gân đề xuất, gọi là “Học thuyết Ri-gân”, theo đó Mỹ phân chia thế giới thành hai phe “trắng” (Mỹ và Phương Tây) và “đen” (Liên Xô, các nước XHCN và những quốc gia nào đe dọa lợi ích của Mỹ). Để bảo đảm lợi ích đó, Mỹ sẽ thực hiện ba giải pháp cơ bản. Một là, không chế và đối đầu, trong đó chuyển đối đầu quân sự với Liên Xô ra phạm vi toàn cầu. Hai là, thiết lập chuỗi các khu vực chiến lược trên khắp thế giới gắn bó với nhau, trong đó, Trung Đông có vị trí hết sức quan trọng. Ba là, hiện đại hoá vũ khí, trang bị để thực hiện hai biện pháp trên.
Về sau, tư duy của “Học thuyết Ri-gân” được dùng làm cơ sở để xây dựng “Đề án Trung Đông Lớn” của Mỹ vào cuối những năm 1990. “Đề án Trung Đông Lớn” như phiên bản hiện nay của Mỹ được Ri-sac Pec-lơ (Richard Perle), cố vấn của Lầu năm góc, nhân vật bảo thủ mới của Mỹ, và Đu-glat Phây-thơ (Douglas Feith), soạn thảo năm 1996, trong đó, phác thảo một cách khái quát chiến lược của Mỹ dựa trên cơ sở kết quả các cuộc “cách mạng nhung” làm thay đổi chế độ ở các nước cộng sản Đông Âu trước đây. Văn kiện chính trị này mang tên "Đoạn tuyệt hoàn toàn: chiến lược mới để duy trì hiện trạng". Đây là văn kiện đầu tiên của giới tinh hoa chính trị Mỹ công khai kêu gọi lật đổ chế độ của Tổng thống Xa-đam Hút-xen ở I-rắc, quan điểm sử dụng sức mạnh quân sự đối với Pa-le-xtin, tiến công Xi-ri và các mục tiêu của Xi-ri ở Li-băng. Đến thời điểm xảy ra sự kiện ngày 11-9-2001, cùng với việc các thế lực bảo thủ mới trở lại cầm quyền ở Oa-sinh-tơn, chính quyền của Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ ưu tiên cao nhất cho phương án mở rộng nội dung bản báo cáo của nhóm Ri-sac Pec-lơ và Đu-glat Phây-thơ, và gọi kế hoạch đó là "Đề án Trung Đông Lớn". Đồng thời, Đu-glat Phây-thơ cũng được Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (2,3).
Tháng 5-2003, khi khói lửa của các cuộc ném bom thủ đô Bát-đa của I-rắc chưa kịp lắng xuống, Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ đã tuyên bố chính sách “mở rộng dân chủ” trên toàn bộ khu vực Trung Đông Lớn nhằm xác lập khu vực tự do thương mại giữa Mỹ và Trung Đông trong những thập kỷ tới. Sau đó, “Đề án Trung Đông Lớn” được Mỹ chính thức công bố tại Hội nghị G-8 ở Xi-ai-len (Mỹ) vào tháng 6-2004. Trước khi diễn ra Hội nghị G-8 ở Xi-ai-len, Oa-sinh-tơn cho xuất bản tài liệu mang tựa đề "Đối tác G-8 và Trung Đông Lớn". Trong nội dung mang tựa đề "Những khả năng kinh tế", Oa-sinh-tơn đưa ra khuyến nghị nhằm cải cách kinh tế, có ý nghĩa tương tự như các biện pháp đã từng được áp dụng trong các nước Trung và Đông Âu trong những năm 1990. Văn kiện này của Mỹ nêu rõ, chìa khoá cho chủ trương này là tư nhân hoá kinh tế các nước trong khu vực. Kế hoạch của Mỹ dự kiến chuyển giao hoạt động ngân hàng và tài chính ở khu vực Trung Đông Lớn sang các thể chế quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế và Tổ chức Thương mại thế giới do Mỹ kiểm soát. Mục đích của đề án dài hạn này của Oa-sinh-tơn là nhằm kiểm soát các dòng tài nguyên, vốn và thị trường trên toàn bộ khu vực Trung Đông Lớn, từ Ma-rôc đến biên giới Trung Quốc (4,6).
Sau khi văn kiện này được công bố vào năm 2004, ở các nước trong khu vực Trung Đông Lớn dấy lên làn sóng phản đối, chủ yếu là bác bỏ khái niệm "Trung Đông Lớn" do Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ đưa ra. Theo nhận xét của báo Pháp Le Monde Diplomatique” số ra tháng 4-2004, ngoài các nước A-rập, kế hoạch này còn bao gồm Áp-ga-ni-xtan, I-ran, Pa-ki-xtan, Thổ Nhĩ Kỳ v.v., là những nước nằm trong khu vực có thái độ thù địch đối với Mỹ, trong đó, có các tổ chức hồi giáo cực đoan. Ý đồ của Mỹ là muốn biến các lực lượng hồi giáo cực đoan và chủ nghĩa khủng bố thành “kẻ thù số 1” thay thế Liên Xô đã tan rã. Để tiến hành cuộc “thập tự chinh” trên toàn cầu, Mỹ rất cần dựng lên một đối thủ như vậy (2,5,6).
“Đề án Trung Đông Lớn” của Mỹ nhằm vào một khu vực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không chỉ đối với chiến lược toàn cầu của Mỹ, mà còn đối với nhiều nước lớn khác như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản và các nước châu Âu. Hiện nay, ngoài Mỹ ra, các nước lớn khác, trước hết là Trung Quốc, Nga và Ấn Độ đang tranh giành ảnh hưởng tại đây. Đặc biệt là, ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc ở Trung Đông Lớn, khiến Mỹ hết sức lo ngại. Để thực hiện chủ trương chiến lược không để xuất hiện bất kỳ một quốc gia nào có thể thách thức vị thế lãnh đạo thế giới của Mỹ trong thế kỷ XXI, Mỹ phải “bình định” cho được và kiểm soát khu vực này theo chiến lược “phá để xây”. Nhằm mục đích đó, Mỹ đã thành lập Bộ Chỉ huy châu Phi (AFRICOM) để sẵn sàng thực hiện sử mệnh “bình định” châu Phi và Trung Đông khi cần thiết (8).
Giai đoạn mới thực hiện “Đề án Trung Đông Lớn” ở châu Phi và Trung Đông
Chiến tranh Áp-ga-ni-xtan năm 2001 và chiến tranh I-rắc năm 2003 là giai đoạn đầu tiên thực hiện “Đề án Trung Đông Lớn” của Mỹ. Lấy cảm hứng từ chiến thắng trong chiến tranh I-rắc mà Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ cho rằng đã giành được vào tháng 5-2003, ông tuyên bố Mỹ sẽ xây dựng “Trung Đông Lớn trong thế kỷ XXI”. Để bình định khu vực này, Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ thiên về sử dụng sức mạnh quân sự, hay còn gọi là “sức mạnh cứng”.
Tuy nhiên, tình trạng sa lầy chưa có lối thoát kéo dài gần 10 năm nay ở I-rắc và Áp-ga-ni-xtan đã chứng tỏ chủ trương chiến lược sử dụng “sức mạnh cứng” của Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ đã thất bại. Do đó, sau khi lên cầm quyền ở Mỹ, Tổng thống Mỹ Ba-răc Ô-ba-ma đã có sự điều chỉnh giải pháp, chuyển sang kết hợp cả “sức mạnh cứng” với “sức mạnh mềm”, thậm chí, trong một số trường hợp thiên về sử dụng “sức mạnh mềm”. Đồng thời, để tránh sự phản đối của các nước trong khu vực, ông không dùng khái niệm “Trung Đông Lớn” mà là “Trung Đông Mới” và mở đầu giai đoạn mới thực hiện “Đề án Trung Đông Lớn” ở châu Phi và Trung Đông thông qua các cuộc “cải cách dân chủ” theo chủ trương chiến lược “phá cũ, xây mới” đã và đang được thể hiện trong các cuộc “cách mạng nhung” ở một số nước châu Phi và Trung Đông hiện nay.
Kết quả khảo cứu của nhiều chuyên gia nghiên cứu địa - chính trị, lịch sử và kinh tế Mỹ chứng minh rằng: trong các cuộc “cách mạng nhung” đầy kịch tính ở nhiều nước châu Phi và Trung Đông hiện nay đều có bàn tay dàn dựng, hậu thuẫn và hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ ở Mỹ để thực hiện kế hoạch “bình định” toàn bộ khu vực Trung Đông Lớn nhằm tranh giành tài nguyên và thị trường với các đối thủ cạnh tranh là Trung Quốc, Nga, EU và nhiều nước khác.
Các cuộc bạo động chính trị ở một số nước Trung Đông Lớn đã và đang diễn ra theo đúng kịch bản các cuộc “cách mạng nhung” đã từng diễn ra ở Gru-di-a và U-crai-na trước đây. Thí dụ, ở Ai-cập, lực lượng tiến hành “cách mạng” bao gồm đông đảo thanh niên sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin và mạng Internet có quan hệ gắn bó với các tổ chức phi chính phủ và các mạng xã hội đăng ký hoạt động ở Mỹ, được nhiều tổ chức ở Mỹ, trong đó có Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ đào tạo theo kênh ngoai giao nhân dân từ năm 2001 và được tập hợp thành các phong trào như “Phong trào ngày 6 tháng 4”, “Phong trào vì sự thay đổi ở Ai-cập”, tổ chức “Những người Hồi giáo anh em” v.v.. Công cụ để tổ chức và thực hiện các cuộc “cách mạng nhung” ở các nước Trung Đông Lớn là các mạng xã hội trên Internet. Thí dụ điển hình nhất là lời kêu gọi tổng bãi công trên toàn lãnh thổ Ai-cập và tổ chức “Ngày nổi giận” hôm 25-1-2011 đòi Tổng thống Hô-xni Mu-ba-rắc từ chức được phát đi từ “chỉ huy sở” đặt trên mạng xã hội Facebook và Twitter. Theo tính toán của báo Mỹ “New York Times”, từ năm 2009 đã có khoảng 800.000 người Ai-cập, đa số là thanh niên, sử dụng hai mạng xã hội lớn nhất này (4,6,9).
Tất cả các tổ chức và phong trào quần chúng tham gia các cuộc bạo động chính trị ở các nước châu Phi và Trung Đông đều nhận được sự tài trợ về vật chất và tinh thần của các tổ chức phi chính phủ ở Mỹ như “Quỹ quốc gia ủng hộ dân chủ”, “Viện An-be Anh-xtanh”, “Ngôi nhà tự do”, “Quỹ quốc gia hỗ trợ dân chủ”, “Viện quốc gia nghiên cứu quốc tế của Đảng Cộng hoà”, “Viện quốc gia nghiên cứu quốc tế của Đảng Dân chủ” v.v.. Phát biểu về “Quỹ quốc gia ủng hộ dân chủ”, Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ đã từng nói: “Chừng nào mà “tự do” và “dân chủ” chưa được phát triển ở Trung Đông, thì đó còn là khu vực trì trệ, bất công và bạo lực. Mỹ sử dụng các phương tiện khác nhau để dân chủ hoá, trong đó, có việc can thiệp quân sự, mặc dù được tiến hành bởi các nguyên nhân khác nhau nhằm một trong những mục tiêu cuối cùng là xây dựng một nhà nước “dân chủ”. Tuy nhiên, sự chuyển động của các dân tộc vì cải cách là khả năng tốt nhất để “xúc tiến dân chủ” ở các quốc gia riêng lẻ" (4).
Nhận thức được tầm quan trọng của chiến lược “phá để xây” ở các nước trong khu vực Trung Đông Lớn, Tổng thống Mỹ Ba-răc Ô-ba-ma đánh giá những sự kiện ở Bắc Phi và Trung Đông hiện nay có ý nghĩa giống như sự sụp đổ bức tường Béc-lin năm 1989. Vì thế, nhiều chuyên gia dự báo, các cuộc bạo động chính trị tương tự như ở Bắc Phi và Trung Đông có thể sẽ bùng phát ở Ban Căng, Trung Á và một số khu vực khác trên thế giới trong một cuộc cạnh tranh về địa - chính trị kéo dài và gay gắt trong những thập kỷ tới, liên quan tới cuộc chiến tranh giành giật tài nguyên và năng lượng trên phạm vi toàn cầu. Ông Brê-din-xki, cố vấn của Tổng thống Mỹ Ba-răc Ô-ba-ma, đã từng dự báo trong những năm 1990 rằng, đó là “Bàn cờ lớn” trong thế kỷ XXI (10).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đề án Trung Đông Lớn của Mỹ và vai trò của NATO.
http://inforos.ru/ru/?module=news&action=view&id=21626
2. Thay đổi Trung Đông Lớn
http://www.imperiya.by/club4-9258.html
3. Trung Đông trong chiến lược của Mỹ
http://www.humanities.edu.ru/db/msg/87657
4. Uy-li-am Ăng-đan. Cuộc “cách mạng” ở Ai-cập phải chăng là “phá để xây” Trung Đông Lớn?
5. Dân chủ hóa kiểu Mỹ đối với Trung Đông: điều đó có nghĩa là gì?
http://www.centrasia.ru/newsA.php4?st=1093843140
6.Thực chất của Đề án Trung Đông Lớn là gì?
http://www.inosmi.ru/world/20040625/210712.htmlhttp://www.inosmi.ru/world/20040625/210712.html
7. Yếu tố Mỹ trong các cuộc cách mạng ở các nước A-rập: động viên các lực lượng biểu tình chống chính phủ thông qua hoạt động ngoại giao nhân dân và các mạng xã hội. Trung tâm nghiên cứu Trung Đông hiện đại. Xanh Pê-tec-bua. Năm 2011.
8. Uy-li-am Ăng-đan. Một thế kỷ chiến tranh: chính sách dầu mỏ của Mỹ-Anh và trật tự thế giới mới. NXB Xanh Pê-tec-bua. Năm 2008.
9. Internet-vũ khí của các nhà “cách mạng” mới.
10. Z. Brê-din-xki. Bàn cờ lớn. NXB Chính trị quốc gia. Năm 1999.


(Theo TCCS)