Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

44. Xu hướng hội nhập Tam giáo trong tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVIII

Bài viết bàn về hội nhập tam giáo thế kỷ XVIII ở Việt Nam, hạn định trong phạm vi các hoạt động tư tưởng của nhà nho, coi hội nhập Tam giáo như một biến thiên, điều chỉnh của Nho học.
  Một số từ  then chốt dùng trong bài viết:
Tam giáo : chỉ Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo, trong đó thừa nhận Nho giáo với tư cách một tôn giáo đặc biệt. Trong bài viết có chỗ dùng Nho gia tương ứng với Nho giáo.
Hội  nhập Tam giáo : Người viết không dùng Tam giáo đồng nguyên, mà sử dụng thuật ngữ Hội nhập Tam giáo. Từ trước tới nay nhiều người dùngTam giáo đồng nguyên để chỉ  cái chung, cái không mâu thuẫn, cái hòa hợp của Tam giáo  từ góc độ giải thích nguồn gốc, giống nhau về mục đích và xuất phát điểm. Hội nhập Tam giáo chỉ tính khuynh hướng của  vận động, sự điều chỉnh tư tưởng của Nho, Phật, Đạo diễn ra ở một thời điểm cụ thể, có chủ thể và mục đích xác định.
Bản vị: Vị trí nền tảng, cốt lõi, chủ đạo.
Tịnh hành : Cùng chấp nhận và vận hành không bài trừ lẫn nhau.
Bài viết này bàn về hội nhập tam giáo nhưng góc nhìn hạn định trong phạm vi các hoạt động tư tưởng của nhà nho, coi hội nhập Tam giáo  như một biến thiên của Nho học, điều chỉnh của Nho học mà chưa bao quát các trước thuật của Phật giáo và Đạo gia có liên quan tới  vấn đề này.
1. Khung cảnh hội  nhập Tam giáo
Hiện còn khá nhiều tư liệu đủ để thấy rõ, hội nhập tam giáo là một xu hướng mạnh của tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVIII. Tầng lớp trí thức Nho học, lực lượng hộ trì tư tưởng Nho gia thời kỳ này có những hoạt động thực tiễn và thảo luận tư tưởng có phần xa rời tinh thần của Nho gia chính thống, dung hợp Phật Đạo một cách “ tự nhiên” đến mức khó hiểu.
Ngô Thì Sĩ, một người từng dâng lên chúa Trịnh nhiều bản điều trần  mong muốn chấn hưng nho phong sĩ khí, cầu thực học, theo đuổi kinh thế đúng theo lý tưởng trí quân trạch dân của nhà nho lại là người lập tượng thờ cả ba vị Khổng tử, Thích Ca và Lão tử, viết bài Ký động Nhị Thanh và bài Ký trùng tu đền Tam giáo, lại viết  Sớ hợp tế Tam giáo với tinh thần hoà hợp Tam giáo rất rõ rệt.
Trạng nguyên Nho học Trịnh Tuệ, người mà một cách hợp pháp, được coi là lực lượng đại diện cho bộ mặt tinh thần của Nho sĩ đương thời đã viết Tam giáo nhất nguyên thuyết như một tuyên ngôn về quan điểm hoà đồng tam giáo. Lê Quý Đôn bàn khá nhiều về Phật giáo trong các trước tác. Ngô Thì Nhậm người đã từng thể hiện tinh thần chính thống cao độ nhất của Nho gia đương thời khi viết Xuân thu quản kiến, lại đã viết Đại chân viên giác thanh như một thiền sư thực thụ. Thậm chí ông còn mang hoài bão thành một  người kế tục vẻ vang sự nghiệp của các vị tổ sư đời Trần. Phan Huy Ích viết bài tựa trong Đại chân viên giác thanh với thái độ đồng tình ca ngợi. Lê Hữu Kiều từng theo Phạm Viên tu đạo, cuối đời lại theo nghiệp thờ Phật… Nguyễn Huy Oánh tương truyền có tham gia viết kinh Đạo giáo. Cuối thế kỷ XVIII, người được giới Nho sĩ tôn là La Sơn Phu tử-Nguyễn Thiếp lại dụng tâm luyện đan dược… Những nhân vật nhắc đến ở trên đều là những danh Nho của thế kỷ XVIII, họ là  những người có vị trí quan trọng trong lịch sử Nho học nói riêng và lịch sử tư tưởng thế kỷ XVIII nói chung.
Ngoài ra, có thể thấy các tư tưởng  luân hồi quả báo, nghiệp chướng tình oan, bàng bạc khắp trong các truyện Nôm tài tử giai nhân, truyền kỳ chí quái do các nhà nho đương thời sáng tác. Rõ ràng, các nhà nho thế kỷ XVIII đã có phần rời xa tư tưởng Nho gia chính thống một bước, dung hợp Tam giáo.
2. Hội nhập Tam giáo – cái nhìn lịch đại
Thời kỳ Lý Trần, Tam giáo tịnh hành, hội nhập trên cơ sở lấy Phật giáo làm bản vị. Hội nhập tam giáo thời kỳ này lấy thực hành đạo trị, lấy thiên hạ, tức phương diện chính trị xã hội (cũng đồng thời là vấn đề dân tộc),làm điểm quy kết. Tinh thần bồ tát cứu thế, tinh thần nhập thế hoà quang đồng trần của Phật giáo đời Trần và lý tưởng bình trị thiên hạ của Nho gia gặp nhau, tạo ra trạng thái khoan dung, hợp nhất của tam giáo, là cơ sở cho Phật giáo chấp nhận Nho giáo. Các nhà sư kiêm chính trị gia thời Trần là chủ thể đứng ra tiến hành hội nhập tam giáo. Điểm quy nhập tam giáo này có phần không thuận cho Phật giáo. Đây cũng chính là  khởi điểm để Nho gia ngày càng phát huy sở trường. Nhu cầu đời sống chính trị và xu hướng quan liêu hoá bộ máy cai trị có ý nghĩa  quyết định phá vỡ tương quan Tam giáo thời Trần, chuyển sang thời kỳ Nho giáo chiếm ưu thế  vào thế kỷ XV.
Nửa cuối thế kỷ XV, dưới triều đại Lê Thánh Tông, Nho giáo chiếm vị trí chủ đạo, nổi bật. Từ đây Phật giáo chuyển sang ảnh hưởng chủ yếu trong dân gian, trong nhu cầu tinh thần của dân chúng nói chung, trong đó có cả trí thức Nho học. Phật giáo không bị chối bỏ một cách cực đoan. Mẫu hình tiêu biểu nhất của nhà Nho bác văn ước lễ được xác lập. Phật, Đạo thời kỳ này tồn tại như những nhân tố bổ sung trong đời sống tâm linh. Thực chất giai đoạn thế kỷ XIV-XV là sự sắp đặt lại theo sở trường và ưu thế từng học thuyết. Sự sắp đặt này chỉ có thể thực hiện được khi Nho gia đã có sự phát triển nhất định. Tương quan Tam giáo trong thế trưởng thành của cả tư tưởng và văn hoá dân tộc nói chung chứ không phải là một điểm lùi của tư tưởng. Nho học tách khỏi khối Tam giáo, vươn lên chiếm lĩnh đời sống chính trị xã hội. Phật giáo lui về  chiếm lĩnh phần sinh hoạt dân gian, phong tục tập quán và một phần tư tưởng kẻ sĩ, tâm linh của trí thức. Trong mỗi nhà nho đều có phần ảnh hưởng của Phật Đạo, nhưng trong thời thịnh của Nho học, với tư cách là người hành đạo, người phát ngôn chính thức của tư tưởng thánh hiền họ không thảo luận nhiều về Phật, Đạo. ở những thời điểm đó, cái duy lý, tự lạc của Nho gia về cơ bản đủ sức  đáp ứng những nhu cầu tinh thần của thế hệ nho sĩ dấn thân yêu đời , triều đình tạo cho họ những cơ hội thoả mãn nhu cầu kinh thế, vì vậy việc tìm sang Phật, Đạo về tư tưởng ít có dịp biểu hiện.
Thế kỷ XVI-XVII loạn thế là yếu tố tạo nên những mối quan tâm phức tạp của Nhà Nho. Thời kỳ này, tư tưởng của nho gia ít kiềm toả được nhân tâm. Nhà Nho đứng ra mở rộng hệ thống, tìm tới tư tuởng Phật Đạo như sự điều chỉnh cần thiết để tự thoả mãn.
Vào cuối thế kỷ XVI, ông Trạng nguyên  Nho gia Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết Tam giáo tượng bi minh ở chùa Cáo Dương, huyện Thuỵ Anh (Thái Bình) rằng: “Tôi cũng có lòng thích điều thiện, không dám chối từ. Nhưng tôi là nhà Nho, tuy không được nghe thấu đáo về đạo Phật, đạo Lão, song có đọc rộng suy ngẫm những điều nghi hoặc cũng nắm được một hai về luận thuyết này. Đại loại Phật làm sáng sắc-tâm, phân biệt rõ nhân quả; Đạo Lão chú trọng vào khí đến nhu, nắm cái lý duy nhất giữa bản chất chân thực; Đạo của Khổng tử gốc ở đạo đức nhân nghĩa, văn hạnh trung tín”.
Mục đích của việc hội nhập tam giáo thời kỳ này là chỉnh đốn nhân tâm.  Nhân tâm là vấn đề được cả Tam giáo cùng bàn. Nho gia và Phật  gia đều chú trọng tu dưỡng cá nhân, chế ước nhân tâm. Thời kỳ này hội nhập tam giáo ít có tuyên bố, không rầm rộ, nó được tiến hành một cách lặng lẽ tự nhiên. Vấn đề nhân tâm là mối quan tâm chung, nó là nhịp nối để Nho gia tiến gần tới Phật gia và chấp nhận lẫn nhau. Nho và Phật chấp nhận lẫn nhau ở mục đích. Những tác gia tiêu biểu thời kỳ này là Nguyễn Bỉnh Khiêm; Nguyễn Dữ; Nguyễn Hàng. Các câu chuyện truyền kỳ của Nguyễn Dữ đã vượt bỏ truyền thống “bất ngữ quái lực loạn thần” của nhà Nho từ thời Khổng tử để nói về nghiệp chướng luân hồi quả báo, hoạ phúc sinh tử. Việc viện dẫn các vấn đề tư tưởng của nhà Phật là sự mở rộng về tư tưởng, nhằm  tới mục đích ngăn ngừa nhân tâm, khuyến thiện trừng ác. Về phương tiện và công cụ thì phi nho, nhưng mục đích cũng là hộ đạo, ngăn ngừa nhân tâm, hoàn toàn thống nhất với  mục đích của nho gia. Vấn đề nhân tâm là điểm để  hội nhập tam giáo thế kỷ XVI-XVII.
Đến thế kỷ XVIII, việc hội nhập Tam giáo diễn ra một cách có tuyên bố, có lý luận và nhà nho là người đứng ra làm công việc hội nhập. Điểm quy kết, chỗ dựa và cách thức tiến hành hội nhập cũng có những điểm khác với các giai đoạn trước đó.
3. Nhà Nho: chủ thể tiến hành hội nhập Tam giáo thế kỷ XVIII
Giai đoạn Lý Trần, Nho giáo còn đang ra sức tạo ảnh hưởng, cố vươn lên vị trí độc tôn. Bối cảnh Tam giáo quân bình thời đó là sự buộc phải chấp nhận đối với Nho gia khi mà nó chưa đủ sức để cải thiện vị trí của mình cả trên trường chính trị cũng như xã hội. Tư tưởng tam giáo đồng nguyên, Tam giáo tịnh hành thời kỳ Lý- Trần được thực hiện với bản vị là Phật giáo. Các nhà sư thực hiện việc hội nhập và lưu hành cả Tam giáo.
Người ta có thể dễ dàng nhận thấy những cái mới trong tinh thần kẻ sĩ thế kỷ XVIII. Trong tư tưởng của họ xuất hiện những “mối dị đoan”, đan xen cái chính thống. Nền chung của tư tưởng Nho gia là tư cường tự lạc trong khuôn khổ việc tồn tâm dưỡng tính. Với một nhà nho chính thống, ôn nhu đôn hậu, tình cảm thăng bình, lấy kiểm soát chế ước điều tiết điều tiết tình cảm làm lẽ thường. Họ  vui không thái quá, buồn không bi thương quá. Chí hướng lớn lao của họ là lập mệnh nơi sinh dân, lập thân nơi thiên hạ. Họ có thể tìm được sự thỏa mãn cho nhân sinh trong chính việc hướng tới hoàn thiện cho nhân cách, lấy đạo lý làm thỏa mãn.
Thế kỷ XVIII, trong bối cảnh thời đại có nhiều đổi thay, môi trường văn hóa đô thị và tinh thần thị dân mạnh lên cũng có những tác động tới đời sống tinh thần của họ. Kẻ sĩ thời này không còn khuôn trong chuẩn mực của thời Quang Thuận, Hồng Đức thế kỷ XV nữa. Nhiều danh sĩ có những biểu hiện tình cảm phóng túng. Xem tập thơ Khuê ai lục khóc vợ của Ngô Thì Sĩ có thể thấy ngay cái bi thương thái quá, tình cảm ủy mị quá, không còn hợp với đạo tồn dưỡng tỉnh sát, “ai nhi bất thương” của nho gia. Phạm Nguyễn Du từng viết “Luận Ngữ ngu án” đề cao lối học cầu kỷ thành kỷ, theo đuổi sự hoàn thiện của nhân cách rất chuẩn mực của đạo tu dưỡng, lại cũng chính là người viết tập thơ “Đoạn trường lục” bi thương thảm đạm, tình bi tha thiết, rất khác với cách bộc bạch tình hoài của loại nhà nho bác văn ước lễ.
Hai tập thơ của hai danh nho vừa nêu đã khuôn tình cảm ủy mị trong phạm vi quan hệ vợ chồng, một loại tình yêu trong hôn nhân, nhưng cái tình thể hiện trong đó khiến người ta có thể thấy được xu hướng giải phóng tình cảm, đề cao con người cá nhân, trọng hạnh phúc trần tục. Nếu con đường vận động của Nho giáo từ thế kỷ XIV tới thế kỷ XVI đi theo hướng ngày càng tăng cường ràng buộc nhân tâm trong đạo tu dưỡng nội tỉnh theo chuẩn mực, thì có lẽ tới thế kỷ XVIII chính là thời điểm sự ràng buộc đó bị phá vỡ ở từng mảng. Giai đoạn này xuất hiện một xu hướng giải phóng tình cảm, cá tính, cá nhân rất rõ ràng. Điều này biểu hiện trong các tác phẩm của Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Tông Quai, Nguyễn Khản, Nguyễn Du… Vấn đề nhân sinh được các nhà nho thời kỳ này đặc biệt quan tâm, nó thành vấn đề nổi bật tương tự như vấn đề nhân cách đối với nhà nho thế kỷ XV-XVI. Nhưng cái gọi là giải phóng cá nhân, cá tính, những nhu cầu nhân sinh cần thỏa mãn, ở ta chủ yếu chỉ diễn ra và được làm thỏa mãn bằng cách điều chỉnh trong nội bộ tương quan tam giáo mà thôi. Sự mở rộng từ chuẩn mực tu dưỡng lý tính, đạo lý, khuôn mẫu, hiện thực của Nho gia sang tiêu dao, tự do, theo mô thức Lão Trang đã phần nào đạt tới sự thỏa mãn. Sự siêu thoát tĩnh tịnh của Phật giáo cũng đã có thể bổ sung cho những nhu cầu thoát khỏi ràng buộc của nhân tình hiện thực và những bi kịch của  nhà Nho nảy sinh trong trường chính trị cùng các mâu thuẫn không thể giải quyết trong nội bộ tư tưởng của nho sĩ. Đây là một lý do quan trọng khiến Nho sĩ thế kỷ XVIII chủ động hội nhập Tam giáo.
Thời loạn, thân phận con người trở lên nhỏ bé. Con người với những buồn vui trần tục hơn, sống động hơn. Tinh thần tự lạc, cương cường tha thiết với việc tu dưỡng của Nho gia không phát huy được ảnh hưởng mạnh (đây cũng chính là một lý do khiến Nhà nho thời này kêu ca về Nho phong sĩ khí, kêu gọi chấn chỉnh phong thái Nhà Nho, phục hưng phong khí nhà Nho thời Hồng Đức- khôi phục học phong thời Hồng Đức cũng là khôi phục tinh thần nho gia chính thống, lý tính, mẫu mực, trọng cộng đồng, xã hội, gánh vác và hy sinh. Người ta gọi thế hệ các nhà Nho thời Hồng Đức là thế hệ dấn thân yêu đời). Bối cảnh đó chính là mảnh đất màu mỡ nảy mầm những tư tưởng Phật Lão, là cơ sở cho việc hội nhập Tam giáo thế kỷ XVIII.
4. Căn cứ tư tưởng, cách thức,  và mục đích hội nhập
Một số nhà nho thảo luận về những vấn đề rất cơ bản của lý luận Phật giáo thông qua những phạm trù, những khái niệm của Nho gia. Ngô Thì Nhậm viết Đại chân viên giác thanh chính là theo hướng đó. Ngô Thì Nhậm không đem phần vũ trụ luận của Phật, Lão Trang dung hợp thành các phạm trù của mình, trang bị cho mình như các học giả đời Tống đã làm. Ông chỉ sử dụng các phạm trù mà Tống Nho đã tạo dựng như Tâm, Tính, Lý, Dục để giải thích trở lại các quan điểm triết học của Phật giáo. Điểm này Ngô Thì Nhậm có chỗ thuận lợi vì chính các bản thể, các phạm trù vừa nêu đã được các học giả đời Tống kiến lập trên cơ sở vay mượn  mô thức tư duy và các quan điểm triết học của Phật giáo. Tống Nho đã đem quan niệm về Phật tính trừu tượng để khái quát và trừu tượng hóa về Nhân tính. Giáo sư Trần Đình Hượu rất có lý khi cho rằng cách làm của Ngô Thì Nhậm không vượt ra ngoài quỹ đạo của Chu Hy[i]. Tuy nhiên cũng cần ghi nhận đây là một cố gắng dung hợp Tam giáo ở tầng thứ nhận thức bản thể.
Trịnh Tuệ cũng sử dụng các phạm trù của Tống Nho để chứng minh cho cái tương đồng giữa Tam giáo.Công việc này hướng tới quán thông các con đường tu dưỡng và thực hành Đạo của Tam giáo trong một chữ Lý của Nho gia. Ông nói: “giữ Tâm nuôi Tính, rồi suy ra mà dựng đặt những cương lĩnh lớn, giúp đỡ cho nền hoá dục lớn, đó là Lý của Nho. Tỏ rõ Tâm Tính rồi đi đến chỗ phổ độ chúng sinh, thoát ly bể khổ, đó là Lý của nhà Phật. Sửa mình luyện Tính rồi đi đến chỗ vượt ra ngoài sự vật, đứng ra ngoài cõi trần đó là Lý của Đạo gia” (Tam giáo nhất nguyên thuyết).
Trong khung cảnh hội nhập Tam giáo, hội nhập từ góc độ nhận thức bản thể là khái quát có tính chất nhận thức quy luật chung của  tâm tính học như vừa nêu trên nhìn chung là không phổ biến. Sự hội nhập thường được giải thích và tiến hành nhiều hơn ở góc độ tính thực tiễn thiết dụng của các giáo trong Tam giáo. Lợi ích thực tiễn có lẽ là đòi hỏi chính, là điểm  quy kết Tam giáo.
Để có thể chứng minh Tam giáo là không mâu thuẫn, có thể quy chúng về một dòng, các nhà Nho đã đi tìm những căn cứ, những chỗ dựa. Họ không ngần ngại khi giải thích một cách “hoang đường” nguồn gốc xuất thân của ba vị tổ của ba giáo theo quan niệm luân hồi, hoán kiếp. Trịnh Tuệ nói rằng tiền thân của Lão tử là Ca Diếp bồ tát, Thích ca có liên hệ tiền kiếp với Đế Thuấn, còn Khổng tử tiền thân là Nho đồng Bồ tát[ii].
Các nho sĩ cho rằng cả tam giáo đều có chung mục đích ra đời là cứu thế, chống loạn, đề cao cuộc sống và giá trị sinh mệnh con người. Xuất phát điểm đó là chung, là giống nhau. Từ gốc chung đó, tam giáo có con đường thực hiện, phương pháp thực hiện, cách thức tu dưỡng khác nhau, nhưng điểm cuối cùng hướng tới lại giống nhau. Điểm chung hướng tới đó là ngăn ngừa nhân tâm, làm tâm tính con người hướng thiện, làm thiện. Cái đó gọi là đồng quy nhi thù đồ. Nhân tâm  tiếp tục là điểm quy kết, là  nút mở thắt sự hội nhập.
Một chỗ dựa đáng tin cậy của các tôn giáo là hệ thống kinh điển. Muốn chứng minh Tam giáo là không mâu thuẫn, các nhà Nho thế kỷ XVIII cũng cố tìm trong kinh điển những chỗ giải thích cho tư tưởng của tôn giáo khác. Trịnh Tuệ trong Tam giáo nhất nguyên thuyết ra sức chứng minh trong giáo lý nhà Phật có dạy chuyện Hiếu Đễ, chứ không phải bất trung bất hiếu như người đời nhầm tưởng. Lại chứng minh trong kinh điển của Nho gia (Dịch) có chuyện hoạ phúc báo ứng, thiên đường địa ngục… Như vậy cũng có thể thấy, Nho gia lấy luân lý của Nho gia là phương tiện quy kết Tam giáo.
Để kéo Phật giáo lại gần Nho giáo hơn, họ đã ra sức khuếch trương mặt nhập thế của Phật giáo, tức khiến người làm thiện. Trịnh Tuệ viết: “Nói về mặt giáo, tuy có phân biệt làm ba, nhưng nói về mặt lý thì sự quy kết chỉ có một- “ một” đó là gì? là khiến người làm thiện mà thôi”. Vị trạng nguyên đó nói tiếp: “ Ba giáo vẫn là một môn, ba dòng vẫn là một lý; vốn không phải như nước lửa, giá than, đen trắng, ngọt đắng có tính chống lại nhau”[iii].
Các nhà Nho cũng cố gắng tìm kiếm một lối mở thông giữa Tam giáo, lối mở thông đó được quan niệm là Đạo, là Đạt Đạo, chỉ những trí thức trình độ cao, nhận thức đến độ nào đó thì thông quán được cả Tam giáo, các môn đồ tầm thường của cả Tam giáo thì chỉ có thể thấy những cái khác nhau giữa Nho- Phật-Đạo mà thôi. Lối mở thông đó cũng chính là mục đích thực tiễn của cả Tam giáo, tức khuyến thiện trừng ác, giáo giới nhân tâm. Điểm này được các nhà nho đặc biệt lưu ý khi tiến hành công việc hội nhập Tam giáo.
Có thể nói nhà nho là những người chủ động hội nhập Tam giáo, từ thế giới quan của Nho gia để nhìn nhận Phật Đạo. Nhà Nho đã giữ thái độ khoan dung, chấp nhận, hoặc coi Phật Đạo như những bộ phận của mình. Cách thức hội nhập như vậy khó đảm bảo sự khách quan và đối đãi bình đẳng. Ngô Thì Sĩ nói: “Phật và Lão chỉ là tên khác thôi, thực ra cũng là Nho cả”… “Đạo Phật và Đạo Lão cũng ở trong phạm vi của Khổng phu tử ta”[iv]. Phan Huy Ích thì coi: “tám bộ Phạn Vương (Phật) không ra ngoài cung tường của Tổ Vương (Khổng Tử)[v] Khi phải “sắp chỗ ngồi” cho ba vị thánh của Tam giáo, nhà Nho dành vị trí cao nhất, tôn quý nhất cho Khổng tử, còn hai vị Phật và Lão chỉ chiếm hai chỗ phụ phối tả hữu. Bài Ký trùng tu đền Tam giáo của Ngô Thì Sĩ còn ghi rõ điều này. Trong bài Sớ hợp tế Tam giáo, Ngô Thì Sĩ cũng coi Khổng tử là “Thánh sư thứ nhất” còn Phật, Lão là “ Hai vị thánh sư thứ hai”.
Nhà Nho khi làm công việc hội nhập Tam giáo,  ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tư tưởng, vượt ra ngoài sự câu thúc hạn hẹp của tư tưởng Nho gia, một cách tự giác, có tính toán, họ coi đây là một hình thức để  tự bảo vệ vị trí chủ cán của Nho gia. Ngăn chặn ảnh hưởng bằng cách thu nhập nó vào mình, không để chúng thành lực lượng đối lập là điều nhiều nhà Nho thời kỳ này ý thức đến. Nhà Nho nói nhiều về hội nhập, về hòa đồng, nhưng là sự hội nhập và hòa đồng có chính phụ, có thứ bậc và dĩ nhiên Nho giáo phải là chủ đạo. Ngô Thì Sĩ phân tích  rõ ràng mục đích thực dụng của việc hội nhập: “Ngay những môn đồ của hai đạo ấy (Phật, Lão) cũng không biết rằng hai ông tổ của hai đạo ấy vốn được Khổng tử khen, lại bài bác đạo Nho, coi đạo Nho như cừu địch, cố tìm những cái tủn mủn cặn bã cho là cái bệnh của  nhà Nho, rồi công kích đạo Nho, vậy thì để cho các đạo chia từng môn, đi từng đường khác nhau, rồi sinh ra mâu thuẫn lẫn nhau, không biết đâu là lẽ phải, chính đạo thì bị lu mờ, mà đạo Phật đạo Lão thì thịnh hành, đó là do cái  lối hủy báng đạo Phật đạo Lão gây nên vậy”[vi]. Cái đúng sai trong lý lẽ của Ngô Thì Sĩ cũng là điều đáng bàn, tuy nhiên chúng ta đặc biệt quan tâm chính là mục tiêu bảo vệ, chấn hưng Nho giáo mà các nhà Nho hướng tới việc hội nhập, mở rộng hệ thống.
Phan Huy Ích còn nói về vấn đề này với thái độ nhiệt thành với đạo Nho hơn cả Ngô Thì Sĩ: “Những học giả trên đời cứ bám lấy cái hình tích thô sơ mà ngày ngày mâu thuẫn với đạo Phật, để cho những kẻ nâu sồng đứng riêng làm một môn hộ, thành ra bên ngoài sự lưu hành mênh mang khắp nơi của đạo ta, lại có Phật song song đứng ngang hàng”[vii]
Có thể nhận thấy tương đối rõ xu hướng  hội nhập tam giáo thời kỳ này trong dòng vận động của Nho học, trong thảo luận của nội bộ các nhà Nho.  Ngoài mục đích để chấn hưng Nho học như họ bày tỏ, có thể cảm nhận được những nhu cầu, những biểu hiện mà ngôn từ của họ không nói hết. Nó chính là những nhu cầu nhân sinh, nhu cầu của cá nhân, của tâm linh kẻ sĩ một thời.
Lời kết:
Hội nhập tam giáo thế kỷ XVIII đối với nhà nho là một sự điều chỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu củng cố chính vị trí của Nho giáo. Nó là con đường để tự cường Nho giáo, công việc này có phần giống như các học giả Đường Tống đã từng làm. Nó không  phải là sự suy yếu, hay khủng hoảng của Nho giáo, mà là cách khôi phục vị trí trung tâm, chủ cán của Nho giaó trong đời sống tư tưởng và văn hoá. Nó chứng tỏ sức dung hợp mở rộng của Nho giáo. Cũng có nghĩa, nó chứng tỏ sức sống của Nho giáo. Chúng ta cần đặt việc hội nhập Tam giáo trong các hoạt động chung của Nhà Nho thời kỳ này-hai dòng truyền thống và cách tân trong Nho học thế kỷ XVIII.
Hội nhập tam giáo thể hiện sự điều chỉnh, biến thiên của tư tưởng thế kỷ XVIII. Nó chứng tỏ Nho giáo chính thống được chấp nhận ồ ạt thế kỷ XV chưa phải là lời giải đúng nhất cho xã hội Việt Nam. Khả năng chấp nhận của Việt Nam không thiên về một cực, mà cần sự dung hoá bổ sung. Nó chứng tỏ cái duy lý của tư tưởng Nho gia trong thời loạn không đủ sức chế ước nhân tâm. Con đường của Phật Đạo có thể bổ sung cho mục đích bình ổn nhân tâm cho nên Nhà Nho lựa chọn.
Sự lựa chọn Tam giáo có chung mục đích là phòng phạm nhân tâm, vãn hồi nhân tâm. Đây là điểm chung dễ được chấp nhận trong Tam giáo. Nho gia vốn   không nói chuyện thiên đường địa ngục, không nói chuyện quỷ thần. Tu thân nội tỉnh tự lạc tự giám có thể giải quyết được tất cả. Nhưng nó là duy lý, ở những thời điểm nhất định, nhất là trước những biến động lớn về chính trị xã hội, khi niềm tin có chỗ không chuyên nhất, lúc  đó điều chỉnh cũng là phép quyền biến của Nho gia. Tuy nhiên quyền biến thế nào  đi nữa, nhà nho  cũng không bao giờ xa rời mục đích chung cục: Nhân tâm.
Sự điều chỉnh sang Phật- Đạo của Nho gia cũng còn do một lý do khác, sự  gia tăng mối quan tâm tới các vấn đề nhân sinh, xuất hiện thêm những nhu cầu mới mẻ của con người. Đường hướng chính của sự thay đổi này là ý thức của con người cá nhân mạnh lên. Tinh thần người sĩ phu tự nhiệm gắn tu thân sửa kỷ đã có sự thay đổi, điều chỉnh.
Bài viết này mới chỉ dừng ở việc phác thảo về khung cảnh hội nhập Tam giáo thế kỷ XVIII, từ một  điểm để nhìn cái toàn thể, từ một khâu để đoán định cả lịch trình. Người viết cho rằng, ở Việt Nam, khung cảnh Tam giáo tịnh hành bổ sung mới là khung cảnh chung nhất của lịch sử tư tưởng Việt Nam thời kỳ trung đại, là đời sống tinh thần nói chung của Nho sĩ. Ở mỗi thời kỳ nhất định, một trong Tam giáo nổi lên vị trí chủ đạo. Nhưng nhìn chung nó là đa cực, là tương hỗ bổ sung chứ không phải nhất cực độc tôn của bất kỳ một giáo nào.
Hà Nội đông 2004
 
 
-------------------------------------
[i] Trần Đình Hượu: Về xu hướng Tam giáo đồng nguyên trong “Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh”, TC Triết học số 4, 1986, tr.103.
[ii] Trịnh Tuệ- Tam giáo nhất nguyên thuyết
[iii] như trên, đã dẫn.
[iv] Ngô Thì Sĩ- Ký Động Nhị Thanh
[v] Phan Huy Ích:-Tựa Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh
[vi] Ngô Thì Sĩ- Ký Động Nhị Thanh
[vii] Phan Huy Ích:-Tựa Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh
  Nguyễn Kim Sơn
Nguồn: Tham luận tại Hội thảo quốc tế về Nho giáo tại Việt Nam do Học viện Harvard Yenching (Hoa Kỳ) phối hợp với Viện nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam tổ chức, tháng 12 năm 2004.

43. Về bản chất của nghệ thuật


05/04/2012
Nghệ thuật là mô hình của đời sống, và sự khác biệt giữa mô hình và đời sống là rất lớn. Vì thế, tội ác trong nghệ thuật là sự tìm hiểu về tội ác, còn trong cuộc sống thì chỉ có tội ác mà thôi. Một đằng là miêu tả sự vật, đằng kia là bản thân sự vật. Và vô khối truyền thuyết về cách nghệ sĩ tạo ra các tác phẩm không tách rời đời sống, thay nghệ thuật bằng chính đời sống thì chỉ nảy sinh trong giới hạn của quan điểm ngây thơ đối với nghệ thuật (Yuri Lotman)
                                                                                                                 Yuri Lotman
Khoa học và nghệ thuật giống như hai mắt của văn hoá con người. Chính sự khác nhau của chúng (và cả sự bình đẳng về giá trị của chúng nữa) đã tạo ra nội hàm kiến thức của chúng ta. Không nên quy nghệ thuật vào lĩnh vực đùa vui hay minh hoạ dễ dãi cho các tư tưởng đạo đức cao siêu. Nghệ thuật là hình thức của tư duy, thiếu nó ý thức con người sẽ không tồn tại, cũng như không thể tồn tại ý thức với chỉ một nửa bán cầu đại não.
Hình như khoa học chỉ nghiên cứu những gì lặp lại và có tính quy luật. Đó là một trong những nguyên tắc cơ bản của khoa học. Khoa học không nghiên cứu cái ngẫu nhiên. Tất cả những cái có quy luật là những cái mà người ta có thể dự đoán một cách đúng đắn. Cái ngẫu nhiên thì không lặp lại và không thể dự đoán. Vậy chúng ta sẽ nhìn nhận lịch sử như thế nào? Chúng ta nhìn thấy trong lịch sử những lặp lại răm rắp như quy luật sắt và bảo: thế nào là tự do? – Tự do là cái tất yếu đã được nhận thức. Trong trường hợp đó chúng ta có khả năng hiểu được những gì tất yếu sẽ phải xảy ra một cách khách quan, và đó là tất cả tự do của chúng ta. Lúc đó chúng ta quả đã thu nhận được một tuyến vận động có tính chất định mệnh của nhân loại, có được hệ quy chiếu và quy luật của vận động thì chúng ta có thể tính ra được tất cả mọi điều cho đến tận cùng. Nếu không tính được như thế có nghĩa là chúng ta còn thiếu thông tin.
Nhưng Prigoring cho thấy thực tế không như vậy. Các quá trình được dự báo vận động theo quy luật đã tính trước. Rồi sau đó mới xuất hiện cái điểm, khi sự vận động đạt đến chỗ không thể dự báo, và đó là chỗ giao nhau của ít nhất là hai, mà  thực tế là vô vàn con đường. Nếu trước đó chúng ta bảo có thể tính được xác suất bắt gặp một đường nào đó, nhưng chính ở đó, theo Prigoring, tính xác suất không tác động, mà do cái ngẫu nhiên tác động.
Khi chúng ta nhìn về phía trước, ta sẽ thấy những cái ngẫu nhiên. Nhìn lại  phía sau thì những ngẫu nhiên ấy lại trở thành quy luật. Vì thế mà nhà lịch sử hầu như luôn luôn nhìn thấy quy luật và do đó anh ta không thể viết được cái lịch sử như nó đã không xảy ra. Thế nhưng trên thực tế, theo quan điểm này, thì lịch sử chỉ là một trong vô vàn con đường có thể đi. Một con đường đã đi đồng thời là một sự đánh mất các con đường khác. Chúng ta lúc nào cũng tìm được một cái gì và đồng thời đánh mất một cái gì. Mỗi bước ta đi tới đều là một sự đánh mất. Và thế là chính ở đây ta bắt gặp tính tất yếu của nghệ thuật.
Nghệ thuật cung cấp cho ta cuộc đi trên những con đường mà ta đã không trải qua, tức là những gì đã không xảy ra. Thế mà lịch sử của những điều không xảy ra lại là một lịch sử vĩ đại và rất quan trọng. Nghệ thuật bao giờ cũng là một khả năng thể nghiệm cái chưa bao giờ trải qua: trở về quá khứ, hành động lại và làm lại theo theo cách mới. Nghệ thuật là kinh nghiệm về những điều chưa xảy ra. Hay là kinh nghiệm về những cái có thể xảy ra. Từ xưa, Aristotle đã hiểu được mối liên hệ sâu sắc nhất của nghệ thuật với lĩnh vực của cái khả nhiên. Nhà văn, chẳng hạn, không bao giờ miêu tả toàn bộ nhân vật của mình. Thông thường, anh ta chỉ nắm bắt một vài chi tiết. Mọi người đều nhớ nhân vật Oneghin của Pushkin có chi tiết anh ta cắt tóc theo mốt mới nhất, nhưng kiểu tóc ấy như thế nào, màu tóc ra sao thì không thể biết, còn Pushkin thì không thấy những cái đó có ý nghĩa gì. Nhưng nếu chúng ta đưa Oneghin lên màn ảnh, thì bắt buộc phải hình dung hết các chi tiết đó và nhiều chi tiết khác nữa. Tức là cung cấp những điều không có ở tác phẩm của Pushkin để chuyển sự miêu tả bằng lời thành miêu tả bằng thị giác. Trên màn ảnh nhân vật phải hoàn chỉnh hơn, vật thể hoá hơn, được thể hiện đầy đặn hơn. Và vấn đề không phải do mỗi người đọc có một quan niệm của mình về nhân vật tiểu thuyết, mà quan niệm ấy không phù hợp với đặc điểm của nhân vật màn ảnh. Hình tượng ngôn từ có tính hư ảo hơn. Nó sống trong ý thức người đọc như một nhân cách mở, chưa hoàn thành, chưa được thể hiện trọn vẹn. Nhân vật sống và chống lại sự vật thể hoá nó hoàn toàn, rốt ráo. Bản thân nhân vật sống như một khả năng, đúng hơn, như một búi khả năng. Có lẽ vì thế mà các đạo diễn của chúng ta dễ dàng đưa các tiểu thuyết Mĩ lên màn ảnh, còn đạo diễn Mĩ lại dễ dàng đưa tiểu thuyết Nga lên màn bạc của họ, bởi vì ở đây không có những nhân vật mở, mà chỉ có các công thức văn học sáo mòn. Chúng ta biết cách nhìn của người Mĩ, còn họ cũng biết rất rõ cách nhìn của chúng ta.
Hay như vấn đề phục chế. Khôi phục lại hình ảnh ban đầu của một công trình văn hoá nào đó là một việc hết sức phức tạp. Không chỉ phức tạp do chỗ các hình dáng ban đầu ấy chưa ai nhìn thấy. Mọi cố gắng mang lại đôi tay cho nàng Venus Milo đều thất bại vì chẳng thú vị gì. Chúng ta thất bại ngay từ đầu. Vì sao thế? Vì trong ý thức chúng ta nàng Venus ấy  không có tay, còn Venus Nike thì không có đầu. Và khi khôi phục các phần không có ấy chúng ta đã phá hủy không chỉ bản thân các pho tuợng mà còn phá hủy một cái gì khác không kém phần quan trọng. Một ví dụ giản đơn. Chẳng hạn ở Leningradngười ta đã phục chế cung điện Menshikov. Rất tốt, rất đáng yêu, có lẽ là khá giống với cung điện thời Menshikov còn sống. Nhưng, phải biết là trong cung điện ấy có một khu vực của Kađê[1], ở đấy một thế hệ người đã học tập. Người ta đem những người của đảng Tháng Chạp bị thương vào đấy để thuốc thang. Ngay từ lúc ấy người ta nhìn cung điện này theo một cách khác. Và tại sao Menshikov - điều đó đã hẳn là lịch sử, thế còn Akhmatova, người đã đi qua cung điện này, và đã nhìn thấy nó khi chưa được phục chế – điều đó không phải là lịch sử hay sao? Chúng ta biết rất rõ đống gạch vụn thời Trung đại châu Âu đã đóng góp cho văn hoá của chủ nghĩa lãng mạn châu Âu như thế nào. Chính là đống gạch vụn. Cái vắng mặt ở đây được cảm thấy mãnh liệt hơn là cái hiện có, còn cái khiếm khuyết ngẫu nhiên của các công trình văn hoá sẽ trở nên hiệu quả, chứa đựng những khả năng ý nghĩa khác mà văn bản hoàn chỉnh ban đầu không có được.
Chúng ta sẽ nói đến tính không thể dự đoán trước của các vận động diễn ra trong thế giới vào thời điểm nhất định, và nói đến các thời điểm có thể dự đoán được, chúng thay thế nhau bằng những cuộc bùng nổ mà kết quả của chúng thì chúng ta không thể dự đoán hết được. Điều đó đặc biệt quan trọng đối với lịch sử nhân loại, nơi mà sự thâm nhập của ý thức sẽ làm gia tăng mức độ tự do, và do đó, gia tăng mức độ không thể dự đoán trước. Nơi chúng ta có cái thiện thì ở đó chắc chắn có cả sự nguy hiểm của cái ác, bởi vì cái thiện chỉ là một  lựa chọn. Và vì thế, với ý nghĩa này nghệ thuật chứa đựng trong lòng nó sự nguy hiểm. Ađam trong Kinh Thánh, sau khi được lựa chọn đã nhận được cả khả năng phạm tội, làm tội ác. Nơi nào có tự do lựa chọn ở đó có tính trách nhiệm. Vì thế nghệ thuật có được sức mạnh đạo đức cao nhất. Chúng ta thường hiểu sức mạnh đạo đức của nghệ thuật rất hời hợt. Quan niệm thông thường là con người đọc một cuốn sách hay và trở thành người tốt. Khi đọc mà gặp chỗ nhân vật xử sự không tốt, thì người đọc sẽ trở nên xấu. Vì thế chúng ta nói những cuốn sách có các nhân vật xấu, tốt nhất là không nên đọc. Hình như chúng ta muốn nói rằng, nhờ không biết đến các hành vi xấu nên con người sẽ không làm các hành vi ấy. Nhưng cái không biết chẳng bao giờ cứu vớt được ai. Sức mạnh của nghệ thuật nằm ở chỗ khác. Nó cho chúng ta sự lựa chọn ở nơi mà cuộc sống không cho ta lựa chọn. Vì thế chúng ta được lựa chọn trong phạm vi nghệ thuật rồi chuyển nó vào cuộc sống. Từ đó sẽ xuất hiện một vấn đề hết sức nghiêm túc, một vấn đề luôn luôn đặt ra cho nhà đạo đức và đặt ra một cách có cơ sở: cái gì nghệ thuật có thể làm và cái gì nghệ thuật không được làm? Nghệ thuật – đó không phải sách giáo khoa, không phải sách hướng dẫn đạo đức. Chúng ta cho rằng nghệ thuật hiện đại rất nguy hiểm, vì ở đó có nhiều cái xấu. Nhưng hãy xem Shakespeare. Chúng ta đọc gì trong các bi kịch của ông? Sự giết người, tội ác, sự trả thù đẫm máu. Trong một vở bi kịch có người bị móc mắt, trong một vở khác có kẻ cắt lưỡi và chặt hai tay người phụ nữ vừa bị hiếp dâm. Đó là hành động thú vật. Nhưng trong nghệ thuật thì điều đó hình như có thể chấp nhận. Chẳng ai trách cứ Shakespeare là thiếu đạo đức cả. Quả là có lúc người ta đã  lên án như thế. Các nhà lãng mạn Đức khi dịch kịch của Shakespeare đã cắt bỏ các cảnh ấy. Khi Giukovski còn trẻ, và sau này như ông từng tự nói, là người cha và là người che chở cho mọi người dũng cảm trong thơ ca Nga, đã nhắc nhở một người bạn, nhà thơ thiên tài nhưng mất sớm là A. Turghenhev hãy vứt bỏ cảnh phù thuỷ trong Macbeth. Lẽ nào một người có tư tưởng khai sáng mà lại có thể nhìn trên sân khấu một mụ phù thuỷ – thực ra là sự dã man, ngu muội. Điều đó Shakespeare chỉ làm được trong cái thời đại khủng khiếp, còn khi đã có Voltaire rồi thì ai còn viết như thế nữa? Mọi người có thể sẽ cười chết đi được! Chỉ mới các nhà lãng mạn thôi, còn về sau thì bản thân Giukovski đã hiểu rằng, cái hoang đường, sự khủng khiếp, nỗi sợ hãi, các tội ác… đều có thể là đối tượng của nghệ thuật.
Nhưng tại sao sự giết người khi là đối tượng của nghệ thuật không trở thành lời kêu gọi giết người? Nghệ thuật muốn giống với đời sống nhưng nó không phải là đời sống. Và chúng ta không bao giờ nhầm lẫn hai cái đó với nhau. Chuyện tiếu lâm về một người muốn cứu nàng Desdemona trên sân khấu đã chứng tỏ không thể đồng nhất hai thứ đó với nhau được, đó chỉ là sự vô tri về nghệ thuật mà thôi.
Nghệ thuật là mô hình của đời sống, và sự khác biệt giữa mô hình và đời sống là rất lớn. Vì thế, tội ác trong nghệ thuật là sự tìm hiểu về tội ác, còn trong cuộc sống thì chỉ có tội ác mà thôi. Một đằng là miêu tả sự vật, đằng kia là bản thân sự vật. Và vô khối truyền thuyết về cách nghệ sĩ tạo ra các tác phẩm không tách rời đời sống, thay nghệ thuật bằng chính đời sống thì chỉ nảy sinh trong giới hạn của quan điểm ngây thơ đối với nghệ thuật.
Nhưng nghệ thuật bao gồm một phạm vi rộng lớn, bên cạnh nó còn có cái nửa nghệ thuật, có cái hơi giống nghệ thuật và cả cái hoàn toàn không phải là nghệ thuật. Đó là phạm vi mà nghệ thuật giao nhau với cái không phải nghệ thuật. Ví dụ, ảnh nghệ thuật và không phải nghệ thuật. Cả hai đều chụp người lõa thể. Ở bức ảnh phi nghệ thuật người phụ nữ lõa thể chỉ là lõa thể, ngoài ra không có gì, không có ý nghĩa của lõa thể. Ở bức ảnh nghệ thuật thì người phụ nữ lõa thể có thể biểu hiện: vẻ đẹp, sự bí ẩn ma quái, sự tinh tế, sự tao nhã, sự cô đơn, tội ác, sự trác táng… Có thể miêu tả các thời đại khác nhau, có các ý nghĩa văn hoá khác nhau, vì ảnh là kí hiệu, và chúng ta có thể nói ảnh ấy có ý nghĩa gì (Ví dụ chúng ta khó có thể nhìn một người lõa thể rồi hỏi người ấy có ý nghĩa gì!). Như vậy khi chúng ta nhìn một hình ảnh lõa thể được vẽ, chụp, chạm, khắc… đều có thể hỏi hình ảnh đó có ý nghĩa gì. Hay (thô thiển hơn, nhưng vẫn đúng) là nêu vấn đề: tác giả muốn nói gì qua hình ảnh ấy? Sự trả lời sẽ là vô cùng khó, bởi vì nghệ thuật bao giờ cũng chứa đựng trong mình ít nhiều bí ẩn, là sự tái hiện một quan niệm nào, che giấu một cách nhìn nào đó với đời sống. Nó vô tận về phương diện ý nghĩa, không thể nói ra được trong một câu, một lời. Trong khi đó ta lại hỏi có ý nghĩa gì một bức ảnh chỉ chụp một người phụ nữ cởi truồng, không mặc áo quần, thì chỉ có thể trả lời được trong trường hợp ta đã có rung cảm về nghệ thuật. Một chuyện tiếu lâm kể: Có một người đứng giữa đường, một người chạy qua, đập vào mặt anh ta rồi bỏ chạy. Người đứng kia suy nghĩ rất lâu rồi hỏi, không hiểu anh ta đánh tôi nhằm biểu hiện cái gì. Trên sân khấu điều đó là một thông báo có ý nghĩa, còn trong cuộc sống đó chỉ là chất liệu để thông báo chứ bản thân không phải là thông báo. Điều đó cho thấy một sự khác biệt căn bản.
Nghệ thuật thế kỉ XX với “tính chụp ảnh” của nó, với khát vọng về tính chính xác, dù điều đó rất lạ lùng, đều dẫn đến chỗ là càng mô phỏng thực tại thì càng nhiều tính ước lệ. Mô phỏng cuộc sống quá mức thì cũng khác biệt với cuộc sống quá mức. Nghệ thuật thế kỉ XX đã đạt được sự gần gũi với đời sống (nhờ khả năng kĩ thuật) đồng thời tạo ra sự khác biệt lớn. Do đó nghệ thuật càng hướng tới đời sống thì nó càng phải ước lệ nhiều hơn nữa.
Khi chụp ảnh và các thành tựu kĩ thuật đầu tiên đi vào nghệ thuật thì các nghệ sĩ điện ảnh bắt đầu chán nản thật sự. Hình như đối với họ nghệ thuật đã chết, thay vào đó là sự giống đời sống như thật. Cú sốc lớn hơn đối với nghệ thuật là kĩ thuật âm thanh. Đối với điện ảnh âm thanh trước hết là một thành tựu kĩ thuật, chứ chưa phải là một nhu cầu bức thiết của nghệ thuật.  Phim câm lúc ấy đã đạt được trình độ rất cao, các nhà làm phim cảm thấy thù địch với âm thanh. Chaplin cho rằng âm thanh sẽ làm tầm thường các nhà làm phim, và các phim có âm thanh đầu tiên của ông được tạo ra nhằm chống lại âm thanh, ông để cho diễn viên nói những lời không có trong ngôn ngữ nào cả, họ cứ nói líu lô mà không biết là nói tiếng gì. Chỉ sau đó Chaplin mới bắt đầu nắm bắt ngôn ngữ như là một phương tiện nghệ thuật. Nhưng khi sử dụng âm thanh vào nghệ thuật thì cũng phải chịu mất mát. Cuộc sống rất ít khả năng chiếm lĩnh bằng kĩ thuật mà chỉ chiếm lĩnh bằng nghệ thuật. Và mỗi phát minh mới đối với nghệ thuật đồng thời là một cơn bệnh trong khi trưởng thành. Đó là điều cần phải khắc phục và chấp nhận.
Blôc bắt đầu bước vào điện ảnh từ thời Cách mạng, ông nắm bắt hình ảnh dân chủ của đời sống khi ông bước ra khỏi xe ngựa và bước lên xe điện. Ông ngạc nhiên: đó là một thế giới khác, và ông viết rằng khi vừa vào xe điện mà đầu đội mũ kêpi, thì chỉ chực va vào người khác. Đó hoàn toàn là một hành vi khác. Và nhà điện ảnh bước vào nghệ thuật.
Xảy ra một chuyện thú vị: nghệ thuật khi đi vào lĩnh vực không phải nghệ thuật bao giờ nó cũng đông cứng lại, bị dung tục hoá, bị nhân bản nhiều lần, trở thành sao chép… Và các dạng thức này của nghệ thuật chỉ là cái cận nghệ thuật, nó có thể mô phỏng nghệ thuật cao cấp, nghệ thuật tiến bộ, hay phản động tuỳ theo đơn đặt hàng ở “bên trên”, ở “bên dưới” hay ở “bên cạnh”. Nhưng các dạng thức này bao giờ cũng là mô phỏng. Đôi khi chúng có ích như là ích lợi của dưa hấu, của sách giáo khoa (bởi vì không phải lúc nào cũng có thể nghe được một bản giao hưởng hay, phức tạp). Nhưng đồng thời chúng đem lại một thị hiếu tầm thường cho công chúng, chiếm chỗ của nghệ thuật đích thực. Còn nghệ thuật mô phỏng thì bắt chước dễ hơn, dễ hiểu hơn và vì thế mà thật là một sự đau đớn. Do đó sự lan tràn của nghệ thuật đại chúng bao giờ cũng là điều đáng lo ngại. Nhưng mặt khác, nghệ thuật mới, cao cấp do đâu mà ra? Nó không mọc lên từ nghệ thuật cao cấp cũ. Và nghệ thuật, dù điều này có vẻ lạ lùng như thế nào, cũng mọc lên từ sự dung tục, sự rẻ tiền, từ mô phỏng, từ phi nghệ thuật, từ những gì làm hỏng thị hiếu nghệ thuật – từ những cái đó bỗng mọc lên nghệ thuật mới. Akhmatôva viết: “Nếu anh biết rằng câu thơ mọc lên từ loại rác nào, thì anh không khỏi xấu hổ”. Nghệ thuật ít khi mọc lên từ sự trau chuốt, từ thị hiếu tốt đẹp, từ hình thức có sẵn, nó mọc lên từ rác. Và như vậy, bất ngờ mọc lên ngành điện ảnh, là cái từ sự giải trí hết sức tầm thường mà trở thành nghệ thuật số một của thế kỉ chúng ta (từ đầu cho đến ba phần tư thế kỉ XX nó vẫn là hàng đầu, nhưng hình như đến bây giờ nó đã mất vị trí ấy). Còn trước đó giữ vị trí đó là opéra. Từ bên lề của nghệ thuật opéra đã tạo ra cho thời đại những Varner, Chaikovski, và cùng với tiểu thuyết, nó trở thành nghệ thuật số một. Nghệ thuật dường như chạy đuổi nhau. Lúc thì nghệ thuật này lùi lại, lúc thì nghệ thuật kia vượt lên, buộc nghệ thuật khác phải bắt chước nó. Đó là tiểu thuyết thế kỉ XX mà cả hội hoạ, sân khấu đều bắt chước. Sau đó với thời đại của các nhà tượng trưng chủ nghĩa, tiểu thuyết lùi lại sau để cho thơ vượt lên hàng đầu.
Nghệ thuật là cỗ máy phức tạp nhất mà con người đã sáng tạo ra vào lúc nào đó. Nếu muốn thì gọi nó là cỗ máy hữu cơ, là sự sống, gọi thế nào cũng được, vì nó là một cái gì tự phát triển và chúng ta nằm trong cái tự phát triển đó. Giống như trong ngôn ngữ. Con người chìm ngập trong ngôn ngữ, ngôn ngữ được thực hiện qua con người. Con người tạo ra ngôn ngữ và ngôn ngữ như một hệ thống tập thể thường xuyên tác động qua lại với người nói cá thể. Đơn vị nhỏ nhất để xuất hiện các ý nghĩa mới là ba sự thể hiện: Tôi, người khác và môi trường kí hiệu học bao quanh ta (một cái gì giống như cỗ xe tam mã). Nghiên cứu ba sự thể hiện ấy hiện giờ là niềm hứng thú nhất đối với tôi.
                                            (Tartu, năm 1990, G. Amelin ghi)
Trần Đình Sử dịch từ tiếng Nga, trong tập Ju. Lotman và trường phái kí hiệu học Tartu – Matskva, M. Nxb. “Gnozís”, 1994, tr. 432 – 438.
[1] Kađe: Trường võ bị của Nga hoàng (ND chú)
Nguồn: Viện văn học Việt Nam.

42. Cấm vận xuất khẩu dầu mỏ IRAN: khả năng thục thi, tác động và hệ quả




Quyết định cuối cùng về một lệnh cấm vận của Liên minh châu Âu (EU) đối với xuất khẩu dầu mỏ của Iran dự kiến sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7 tới đây. Lệnh cấm vận này, nếu được thực thi, sẽ có những tác động lớn không chỉ tới Iran mà còn tới nền kinh tế toàn cầu trước nguy cơ trả đũa từ Iran. Vậy khả năng thực thi của lệnh cấm vận này tới đâu, những tác động của nó như thế nào và Iran sẽ phản ứng ra sao? Báo cáo vừa công bố của Viện Hoàng gia Nghiên cứu các vấn đề quốc tế Chatham (Anh) tựa đề “Cấm vận xuất khẩu dầu thô của Iran: khả năng thực hiện và những tác động” cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về vấn đề này.
Báo cáo của Chatham nhận định rằng tác động đầu tiên của lệnh cấm vận là các nước EU sẽ phải tìm các nguồn cung thay thế cho nguồn dầu thô khá lớn từ Iran. Hiện không có số liệu chính xác nhưng theo OPEC, trong năm 2010, Iran đã xuất khẩu 890.000 thùng dầu/ngày sang châu Âu. Một số con số chi tiết của năm 2008 cho thấy 4 quốc gia Italia, Tây Ban Nha, Hy Lạp và Pháp nhập khẩu 500.000 thùng/ngày. Cho tới nay, các điều khoản cụ thể của lệnh cấm vận vẫn chưa được quyết định và thực tế các điều khoản cụ thể này đóng vai trò rất quan trọng khi xét tới việc tuân thủ lệnh cấm vận một cách hiệu quả. Việc EU phải tìm kiếm các nguồn cung thay thế sẽ tạo ra một “xung đột quá độ” đối với giá dầu mỏ. Vì thế, giá dầu thô tại các thị trường Thái Bình Dương sẽ tăng và tại châu Á-Thái Bình Dương sẽ giảm khi Iran nỗ lực, tìm đầu ra thay thế cho nguồn dầu mỏ từng xuất sang các thị trường châu Âu.
Nhìn chung, những “xung đột quá độ” nói trên thường dẫn tới kết cục là giá dầu mỏ tăng chứ không phải giảm, ít nhất là trong vài tháng. Mức độ “xung đột” tới đâu còn phụ thuộc vào việc lệnh cấm vận có hiệu lực nhanh ở mức nào và liệu có những ngoại lệ hay không. Nhiều khả năng lệnh cấm vận sẽ khiến cho các hợp đồng hiện tại buộc phải kết thúc. Phần lớn các hợp đồng đó thường có thởi hạn ngắn nhất là 1 tháng. Một số thành viên EU sẽ tìm kiếm “những ngoại lệ” khi thực hiện lệnh cấm vận. Chẳng hạn như Italia đã khẳng định rằng bất kỳ lệnh cấm vận nào cũng không nên tính đến lượng dầu mỏ mà Iran sẽ phải cung cấp để trả khoản nợ 2 tỷ USD cho Công ty dầu mỏ ENI của Italia. Với việc trên 1/3 nguồn dầu mỏ nhập khẩu là từ Iran và Hy Lạp khá phụ thuộc vào các điều kiện tài chính ưu đãi của lượng dầu nhập khẩu này, rất có thể Hy Lạp cũng sẽ đòi hỏi có khoảng trống trong lệnh cấm vận để có thể “lách” được. Thực tế thì các nước EU cũng đã và đang phải nỗ lực tìm các nguồn cung thay thế sau quyết định cấm vận nhập khẩu từ Libi đang có hiệu lực. Tuy nhiên, lệnh cấm vận nhập khoảng 150.000 thùng dầu/ngày từ Libi được áp đặt tháng 9/2011 nhưng phải đến giữa tháng 11/2011 mới được thực hiện triệt để.
Nước nào sẽ sẵn sàng và có khả năng thay thế dầu thô của Iran?
Giai đoạn “xung đột quá độ” đối với giá dầu mỏ cũng sẽ còn phụ thuộc vào việc nước nào sẽ sẵn lòng cung cấp. Libi đã có bước lội ngược dòng nhanh hơn kỳ vọng. Đầu tháng 12/2011, Công ty Dầu khí Quốc gia tuyên bố sản lượng của họ đã đạt 840.000 thùng/ngày và có thể đạt mức sản lượng trước chiến tranh vào cuối năm 2012. Tất nhiên, các chuyên gia cho rằng tuyên bố này thể hiện sự quá lạc quan. Dù vậy, dầu thô tư Libi được coi là “nhẹ và ngọt” trong khi nguồn nhập khẩu dầu thô từ Iran thì được coi là “nặng và chua”, và điều này có thể tạo ra một tác động chênh lệch tạm thời. Tác động này sẽ bị trầm trọng hơn bởi lệnh cấm vận nhằm vào dầu thô của Xyri.
Nguồn cung thay thế hiển nhiên nhất sẽ là từ các quốc gia thuộc Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC), vốn có một năng lực sản xuât dự phòng lớn đáng kể. Tính đến cuối năm 2011, sản lượng của Arập Xêút lên tới 2,29 triệu thùng/ngày; Các Tiểu vương quốc Arập thống nhất (UAE) lên tới 220.000 thùng/ngày và Côoét lên tới 200.000 thùng/ngày. Trong khi các quốc gia này có khả năng thay thế nguồn dầu thô của Iran tại châu Âu nhưng sự sẵn sàng của họ không hoàn toàn hiển nhiên. Arập Xêút đã chính thức công khai tuyên bố rằng nước này sẵn sàng thay thế, Iran cung cấp dầu thô cho EU. Tuy nhiên, nếu nước này chiếm thị phần của Iran thì sẽ được Têhêran coi là một hành động cực kỳ thù địch. Ngày 12/12/2011, 2 ngày trước khi diễn ra hội nghị OPEC tại Viên (Áo), Thái tử Arập Xêút Nayef Bin Abdul Aziz Al Saud (cũng là Bộ trưởng Nội vụ phụ trách an ninh) và Bộ trưởng Tình báo An ninh Iran Haydar Moslehi đã có cuộc gặp tại Riát. Kết quả của cuộc gặp giữa hai người đứng đầu ngành tình báo 2 nước không được tiết lộ. Hãng Thông tấn Arập đã đưa tin về cuộc gặp và chỉ tuyên bố là “hai bên đã đánh giá về một loạt các vấn đề cùng quan tâm”. Tuy nhiên, hội nghị OPEC vào ngày 14/12/2011, 2 ngày sau đó, đã nhanh chóng đạt được một sự nhất trí duy trì mức sản lượng 30 triệu thùng/ngày. Các nhà quan sát đánh giá rằng phái đoàn của Iran có vẻ như “rất thờ ơ” về kết quả này. Điều này cho thấy rất có thể đã có một thỏa thuận “cửa sau”, theo đó Arập Xêút sẽ không vội vàng “lấp chỗ trống” để đổi lại nhận đước sự ủng hộ của Iran tại OPEC. Rốt cuộc, Arập Xêút phải sống trong một khu vực tại thời điểm mà thái độ của họ với Oasinhtơn đượm vẻ nghi ngờ sau nỗ lực lật đổ Mubarak của Mỹ, điều được Riát coi là một sự hấp tấp khiếm nhã.
Trong thời gian trước mắt, Iran sẽ phải tìm đầu ra thay thế cho nguồn dầu mỏ bị hất cẳng khỏi châu Âu. Xuất khẩu dầu mỏ chiếm 80% tổng thu tiền mặt và chiếm trên 50% nguồn thu ngân sách chính phủ của Iran. Sự lựa chọn tất yếu của Iran sẽ là bán dầu sang châu Á dù điều này đồng nghĩa với việc Têhêran sẽ phải đưa ra những điều kiện ưu đãi hơn. Điều này sẽ kết hợp với “xung đột quá độ” đối với giá dầu mỏ tạo ra bởi lệnh cấm vận của EU. Một lần nữa ảnh hưởng và mức độ kéo dài của xung đột này sẽ phụ thuộc vào các biện pháp khác mà Mỹ và EU có thể sẽ thực thi. Chẳng hạn, với tình hình thực tế hiện nay tại Bắc Triều Tiên, cả Hàn Quốc (nhập khẩu từ Iran 230.000 thùng/ngày) lẫn Nhật Bản (nhập khẩu từ Iran 520,000 thùng/ngày) đều vô cùng dễ tổn thương trước sức ép từ Mỹ buộc phải thực thi lệnh cấm vận với dầu mỏ của Iran. Gần đây Nhật Bản đã và đang nỗ lực tìm cách giảm phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ nhập khẩu từ Iran.
Nhìn một cách rộng hơn, triển vọng về một lệnh cấm vận quv mô Liên hợp quốc (LHQ) rất khó có thể xảy ra. Hai nhà nhập khẩu lớn khác của Iran là Trung Quốc (nhập 430.000 thùng/ngày theo số liệu 2008) và Ấn Độ (nhập 410.000 thùng/ngày theo số liệu 2008) ít cỏ khả năng sẽ ngừng nhập khẩu đầu từ Iran. Với việc hai nước này đều có chân trong Hội đồng Bảo an LHQ, bất kỳ nghị quyết nào của LHQ về cấm vận dầu mỏ của Iran chắc chắn sẽ đều thất bại. Nga cũng nhiều lần tuyên bố rằng nước này sẽ phản đối bất kỳ một lệnh cấm nào của LHQ với lý do là một lệnh cấm như vậy là vì “động cơ chính trị và không nên được thực thi trong lĩnh vực xuất khẩu năng lượng”. Đây là quan điểm chính trị quan trọng của Nga, nước đang nỗ lực cải thiện danh tiếng của minh với tư cách là nha cung cấp năng lượng.
Tuy nhiên, có những dấu hiệu cho thấy các nhà nhập khẩu châu Á có vẻ không thiên về thị trường Iran. Đầu tháng 1/2012, có vẻ như Trung Quốc đã giảm 50% lượng dầu nhập từ Iran, phần lớn là vì bất đồng về giá cả. Điều này cho thấy rằng Iran sẽ phải đưa ra những ưu đãi đáng kể về giá dầu mỏ và bị giảm nguồn thu ngân sách. Dù vậy, khi giá dầu vẫn còn ở trên mức 100 USD/thùng thì đây không phải là vấn đề tài chính đáng quan ngại đối với Iran. Như vậy, có thể thấy rằng xung đột quá độ đối với giá dầu mỏ nhiều khả năng sẽ không lớn.
Iran sẽ phản ứng thế nào với lệnh cấm vận của EU về dầu mỏ?
Cho tới nay, các phân tích vẫn cho rằng Iran sẽ đơn thuần chấp thuận lệnh cấm vận của EU mà không có hành động trả đũa. Điều này hoàn toàn không có khá năng xảy ra và việc xem xét các lựa chọn phản ứng của Iran là điều hết sức cần thiết. Gần đây, có nhiều đồn đoán, dựa trên một số chứ không phải là tất cả các nhân tố trong cấu trúc quyền lực của Iran, rằng phản ứng của Iran sẽ là việc ngăn chặn dòng chảy dầu mỏ qua eo biển Hormuz. Tuy nhiên, bất kỳ nỗ lực nào nhằm ngăn chặn tuyến đường vận chuyển qua Hormuz sẽ tạo ra những hành động phản ứng từ phương Tây mà kết quả cuối cùng của nó là eo biển Hormuz sẽ được mở trơ lại. Phản ứng từ phương Tây, nếu như tuyến đường trung chuyển bị đe dọa, sẽ nhanh chóng biến thành cuộc chiến tranh giữa Iran và Mỹ với sự hậu thuẫn của nhiều đồng minh.
Có hai lý do lý giải tại sao việc Iran đóng cửa eo biển Hormuz khó có khả năng xảy ra. Thứ nhất, việc đóng cửa eo biển sẽ gây thiệt hại tương đương đối với thực lực xuất khẩu dầu của Iran, trụ cột của nền kinh tế. Thứ hai, nếu Iran thực sự đóng cửa eo biển thì dù muốn hay không Mỹ (hoặc Ixraen) sẽ tấn công quân sự. Việc đe dọa đóng cửa eo biển Hormuz thực sự đóng vai trò là một sự răn đe lớn chống lại hành động tấn công quân sự. Việc gây gián đoạn và hạn chế dòng chảy dầu mỏ qua eo biển Hormuz có thể được coi là mối đe dọa hiện hữu đối với nền kinh tế toàn cầu và điều dễ hiểu là nó không được phép xảy ra. Điều này được minh chứng trong cuộc chiến Tanker War sau năm 1984 trong cuộc chiến tranh Irắc-Iran. Tuy nhiên, tuyên bố của Iran về ý định rõ ràng đóng cửa eo biển, được hậu thuẫn bằng một số hình thức hành động đáng tin cậy, có thể đẩy giá dầu tăng mạnh. Điều này có thể tạo ra những hậu quả kinh tế toàn cầu nghiêm trọng, đặc biệt trong bối cảnh triển vọng không chắc chắn của sự hồi phục kinh tế toàn cầu và khủng hoảng tại Khu vực đồng euro (Eurozone). Vì thế, đây là một lá bài mạnh mà Iran nhiều khả năng sẽ không sử dụng trong giai đoạn đầu của cuộc chơi.
Tuy nhiên, Iran có những lựa chọn trả đũa khác. Nước này có thể bắt đầu đẩy mạnh những áp lực đối với giá dầu bằng cách làm gia tăng bất ổn định tại Irắc, nơi Mỹ vừa hoàn tất việc rút quân và giới lãnh đạo Shiite đã bắt đầu một cuộc chiến tranh tiêu hao không chính thức nhằm vào người Sunni. Điều này chắc chắn sẽ tạo ra những khó khăn đối với lĩnh vực xuất khẩu của Irắc. Iran cũng có thể tạo ra thách thức đối với NATO tại Ápganixtan; gây ra những áp lực lớn đối với các nhà xuất khẩu GCC trong việc làm chậm lại đề xuất thay thế Iran xuất khẩu sang thị trường châu Âu của các nước này, và thậm chí có thể đe dọa các thiết bị xuất khẩu của GCC. Chẳng hạn như thiết bị xử lý Abqaiq tại Arập Xêút, sản xuất 5-6 triệu thùng dầu/ngày, nằm trong tầm bắn của tên lửa Iran. Một số hình thức trả đũa chống lại EU từng được thấy khi Anh gia hạn lệnh cấm vận tài chính cũng có thể sẽ được tái thực hiện. Thậm chí có thể có những phản ứng kiểu Lockerbie do sự kích động của một số nhân vật trong chính phủ.
Kết luận
Lịch sử kể từ chiến dịch quốc hữu hóa của Iran năm 1951 và các sự kiện dẫn tới việc lật đổ Thủ tướng Mossadegh năm 1953 cho thấy rằng các lệnh trừng phạt dầu mỏ không mang lại hiệu quả. Thị trường dầu mỏ quốc tế hết sức phức tạp, với quá nhiều “bên tham gia” và quá nhiều lựa chọn, để có thể che đậy cho các giao dịch. Lịch sử chứng kiến đầy rẫy những lệnh cấm vận dầu mỏ thất bại, từ Cuba, Rhodesia (Dimbabuê ngày nay) và Nam Phi cho tới lệnh cấm vận dầu mỏ Arập và lệnh cấm vận dầu mỏ với Irắc năm 1990. Tuy nhiên, lịch sử có vẻ như đã làm ngơ những người đưa ra quyết định của EU. Điều cần nói là lệnh cấm vận dầu mỏ của EU sẽ tăng cường sức mạnh cho chế độ Ahmadinejad vào thời điểm mà chế độ này đang chịu áp lực đáng kể, đặc biệt là với cuộc bâu cử nghị viện vào tháng Ba. Lạm phát và thất nghiệp hiện đang ở mức rất cao. vấn đề lạm phát còn trầm trọng hơn bởi việc dỡ bỏ các biện pháp trợ giá trong 12 tháng qua. Hơn nữa, trong vài tuần vừa qua, giá trị đồng Rial của Iran đối với đồng USD đã giảm đáng kể. Điều này đã hủy hoại sự tín nhiệm của chính phủ và như vậy nó càng làm trầm trọng hơn vấn đề lạm phát. Với vai trò của dầu mỏ trong nền chính trị Iran, lệnh cấm vận của EU sẽ làm cho người dân ngày càng ủng hộ chế độ cầm quyền hiện hành.
          Các biện pháp gây áp lực hiệu quả hơn lên Iran đối với Mỹ là thuyết phục EU nới rộng các lệnh trừng phạt đối với các giao dịch tài chính. Đầu năm 2012, Mỹ đã thông qua đạo luật áp đặt lệnh trừng phạt đối với các giao dịch tài chính với Ngân hàng Trung ương Iran. Trong 18 tháng qua, việc tiếp cận tài chính đối với Iran tại EU cũng đã khó khăn hơn nhiều do những hạn chế đối với các giao dịch như vậy cũng đã được EU thực hiện. Giải pháp này chắc chắn đã và đang có những tác động tiêu cực lớn hơn đối với nền kinh tế Iran so với thời kỳ mà Mỹ thông qua Đạo luật Trừng phạt Iran- Libi (ILSA) năm 1996. Tuy nhiên, con đường trừng phạt tài chính nhằm đánh vào nguồn thu từ dầu mỏ cũng có những khó khăn của nó. Các nhà nhập khẩu dầu mỏ của Iran có thể chuyển sang giải pháp “trao đổi hàng hóa” và sẽ tránh dùng đến các công cụ giao dịch tài chính. Đây là một lựa chọn rõ ràng đối với Trung Quốc. Cũng có những con đường tài chính khác, chẳng hạn như sử dụng các ngân hàng trong UAE để che đậy các giao dịch. Trong khi không có một giải pháp nào nhằm hạn chế nguồn thu từ dầu mỏ của Iran được coi là hoàn hảo thì ít nhất các biện pháp trừng phạt tài chính sẽ tạo ra một mức độ phản ứng của công chúng Iran giống như một lệnh cấm vận, và được coi là mối đe dọa trực tiếp đối với dầu mỏ của Iran. Dù các biện pháp trừng phạt tài chính có những khó khăn của nó như vậy nhưng ít nhất cũng mang lại một khả năng gây áp lực nào đó với Iran mà một lệnh cấm vận dầu mỏ đơn thuần không thể mang lại. Một lệnh cấm vận dầu mỏ chỉ riêng nó sẽ không thể mang lại thành công./.
Nguồn: Chatham House

41. Làng sóng nổi dậy ở Bắc Phi và Trung Đông: Nguyên nhân, tác động ảnh hưởng và vấn đề đặt ra cho Việt Nam

PGS.TS. Đỗ Đức Định

Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông


1. Lược điểm lại những diễn biến chính của làn sóng nổi dậy tại Bắc Phi - Trung Đông và thực chất của làn sóng nổi dậy tại đó
Bắt đầu từ vụ một thanh niên thất nghiệp tự thiêu, ngọn lửa căm phẫn đã bùng lên thành một cuộc biểu tình phản đối chính phủ nổ ra tại Tunisia ngày 17 tháng 12 năm 2010 dẫn đến cuộc ra đi tị nạn của Tổng thống Tunisia Zine El Abidine Ben Ali tại Arập Xêút ngày 14-1-2011 sau gần 30 năm cầm quyền và gần một tháng chống đỡ không nổi; tiếp đến áp lực của quần chúng nhân dân đã buộc vị của Tổng thống lâu năm của Ai Cập Hosni Mubarak không muốn nhượng quyền cũng phải thoái vị vào ngày 11-2-2011, chuyển quyền quản lý đất nước cho quân đội sau 30 năm tại vị; kế nữa là hàng loạt các cuộc biểu tình chống chính phủ nổ ra ở các nước Trung Đông và Bắc Phi khác như Algeria, Jordan, Yemen, Quốc đảo Bahraihn, Libya, Moritani, Arập Xêút, Oman, Sudan, Syria, Iraq, Marocco, thậm chí lan sang cả các nước ngoài thế giới Arập như Anbani, Bangladesh, Bolivia, Cyrus, Gabong và Cộng hoà Hồi giáo Iran... Đến nay các điểm nóng ban đầu là Tunisia và Ai Cập đã dịu bớt, nhưng các điểm nóng mới lại xuất hiện và ngày càng trở nên nóng hơn, đó là Libya và Iran. Các cuộc biểu tình phản đối chính phủ đã thực sự trở thành một làn sóng nổi dậy của dân chúng, nó không những lan nhanh, lan rộng, mà còn có thể kéo dài, dẫn đến nhiều thay đổi quan trọng và cơ bản ở các nước thuộc khu vực Trung Đông và Bắc Phi vốn tồn đọng nhiều bất trắc tiềm ẩn kéo dài đã từ lâu.
Có người gọi những biến động trên đây là cách mạng hay “cách mạng đường phố” nhưng thực chất đây không phải là cách mạng vì nó không bắt đầu từ sự giác ngộ, từ các đảng phái lãnh đạo, khởi đầu là tự phát, không có tổ chức.
Đối với những người cầm quyền ở các nước nổ ra biểu tình, kể cả một số người đứng đầu các thánh đường Hồi giáo, thì những cuộc biểu tình này là các cuộc bạo loạn, nhưng đối với đa số dân chúng ở các nước sở tại thì đây là những cuộc nổi dậy đòi chấm dứt các chế độ độc tài, xây dựng các xã hội dân chủ, nâng cao đời sống và phúc lợi của nhân dân. Yêu sách cụ thể mà những người biểu tình đòi hỏi là phải có sự thay đổi chính phủ, phải tổ chức bầu cử có sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân, thực thi các cuộc cải cách kinh tế - xã hội theo hướng kinh tế thị trường đi đôi với giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc như xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển giáo dục, y tế, phòng chống dịch bệnh, chống tham nhũng... Chính vì đó là những cuộc nổi dậy của dân chúng nên các chính phủ dù không muốn, thậm chí tìm cách đáp lại bằng những biện pháp cứng rắn, kể cả dùng bạo lực đàn áp, cuối cùng cũng phải nhượng quyền, nếu không muốn bị lật đổ.
Xét về thời điểm và diễn biến đột ngột cùng mức độ lan toả nhanh chóng khiến chính phủ nhiều nước không kịp trở tay thì những cuộc xuống đường này là một sự bất ngờ; nhưng xét về những cội nguồn, nguyên căn âm ỉ từ lâu thì đây là những kết quả của những sai lầm có tính hệ thống. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn về những cội nguồn, nguyên căn chính của những cuộc biểu tình nổi dậy đó.
2. Nguyên nhân của các cuộc biểu tình nổi dậy
Có hai loại nguyên nhân dẫn đến các cuộc biểu tình nổi dậy tại Bắc Phi và Trung Đông thời gian qua, đó là những nguyên nhân xuất phát từ bên trong và những yếu tố tác động từ bên ngoài, trong đó các nguyên nhân bên trong là cơ bản, đóng vai trò quyết định.
Nguyên nhân thứ nhất và cơ bản nhất là sự bất cập của thể chế, bao gồm cả thể chế chính trị và thể chế kinh tế.
Bây giờ nhìn lại, ai cũng thấy rõ là phần lớn các chế độ chính trị ở các nước Bắc Phi và Trung Đông đều đã được thiết lập từ cách đây trên dưới 30 năm, và từ đó đến nay hầu như không có thay đổi gì đáng kể, thậm chí một số nhà nước do một người, một dòng họ, một nhóm thân hữu, một thế lực, hay một giáo phái trị vì quá lâu. Điển hình là là Nhà nước Ai Cập do Tổng thống Hosni Mubarak, năm nay 82 tuổi, một sỹ quan không quân lên nắm quyền thay thế hai sỹ quan quân đội trước đó là Nasser và Sadat; Nhà nước Tunisia do Tổng thống Zine El Abidine Ben Ali nắm quyền gần 30 năm; Nhà nước Lybi do Tổng thống Gadhafi lãnh đạo suốt 42 năm liền kể từ năm 1969 đến nay; và Nhà nước Iran do Giáo chủ Khômêni cùng với một chế độ liên kết các giáo lý đạo Hồi cố hữu với chính quyền chuyên chế kéo dài dai dẳng 30 năm, bất chấp những thay đổi diễn ra nhanh chóng trên thế giới trong thời đại toàn cầu hoá và kinh tế tri thức được trang bị bởi công nghệ thông tin hiện đại khó kiểm soát.
Nhìn rộng ra, người ta thấy không chỉ ở Bắc Phi và Trung Đông, mà cả ở một số nơi khác cũng diễn ra tình hình tương tự như vậy: Không thay đổi kịp thời thì rơi vào khủng hoảng; thay đổi kịp thời thì vừa tránh được khủng hoảng, vừa đạt được các mục tiêu phát triển mong muốn. Như ở Zimbabwe chẳng hạn, Tổng thống Mugabe nắm quyền binh hơn 30 năm, đến 85 tuổi vẫn còn thách thức đối thủ 45 tuổi và thách thức công luận bức xúc lúc đó rằng “chúa còn cho tôi sống, tôi còn trị vì”! Ý chí quyết tâm cầm quyền đến hơi thở cuối cùng đó của vị Tổng thống già nua Mugabe đã đẩy đất nước Zimbabwe từ một trong những tấm gương sáng ở châu Phi trở thành một nước khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng nhất cách đây không lâu (năm 2010) với tỷ lệ lạm phát lên tới hàng triệu phần trăm mỗi năm, chỉ riêng chi phí in đồng tiền có mệnh giá thay đổi thường xuyên đã trở thành một gánh nặng trong các khoản chi công của đất nước, và đến đỉnh điểm đồng tiền mệnh giá 100 tỷ đôla Zimbabwe chỉ mua được 3 quả trứng! Kết cục thảm hại trên đây khác hẳn so với tình hình diễn ra tại những quốc gia đẩy mạnh cải cách, kịp thời đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của dân chúng như ở Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ hay Các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất (UAE). Một trong những ví dụ điển hình là Thổ Nhĩ Kỳ, quốc gia duy nhất trong thế giới Hồi giáo đã đặt tôn giáo nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước, và tôn giáo mà họ lựa chọn là đạo Hồi ôn hoà, chứ không phải đạo Hồi cực đoan. Tại những nước thực thi các cuộc cải cách kịp thời này không những không xảy ra tình trạng nổi dậy đòi lật đổ chính quyền, trái lại nhà nước còn được dân chúng ủng hộ, bảo vệ.
Nói vậy không có nghĩa là tại các nước Bắc Phi và Trung Đông không có thay đổi. Trong thực tế, họ đã tiến hành một số cải cách, nhưng những cải cách đó không căn bản và không đồng bộ, chủ yếu nhằm bảo vệ lợi ích của tầng lớp cầm quyền hơn là quyền lợi của dân chúng. Từ thập niên 1990, các nước Bắc Phi và Trung Đông đã triển khai một số cải cách, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế, kết quả đã mang lại một số thành công đáng kể như tăng trưởng kinh tế tới 5-6%/năm ở Ai Cập, Libya, Iran. Nhưng đáng tiếc, những thành quả của cải cách kinh tế không được hoặc chỉ được sử dụng rất ít cho mục tiêu giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc như nghèo đói, bệnh dịch, giáo dục, y tế... Nói cách khác, rất ít những lợi ích của cải cách kinh tế đến được tay đa số dân chúng, trái lại phần lớn lọt vào tay các quan chức cầm quyền tham nhũng.
Một bất cập nữa là sự thiếu đồng bộ giữa cải cách kinh tế và cải cách chính trị. Trong số các nước Bắc Phi và Trung Đông mà dân chúng đã nổi dậy đòi lật đổ chính quyền, một số cải cách kinh tế theo hướng thị trường tự do đã được triển khai, nhờ đó một tầng lớp những người giàu có đã hình thành, họ đòi hỏi phải có tiếng nói chính trị tương xứng, nhưng sự đè nén, kìm hãm về chính trị đã không đáp ứng được những nhu cầu của họ, vì thế họ ủng hộ những cuộc đấu tranh đòi thay đổi hệ thống chính trị cho phù hợp với những thay đổi về kinh tế.
Nguyên nhân lớn thứ hai là sự cách biệt giữa tầng lớp quan chức thống trị và người dân bị trị, giữa các thế hệ và các luồng tư tưởng, giữa các ý thức hệ khác nhau
Có người gọi loại nguyên nhân thứ hai này là những nguyên nhân về xã hội và nhân chủng học. Bằng chứng họ đưa ra là một thế hệ của những người dân trẻ ở các nước này có nguy cơ bị bỏ rơi, cho nên họ phải đứng lên đấu tranh đòi quyền phát triển. Như ở Ai Cập chẳng hạn, gần 65% dân số ở độ tuổi dưới 30, trong số đó 25% những người ở độ tuổi 18-29 bị thất nghiệp, chỉ 1% thanh niên tham gia các đảng phái chính trị, 99% thờ ơ với giới lãnh đạo vì lãnh đạo không quan tâm đến họ thì đáp lại họ cũng không quan tâm đến lãnh đạo, họ hầu như không biết về chiến tích của ông Mubarak khi ông nổi lên như một nhà lãnh đạo không quân tài ba trong cuộc chiến chống Israel năm 1973, mà chỉ biết qua các nguồn thông tin đại chúng giờ đây bản thân ông, gia đình ông và dòng họ của ông nắm quyền tối thượng ở đất nước, hầu như không ai ngoài những người thân cận và phe cánh của ông toàn quyền thống trị đất nước, tha hồ vơ vét của cải và trở nên cực kỳ giàu có với số tài sản của gia đình ông trị giá hơn 70 tỷ USD. 
Mẫu thuẫn ở Ai Cập dâng lên thành cao trào vì đó là sự xung đột giữa hai luồng tư tưởng, một bên là dân chúng muốn thoát khỏi chế độ độc đoán kìm kẹp họ quá lâu, đòi xây dựng một xã hội dân chủ, bên kia là chế độ chuyên quyền do Tổng thống Mubarak lập nên chỉ quan tâm tới việc xây dựng quyền lực, sản phẩm của cái mà nhiều người gọi là sự “ám ảnh về ổn định và an ninh”, họ tưởng duy trì được ổn định là kiểm soát được đất nước, nhưng họ đã lầm, ổn định mà không quan tâm tới nguyện vọng của dân chúng, bỏ lỡ nhiều cơ hội thực hiện các cuộc cải cách dân chủ và hiện đại hoá đất nước, thì đó là một sự ổn định trong sóng ngầm. Chính những luồng sóng ngầm đó giờ đây đã góp lại thành những cơn sóng thần nhấn chìm họ.
Còn ở Iran thì giới trẻ và dân thường cho rằng tôn giáo và chính quyền phải làm theo nguyện vọng của dân, không chỉ dựa vào quyền lực mà bất chấp lòng dân.
Tại Libya cũng vậy, chủ thuyết Gadhafi chỉ có ảnh hưởng lớn trong giới cầm quyền, thậm chí còn nhằm xây dựng một xã hội cha truyền con nối, quản lý bằng quân đội, song không được lòng dân.
Trong các trường hợp trên thì Tổng thống Mubarak của Ai Cập và Tổng thống Zine El Abidine Ben Ali của Tunisia không được quân đội ủng hộ nên đành phải từ chức và nhượng quyền, mặc dù không muốn, còn Tổng thống Gadhafi của Libya và phính phủ Iran được quân đội hỗ trợ nên đã đáp trả lại các lực lượng nổi dậy bằng những biện pháp cứng rắn, kể cả dùng vũ lực gây đổ máu. Như vậy, trong sự cách biệt giữa chính quyền và dân chúng có vai trò rất quan trọng của quân đội: Nếu quân đội ủng hộ dân thì chính quyền phải nhượng bộ, tránh được bạo lực và đổ máu; ngược lại, nếu quân đội ủng hộ chính quyền thì cuộc đấu tranh trở nên gay go, ác liệt, có thể dẫn đến bạo lực, đổ máu, và trong thực tế đã diễn ra bạo lực, đàn áp đẫm máu ở Libya và Iran làm hàng vạn người phải li tán và hàng ngàn người bị tiêu diệt (riêng tại Libya tính đến 25 tháng 2 năm 2011 đã có hơn 1000 người bị giết chết).
Đi liền với sự cách biệt về thế hệ còn là sự cách biệt về tư tưởng. Tại các nước Bắc Phi và Trung Đông người ta thấy rất rõ những xung đột giữa một bên là các tư tưởng thần học của Hồi giáo, nhất là chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, điển hình là chủ nghĩa dân tộc Nasser (Nasserism) hình thành từ các thập kỷ 1950-1960 gắn kết tôn giáo với chủ nghĩa dân tộc để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp cầm quyền mà cho đến nay hầu như không có thay đổi cho phù hợp với tình hình mới của toàn cầu hoá, tin học hoá và kinh tế tri thức, với bên kia là những trào lưu tư tưởng mới về tự do, dân chủ, nhân quyền ngày càng phát triển rộng rãi và có ảnh hưởng lớn trong dân chúng. Tất cả những khác biệt và đối lập này được phản ánh hàng ngày, hàng giờ trên các phương tiên thông tin đại chúng được công nghệ thông tin hiện đại hỗ trợ, và được giới trẻ tiếp cận nhanh chóng, cập nhật thường xuyên. Hiện nay ở các nước Ảrập có trên 700 kênh vệ tinh, trong đó gần 70% số kênh không do chính phủ các nước Arập quản lý. Đối với các nhà lãnh đạo Arập, đây là một lỗ hổng lớn nằm ngoài khả năng kiểm soát của họ, đến mức như ở Ai Cập, chính quyền đã coi “lớp trẻ facebook không phải là lớp trẻ người Ai Cập thực sự”!
Thứ ba, cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới từ năm 2008 đến 2010 đã đổ thêm dầu vào lửa, làm cho những bức súc âm ỉ lâu nay có cơ hội bùng phát, biến thành biểu tình, bạo động lan toả khắp nơi
Cuộc cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới từ năm 2008 đến 2010 làm cho những vấn đề xã hội như tình trạng nghèo đói, lạm phát, bệnh dịch, phân biệt đối xử, thất học, tham nhũng, đặc biệt là tỷ lệ thất nghiệp đã cao càng tăng nhanh, lên đến trên 30% ở Libya và 50% ở Ai Cập. Những vấn đề này ở các nước Trung Đông - Bắc Phi vốn đã rất bức xúc và nhức nhối từ lâu nay trở nên căng thẳng, chuyển hoá từ những vấn đề đời sống dân sinh thông thường thành những vấn đề chính trị - xã hội nóng bỏng, từ những cuộc đấu tranh về quyền lợi cụ thể thành một phong trào đấu tranh đòi lật đổ chính quyền, thay đổi chế độ. Ngược lại, những xung đột này càng làm cho những thành quả kinh tế bị mất dần đi, đời sống người dân càng thêm khốn khó, cuộc khủng hoảng càng trở nên trầm trọng, cái vòng luẩn quẩn càng trở nên luẩn quẩn, muốn cải thiện mà không được, tình hình càng ngày trở nên xấu đi.
Thứ tư, sự tác động của các lực lượng từ bên ngoài và bên trong khu vực như Mỹ, EU, Trung Quốc, Iran... góp phần khuấy động tình hình, làm cho tình trạng rối ren càng trở nên rối ren, phức tạp hơn.
Tác động từ bên ngoài thường rất phức tạp do mỗi nước, nhất là các siêu cường, đều có những lợi ích riêng, bất chấp lợi ích của nước sở tại. Trước những diễn biến xảy ra ở Bắc Phi và Trung Đông, thái độ và cách ứng xử của các nước trong và ngoài khu vực có những điểm giống nhau, nhưng đồng thời cũng có rất nhiều điểm khác nhau. Giống nhau là về cơ bản cho đến nay các nước đều ủng hộ phong trào dân chủ, đòi chính quyền các nước sở tại chuyển giao quyền lực. Khác nhau là mỗi nước có cách ứng xử riêng nhằm đảm bảo lợi ích và khu vực ảnh hưởng riêng của mình. Điều này thể hiện rất rõ khi nhìn vào cách ứng xử của các nước và nhóm nước cụ thể, nhất là những nước và nhóm nước lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc... thậm chí cả nước không lớn như Iran.
EU ngay từ đầu đã ủng hộ các cuộc nổi dậy, đòi chính quyền nước sở tại chuyển giao quyền lực. Điều này là phù hợp với lợi ích của EU vì lâu nay các nước Trung Đông và Bắc Phi ít thực hiện những cải cách về dân chủ và nhân quyền là những thứ EU luôn nêu điều kiện mỗi khi cung cấp viện trợ.
Cách ứng xử của Mỹ lúc đầu không dứt khoát như EU, mà tỏ ra lúng túng, vì Mỹ gặp khó khăn khi phải lựa chọn giữa một bên là đồng minh tin cậy và bên kia là phong trào dân chủ, một mẫu hình phát triển mà Mỹ luôn theo đuổi. Cái khó của Mỹ là nếu chấp thuận yêu sách của dân chúng về dân chủ thì phải loại bỏ đồng minh tin cậy là Tổng thống Mubarak; ngược lại nếu Mỹ quyết tâm bảo vệ Tổng thống Mubarak thì sẽ mất phong trào dân chủ ở Ai Cập, thậm chí mất cả thế giới Arập, đó chính là lý do đằng sau sự lúng túng của Mỹ. Cuối cùng, xét vẻ bề ngoài, Mỹ đã phải công khai lựa chọn giải pháp đánh đổi: Hy sinh Tổng thống - đồng minh Mubarak, ủng hộ phong trào dân chủ đòi chuyển giao quyền lực; nhưng bên trong Mỹ vẫn có ảnh hưởng lớn tới giới quân nhân do lực lượng quân đội hàng năm nhận tới 1,3 tỷ trong tổng số 1,5 tỷ USD viện trợ của Mỹ cho Ai Cập. Đối với Libya thì Mỹ đã chính thức tuyên bố cấm vận và trừng phạt, đồng thời tiếp tục trừng phạt Iran.
Giải pháp của Trung Quốc khác hẳn so với cả Mỹ và EU. Trung Quốc tỏ ra không nghiêng hẳn về bên nào, không hoàn toàn ủng hộ chính quyền đương nhiệm, cũng không ủng hộ mạnh phong trào nổi dây, mà tuyên bố theo đuổi chính sách “cân bằng hoà bình”, thực hiện đối sách ngoại giao mềm dẻo được giới bình luận gọi là “chiến lược cân bằng mềm”, lựa chiều hưởng lợi. Trước đây Trung Quốc đã gây được ảnh hưởng lớn đối với Iran thông qua những biện pháp nhẹ tay với Iran trong vấn đề hạt nhân, không phản đối, cung như không tuân thủ các nghị quyết của Liên hợp quốc do phương Tây chi phối để trừng phạt nặng Iran, nhờ đó đã dành được phần lớn thị trường thương mại, nguồn dầu lửa và thị trường vũ khí lớn của Iran (Trung Quốc đã bán cho Iran khoảng trên 4 tỷ USD vũ khí). Nay Trung Quốc tiếp tục chính sách ngoại giao mềm dẻo này để dành ảnh hưởng và kiếm lời ở các nước có phong trào dân chúng nổi dậy. Nhờ chính sách cân bằng mềm đó, Trung Quốc tranh thủ được niềm tin của cả hai bên, từ đó dù bên nào thắng thì Trung Quốc vẫn mở rộng được ảnh hưởng, vẫn giành được lợi ích lớn. Đây chính là con đường để Trung Quốc nhanh chóng mở rộng quan hệ với các nước châu Phi và Trung Đông trong hai thập kỷ qua.
Không chỉ các nước ngoài Bắc Phi và Trung Đông, mà cả các nước trong khu vực cũng có những cách ứng xử riêng đối với các cuộc nổi dậy. Nếu như Israel luôn luôn dựa vào Mỹ, thực hiện những chính sách giống như Mỹ, thì ngược lại Iran là một ví dụ điển hình về cách làm đối nghịc với Mỹ, nhưng đáng tiếc trong vụ việc này đã theo đuổi một cách làm “dùng gậy ông tự đập lưng ông”. Điều này xảy ra khi lúc đầu chính phủ Iran ủng hộ phong trào biểu tình của người dân Iran chống lại chính quyền Ai Cập, nhưng chớ trêu thay ngay sau đó chính những người Iran biểu tình chống chính phủ Ai Cập được chính phủ Iran cổ vũ lại quay sang chống chính phủ Iran, dẫn đến đàn áp, xung đột,  đổ máu.
3. Dự báo tình hình Bắc Phi và Trung Đông trong thời gian tới
Từ cuộc nổi dậy tại Bắc Phi và Trung Đông có thể sẽ diễn ra mấy khả năng sau đây:
Về thời gian, có ba khả năng. 1- Nếu các chính quyền chấp nhận thoái vị và chuyển giao quyền lực thì các cuộc nổi dậy có thể tiếp diễn từ nay đến giữa hoặc cuối năm 2011. Cho đến nay, đây mới là giai đoạn khởi đầu, mang nặng tính tự phát, chưa có thời gian chuẩn bị, kể cả đối với các lực lượng trong nước và các lực lượng bên ngoài, do các lực lượng đó cũng bị bất ngờ nên chưa kịp tính toán các kịch bản riêng của họ. 2- Nếu không có chuyển giao quyền lực mà xảy ra nội chiến thì thời gian xung đột có thể kéo dài vài năm. 3- Khi các nước chấp nhận chuyển giao quyền lực, nhưng để có đủ thời gian cho việc hình thành những thể chế mới đòi hỏi phải mất vài năm.
Về không gian, cuộc nổi dậy sẽ tiếp tục lan rộng ở các vùng trong nước của những quốc gia không chịu đáp ứng nguyện vọng dân chúng, và có thể lan sang một số nước khác có tình hình tương tự như các nước Trung Đông - Bắc Phi ít có thay đổi phù hợp với trào lưu dân chủ, toàn cầu hoá và kinh tế tri thức. Sự lan rộng này có khả năng tràn sang cả một số nước khác ngoài khu vực Trung Đông - Bắc Phi có nhiều yếu tố tiểm ẩn tương tự như ở các nước Trung Đông - Bắc Phi.
Về giải pháp, có thể sẽ diễn ra 3 loại kịch bản. Một là tại một số nước sẽ diễn ra tiến trình dân chủ, kể cả dân chủ trong khuôn khổ của chủ nghĩa dân tộc và giáo lý đạo Hồi, nhưng là chủ nghĩa dân tộc đã có cải cách, mở cửa hội nhập quốc tế, và Hồi giáo ôn hoà. Thứ hai, có thể sẽ tiếp tục diễn ra một số cuộc bạo lực đẫm máu ở một số nước thiếu dân chủ, độc tài và Hồi giáo cực đoan. Thứ ba, có thể sẽ diễn ra thêm một số cuộc nổi dậy ở một số nước khác trong và ngoài khu vực Trung Đông - Bắc Phi, nhất là ở những nước lâu nay ít có thay đổi, cải cách, đời sống dân chúng bị o ép, cơ cực.
4. Đánh giá ảnh hưởng của tình hình nổi dậy tại Bắc Phi - Trung Đông tới Việt Nam và đối sách của Việt Nam
Ảnh hưởng của tình hình nổi dậy tại Bắc Phi và Trung Đông đối với Việt Nam có thể diễn ra dưới hai loại ngắn hạn và dài hạn, vì thế trong cách ứng xử chúng ta cũng cần có những giải pháp cả trước mắt và lâu dài.
- Xét ngắn hạn, sẽ có tác động trực tiếp tới những hoạt động hợp tác của nước ta với các nước trong khu vực này, trước hết là những tác động tới hoạt động xuất khẩu lao động, đầu tư của Việt Nam vào nước họ và đầu tư của họ vào nước ta, hợp tác khai thác, mua bán dầu khí, quan hệ thương mại... Ngoài những tác động trực tiếp đó, còn có những tác động gián tiếp thông qua việc tăng giá dầu lửa thế giới, giảm nguồn tiền thu nhập từ xuất khẩu dầu lửa, tăng nguồn tiền nhập khẩu các sản phẩm từ dầu lửa, làm chậm tiến trình phục hồi kinh tế sau khủng hoảng...
Về thị trường của các nước đang rơi vào khủng hoảng, do biến động xã hội, kinh tế sa sút, chắc chắn quan hệ hợp tác với Việt Nam cũng giảm. Chẳng hạn như Ai Cập, trong năm nay mức tăng trưởng GDP dự báo có thể giảm từ 5,3% xuống 3,7%, các nguồn thu chính từ du lịch (13 tỷ USD), thị trường chứng khoán (12 tỷ USD), cước phí cho thuê vận tải qua kênh đào Suez (4,7 tỷ USD), tất cả đều sẽ giảm, sự giảm sút đó chắc chắn có tác động bất lợi đến quan hệ kinh tế - thương mại với Việt Nam. Các thị trường lao động của Việt Nam ở Libya, Qatar và các nơi khác trong khu vực cũng sẽ giảm mạnh, thậm chí bị dừng hẳn trong một thời gian không ngắn.
Về dầu lửa, trong các nước xảy ra xung đột, Libya tuy không nằm trong tốp 10 nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới, nhưng cũng xếp thứ 12 và là nước xuất khẩu dầu lớn nhất châu Phi với lượng dầu xuất khẩu 1,6 triệu thùng mỗi ngày, chiếm 2% tổng lượng dầu xuất khẩu trên thế giới. Thêm vào đó lượng dầu sản xuất tại Ai Cập chiếm khoảng 0,8% sản lượng dầu thế giới với 740.000 thùng/ngày năm 2010. Tổng lượng dầu xuất khẩu của cả hai nước Ai Cập và Libya chiếm gần 3% tổng lượng dầu xuất khẩu của thế giới. Nếu sản xuất và xuất khẩu dầu của hai nước này đình trệ, cùng với kênh đào Suez không lưu thông được làm cho việc vận chuyển dầu phải đi vòng xa kéo theo giá cước vận chuyển tăng lên, cộng thêm tâm lý lo ngại của người tiêu dùng, thì ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường dầu thế giới sẽ không nhỏ, chắc chắn sẽ dẫn đến việc tăng giá dầu giảm nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu dầu và tăng chi ngoại tệ cho nhập khẩu dầu và sản phẩm từ dầu. Không những thế, nếu xung đột lan sang các nước sản xuất và xuất khẩu dầu lớn khác ở Trung Đông như Arập Xêút thì tác động tiêu cực sẽ còn lớn hơn nhiều.
Xét dài hạn, cần chú ý tới những ảnh hưởng do thay đổi chính quyền, hoạt động tôn giáo, đấu tranh sắc tộc, tình trạng di dân... Trước những yếu sách thiết thân và chính đáng của các lực lượng dân chúng nổi dậy đòi dân chủ, nhân quyền, cải thiện đời sống, chính quyền các nước sở tại không thể làm ngơ, dù muốn hay không họ cũng phải quan tâm hơn tới việc đáp ứng nguyện vọng của dân chúng, vì thế xu hướng dân chủ, cải cách ở châu Phi và Trung Đông chắn chắn sẽ được tăng cường, mức độ độc đoán, chuyên quyền, quân phiệt sẽ giảm bớt. Các hoạt động tôn giáo có thể cũng sẽ có sự điều chỉnh, hai xu hướng đối lập giữa ôn hoà và cực đoan trong đạo Hồi có thể sẽ đều hoạt động mạnh hơn, số người theo xu hướng ôn hoà sẽ tăng lên, nhưng những người theo xu hướng cực đoan tuy không tăng nhiều về số lượng, nhưng hoạt động có thể sẽ cực đoan hơn. Trong thực tế, có nhiều nước đạo Hồi theo xu hướng ôn hoà, nhưng cũng có những nước, như Iran chẳng hạn, suốt hơn 3 thập kỷ qua kể từ cuộc cách mạng năm 1979 đã theo đuổi đường lối của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan. Cuối năm 2010 trong một cuộc Hội thảo về hợp tác vùng vịnh Persian tổ chức tại Iran, một giáo sư người Indonesia đã đề xuất thành lập môt liên minh các quốc gia Hồi giáo. Theo ông, đạo Hồi là một tôn giáo lớn, chiếm khoảng 1/5 dân số thế giới và có một khối lượng tiền của lớn thu hút được nhờ bán dầu lửa và các nguồn thu khác, nếu thành lập liên minh, đây sẽ là một lực lượng lớn trên thế giới. Liên minh này đến nay chưa được thành lập, nhưng đề xuất đó là một lời kêu gọi rất đáng chú ý. Bên cạnh các quốc gia theo đạo Hồi ở Trung Đông và Bắc Phi, tại khu vực Đông Nam Á và Nam Á, số lượng các tín đồ theo đạo Hồi hiện nay cũng rất đông, nhất là ở những quốc gia đông dân lấy đạo Hồi làm quốc giáo như Indonesia, Malaysia, Pakistan và Afganistan, đây là những nước có vị trí địa lý rất gần với Việt Nam. Nếu nhóm đạo Hồi cực đoan hoạt động mạnh lên thì mặc dù số lượng của họ không đông, nhưng những hoạt động khủng bố và chống khủng bố sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều.
Trước những tác động ngắn hạn và dài hạn trên đây chúng ta cần có những giải pháp vừa cấp thiết, trước mắt, vừa lâu dài.
Về giải pháp cấp thiết trước mắt, việc đầu tiên cần làm là nhanh chóng đưa người lao động Việt Nam về nước an toàn, việc này chúng ta đã và đang làm rất tích cực và đã hoàn thành tốt trong những ngày qua. Ngoài ra, chúng ta cũng cần rà soạt lại và có phương án để khắc phục những tác động tiêu cực đối với các hoạt động đầu tư, khai thác, mua bán dầu khí, trao đổi thương mại và các quan hệ hợp tác khác với các nước châu Phi - Trung Đông.
Về lâu dài, chúng ta cần xem xét lại quan hệ với các nước đối tác ở khu vực Trung Đông - Bắc Phi nói riêng, trên toàn bộ lục địa châu Phi và Trung Đông nói chung, trong đó cần ưu tiên trước hết phát triển quan hệ với những nước đã có những thay đổi thể chế theo hướng cải cách dân chủ, phát triển kinh tế thị trường, mở rộng hội nhập quốc tế và khu vực, giảm bớt các chính sách và tư tưởng cực đoan, cố hữu. Trong số các nước đã có những thay đổi theo xu hướng tiến bộ và tích cực đó có thể kể tới Nam Phi, UAE, Thổ Nhĩ Kỳ... Thực tiễn thời kỳ vừa qua cho thấy hợp tác với những nước này có nhiều thuận lợi, nhiều cơ hội và mang lại hiệu quả cao hơn. Đối với những nước khác, vẫn có thể phát triển quan hệ hợp tác, nhưng rủi ro nhiều hơn, do đó cần thận trọng hơn.
Trong các quan hệ quốc tế, bên cạnh những nguyên tắc độc lập, tự chủ, có lẽ tuân thủ nghị quyết của các cơ quan quốc tế phổ biến như Liên hợp quốc là hợp lý nhất đối với nước ta, tránh nghiêng theo một cường quốc hay nhóm nước riêng lẻ nào, vì mỗi nhóm hoặc cường quốc đó đều có những mục đích và lợi ích riêng của họ, nếu ta nghiêng theo họ, rất có thể ta sẽ mắc sai lầm, dễ bị bài bác, cô lập bởi đa số các nước khác trong cộng đồng quốc tế.
Trong tiến trình hợp tác, bên cạnh việc giành các điều kiện ưu tiên về thuế, tín dụng, cần lập một quỹ chung hoặc các quỹ riêng hoạt động trong các lĩnh vực như hỗ trợ hợp tác, xúc tiến thương mại và dự phòng rủi ro cho các công ty, cơ quan và các cá nhân người Việt Nam tham gia phát triển quan hệ hợp tác với các nước châu Phi và Trung Đông.
Điểm cuối cùng cần nhấn mạnh là làn sóng nổi dậy cùng những hiệu ứng lan toả dây truyền của nó đang diễn ra hiện nay ở các nước Trung Đông và Bắc Phi, giống như những gì đã xảy ra trước đây khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ vào thập niên 1990, một lần nữa cảnh báo và khẳng định một sự thật là những nước cố hữu không chịu thay đổi, ít thay đổi, hoặc chỉ thay đổi một cách hình thức, giả hiệu, nửa vời, chắc chắn sẽ phải trả giá cho những sự cố hữu đó.
Riêng đối với Việt Nam, chúng ta cũng cần nghiên cứu, tìm hiểu để kịp thời đưa vào thực thi những chính sách đổi mới phù hợp, đáp ứng những đòi hỏi của tình hình thực tế mới đang diễn ra nhanh chóng trong bối cảnh toàn cầu hoá, kinh tế tri thức và cách mạng công nghệ thông tin. Hơn 20 năm qua Việt Nam đã triển khai thực hiện một số chính sách đổi mới mang lại một số thành quả đáng ghi nhận, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Nhưng những đổi mới đó chưa đủ. Khi cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong những thập niên 1970-1980 đã lùi về phía sau, những khó khăn nặng nề kinh tế đã giảm bớt, Việt Nam đã rút được tên ra khỏi danh sách những nước thu nhập thấp, đặt chân lên được nấc thang đầu tiên của nước thu nhập trung bình, đời sống vật chất được cải thiện phần nào, thì người ta sẽ có những đòi hỏi cao hơn về tinh thần. Trong bối cảnh mới đó, ổn định là chưa đủ nếu trong sự ổn định còn hàm chứa nhiều sự trì trệ cố hữu. Ổn định đi đôi với năng động sẽ tốt hơn rất nhiều so với ổn định mà trì trệ.
Tài liệu tham khảo
1. Các trang web trên mạng bằng tiếng Anh và tiếng Việt liên quan đến châu Phi và Trung Đông từ tháng 12 năm 2010 đến nay.
2. Các bản tin TTXVN từ tháng 12 năm 2010 đến nay.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, Số tháng 3. 2011
Posted by VO HA - IAMES