Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

8. Chủ nghĩa đế quốc mới của Trung Quốc ở châu Phi

Chủ nghĩa đế quốc mới của Trung Quốc ở châu Phi

Ngày đăng: 25/04/2013



Người Anh từng tới châu Phi và Ấn Độ để chiếm đoạt nguyên liệu thô và thị trường. Giờ đây, châu Phi lại tự nguyện mở cửa chào đón một dạng đế quốc mới.
Ngày 24/3, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tới thành phố Dares Salaam, được coi là thủ đô kinh tế của Tandania, bắt đầu chuyến công du 7 ngày tới ba nước châu Phi gồm Tandania, Nam Phi và Cộng hòa Cônggô. Ông Tập Cận Bình sẽ tham dự Hội nghị thượng đỉnh Durban lần thứ 5 của nhóm BRICS (Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi).
2012- năm kỷ lục về thương mại và đầu tư
Việc ông Tập Cận Bình chọn châu Phi là điểm dừng chân trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên với tư cách là người đứng đầu Trung Quốc đã nói lên tầm quan trọng của châu Phi trong chiến lược bành trướng ra bên ngoài của một nước từng xem mình là quốc gia nằm ở trung tâm của thế giới.
Sự hiện diện của Trung Quốc tại châu Phi tập trung vào 3 mũi nhọn kinh tế: FDI, viện trợ và thương mại.
Năm 2012, quan hệ thương mại dự kiến sẽ đạt trên 200 tỷ USD so với mức 166 tỷ USD trong năm 2011 - mức cao nhất từ trước tới nay. Trung Quốc chiếm 20% tổng giá trị thương mại của châu Phi, trong khi châu Phi đã trở thành thị trường có tốc độ phát triển nhanh nhất đối với hang xuất khẩu của Trung Quốc.
Đầu tư của Trung Quốc vào châu Phi cũng tăng mạnh. Tính đến tháng 6/2012, nước này đã đầu tư 45 tỷ USD vào châu lục, trong đó hơn 15 tỷ USD là đầu tư trực tiếp. Hiện tại, có hơn 2.000 công ty Trung Quốc đang hoạt động tại 50 trên tổng số 54 quốc gia tại châu lục. 85% dấu ấn thương mại của Trung Quốc tại châu Phi là do các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra.
Trung Quốc tiếp tục xuất khẩu chủ yếu là thành phẩm sang châu Phi. Các chuyên gia Trung Quốc trong lĩnh vực ô tô ước tính rằng các nhà sản xuất đã bán khoảng 1 triệu chiếc xe tại châu Phi trong năm 2012. Với mức độ này, trong khoảng 10 năm tới, châu Phi sẽ trở thành một thị trường quan trọng đối với các nhà xuất khẩu Trung Quốc, cũng như Mỹ Latinh. Hiện nay, 70% lượng xe xuất khẩu của công ty ô tô Bắc Trung Quốc là xuất sang châu Phi. Thay vì bán hang thông qua các đại lý địa phương, các công ty Trung Quốc như Foton và Geely đã mở cửa hang để bán trực tiếp tại Kênia và Ai Cập.
Viện trợ của Trung Quốc chủ yếu tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng đường xá, cầu cống, chủ yếu phục vụ cho những dự án khai thác tài nguyên ở châu lục này.
Không phải tất cả đều là “màu hồng”
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Trung Quốc đã đầu tư khoảng 20 trung tâm nghiên cứu phát triển tại châu Phi. Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Cônggô đã phản ứng dữ dội khi công ty Trung Quốc ZTE International đã ký một thỏa thuận với Oxfam, một tổ chức từ thiện của Anh, để “thuê” lại hàng ngàn hécta đất của Cônggô. Nhiều nhà chính trị cho rằng đây là một thủ đoạn “cướp đất” của Trung Quốc thông qua các dự án nông nghiệp.
Những tranh cãi ngày càng tăng về cách thức thâm nhập mạnh mẽ vào châu Phi của Trung Quốc.
Châu Phi hoan nghênh đầu tư của Trung Quốc nhưng rất e ngại việc thâm nhập hàng hóa của nước này. Tháng 5/2012, ông Neil Bruce, Chủ tịch Hiệp hội các nhà sản xuất đồ nội thất của Dimbabuê, đã tố cáo với quốc hội nước này về việc đồ nội thất nhập khẩu từ Trung Quốc không phải có chất lượng tốt nhưng đã làm tê liệt ngành công nghiệp này tại địa phương.
Nhiều người châu Phi cho rằng các sản phẩm chất lượng thấp và giá rẻ của Trung Quốc là nguyên nhân cho sự sụp đổ của ngành công nghiệp địa phương, điển hình là Comatex và Batexci, hai công ty dệt may hàng đầu của Mali đã bị thiệt hại nghiêm trọng bởi vải giá rẻ từ Trung Quốc. Ngoài ra, hàng trăm nhà máy dệt cũng bị phá sản ở Nigiêria vì không thể cạnh tranh với hàng của Trung Quốc. Tandania cũng đang tạm ngừng nhập khẩu các sản phẩm từ Trung Quốc.
Tháng 12/2012, báo Người bảo vệ của Anh đưa tin rằng 1/3 số thuốc chống sốt rét ở Đông Phi, chủ yếu được nhập từ Trung Quốc và Ấn Độ, là sản phẩm kém chất lượng hoặc là hàng giả.
"Chủ nghĩa thực dân mới" của Trung Quốc
Trung Quốc đang nỗ lực chống lại những chỉ trích của châu Phi và thế giới về cái gọi là “chủ nghĩa thực dân mới” của họ ở châu Phi bằng cách tăng cường thâm nhập vào thị trường truyền thông ở khu vực này. Tháng 12/2012, tờ China Daily xuất bản bằng tiếng Anh đã phát hành một ấn bản hàng tuần tại châu Phi. Trước đó, vào tháng 1/2012, Đài truyền hình Trung Quốc CCTV đã thành lập một trung tâm tin tức đặt trụ sở tại Kênia, trong khi Tân hoa xã cũng đã bành trướng mạnh mẽ tại châu lục. Ngoài ra, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Trác Tuấn - nhân vật sẽ tiếp tục giữ vị trí chủ chốt trong quan hệ của Trung Quốc với châu Phi - đã công bố về việc mở “một trung tâm cho các phương tiện truyền thông châu Phi tại Bắc Kinh. Trung Quốc cũng cử một đặc sứ để điều phối việc xây dựng hình ảnh Trung Quốc tại các nước ở châu lục Đen.
Các hội nghị thượng đỉnh do Trung Quốc tổ chức trong năm 2012 còn bao gồm cả Diễn đàn ngư nghiệp Trung Quốc - châu Phi, Diễn đàn nhân dân Trung Quốc - Châu Phi, Hội nghị bàn tròn về hợp tác Trung Quốc - châu Phi, Diễn đàn xoá đói giảm nghèo và phát triển, Diễn đàn về hiện đại hoá nông nghiệp và xoá đói giảm nghèo, Diễn đàn về hợp tác giữa các chính quyền địa phương Trung Quốc - châu Phi, Diễn đàn các nhà lãnh đạo trẻ Trung Quốc - châu Phi... Những sáng kiến như vậy có thể chứng minh cho cách tiếp cận ngày một tinh vi của Trung Quốc.
Mặc dù hầu hết các chính phủ tại châu Phi đều khẳng định chính sách “hướng Đông”, coi quanhệ hợp tác với Trung Quốc là đối trọng chống lại ảnh hưởng của phương Tây, song sự hiện diện mạnh mẽ của nước này tại châu lục không phải ở đâu và lúc nào cũng được dư luận hoan nghênh. Không ít học giả, các chuyên gia kinh tế, các tổ chức xã hội và môi trường đã lên tiếng cảnh báo về điều mà họ gọi là “chủ nghĩa thực dân mới” khi Trung Quốc ráo riết khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá và đất đai của châu Phi mà không quan tâm đến các vấn đề xã hội và môi trường. Tổng thống Nam Phi Jacob Zuma cũng từng bày tỏ quan ngại về sự thiếu bền vững trong quan hệ hợp tác giữa châu Phi và Trung Quốc.
Cách đây ít ngày, ông Lamido Sanusi - Thống đốc Ngân hàng trung ương Nigiêria - viết trên Thời báo tài chính (Anh) rằng quan hệ Trung Quốc - châu Phi là quan hệ trong đó châu Phi bán tài nguyên thiên nhiên của mình để đổi lấy hàng hóa. Ông này viết: “Đó cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa thực dân. Người Anh từng tới châu Phi và Ấn Độ để chiếm đoạt nguyên liệu thô và thị trường. Giờ đây, châu Phi lại tự nguyện mở cửa chào đón một dạng đế quốc mới”.
Không một số liệu chính thức nào được công bố, song theo đánh giá, số người Trung Quốc tại châu Phi ở mức từ 750.000 đến 1 triệu người. Báo Afrik đánh giá đó không phải chỉ là một “làn sóng” người Trung Quốc nữa mà là một “trận sóng thần”. Số lượng người Trung Quốc không ngừng tăng tới làm ăn và định cư.
Người Trung Quốc có xu hướng định cư lâu dài tại châu Phi, đàn ông sang trước sau đó đưa gia đình sang theo. Họ tới châu Phi không phải vì mục đích du lịch mà là để kiếm tiền. Lục địa Đen đang là một thị trường mới của họ, nơi mọi thứ đều có thể. Tuy nhiên, sự hiện diện trên cũng gây ra những vụ tranh chấp lớn với người bản địa. Không chịu chấp nhận thân phận “chư hầu”, người châu Phi đã thể hiện sự phẫn nộ trước việc phải cạnh tranh với những vị khách Trung Quốc.
Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Trác Tuấn ước tính có khoảng 1-2 triệu doanh nhân Trung Quốc đang làm việc tại châu Phi. Ông này từng thừa nhận về “những nỗi đau ngày một gia tăng” trong quan hệ hợp tác với châu Phi mà một trong những nguyên nhân là do thiếu hiểu biết lẫn nhau.
Sự hiện diện của Trung Quốc là rất mới mẻ và thành công còn phụ thuộc vào việc liệu nước này có tìm thấy một cách thức tạo dựng quá trình phát triển bền vững ở châu Phi hay không./.
 
Linh Hương
Nguồn: toquoc.vn
 

7. Báo cáo Phát triển con người năm 2013: “Sự nổi lên của Nam bán cầu: Tiến bộ con người trong một thế giới đa dạng”

15:54' 3/4/2013
Ảnh minh họa
TCCSĐT - Trung tuần tháng 3 vừa qua, Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đã công bố Báo cáo Phát triển con người năm 2013, trong đó đánh giá sự nổi lên của Nam bán cầu đang tái định hình thế giới thế kỷ XXI, với việc các nước đang phát triển dẫn đầu về tăng trưởng kinh tế, giúp hàng trăm triệu người thoát đói nghèo, và đưa hàng tỷ người vào tầng lớp trung lưu mới của toàn cầu.


Theo Báo cáo nhan đề “Sự nổi lên của Nam bán cầu: Tiến bộ con người trong một thế giới đa dạng”, “sự nổi lên của Nam bán cầu cả về tốc độ và quy mô là chưa có tiền lệ. Chưa bao giờ trong lịch sử mà điều kiện sống và triển vọng của nhiều người lại thay đổi đáng kể và nhanh đến như vậy”.

Theo Báo cáo trên, hơn 40 nước đang phát triển trên thế giới đã đạt được nhiều kết quả tích cực về phát triển con người trong những thập kỷ gần đây, phần lớn là nhờ sự đầu tư vào giáo dục, y tế, các chương trình xã hội, và các chính sách cởi mở hơn với một thế giới đang ngày càng liên kết.

Kết quả trên được xem là một tiến bộ mang tính lịch sử, đang tạo ra nhiều cơ hội cho các nước hai bán cầu hợp tác theo nhiều cách thức mới nhằm thúc đẩy sự phát triển con người và đối mặt với những thách thức chung như suy thoái kinh tế, biến đổi khí hậu, tranh chấp lãnh thổ,… Các nước Nam bán cầu đang mở rộng các mối quan hệ cả về thương mại, công nghệ và các chính sách đối với Bắc bán cầu trong khi Bắc bán cầu lại đang tìm kiếm những mối quan hệ đối tác mới có thể thúc đẩy tăng trưởng và phát triển toàn diện với Nam bán cầu.

Báo cáo của UNDP cũng đưa ra cái nhìn chi tiết về một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Cụ thể:

• Trung Quốc và Ấn Độ đã tăng gấp đôi thu nhập bình quân đầu người trong chưa đầy 20 năm - nhanh gấp 2 lần châu Âu và Bắc Mỹ trong thời kỳ Cách mạng Công nghiệp.

• Dự đoán đến năm 2020, tổng thu nhập quốc dân (GDP) của ba nền kinh tế hàng đầu ở Nam bán cầu là Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin sẽ vượt xa GDP của Mỹ, Đức, Anh, Pháp, I-ta-li-a và Ca-na-đa cộng lại.

• Tiêu chuẩn sống ở Nam bán cầu tăng lên, tỷ lệ người sống dưới chuẩn nghèo trên toàn thế giới cũng giảm từ 43% (năm 1990) xuống còn 22% (năm 2008), trong đó chỉ tính riêng ở Trung Quốc đã có hơn 500 triệu người thoát nghèo. Kết quả lớn hơn là từ năm 1990 đến 2005, thế giới đã đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, giảm một nửa số người phải sống dưới 1,25 USD/1 ngày.

• Kim ngạch trao đổi thương mại giữa các nước Nam bán cầu từ chưa đến 10% đã tăng lên hơn 25% trong vòng 30 năm, trong khi kim ngạch trao đổi thương mại của các nước phát triển giảm từ 46% xuống dưới 30%. Dự đoán kim ngạch trao đổi thương mại giữa các nước Nam bán cầu sẽ “bỏ xa” các nước phát triển.

• Các nước Nam bán cầu đang ngày càng phụ thuộc và liên kết lẫn nhau. Có thể thấy điện thoại di động kết nối in-tơ-nét phổ biến trong hầu hết các gia đình ở châu Á và Mỹ La-tinh, nhưng nhiều hơn cả là ở châu Phi, và tất cả các điện thoại thông minh giá cả phải chăng đều được sản xuất bởi các công ty có trụ sở tại Nam bán cầu. Hiện Bra-xin, Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a và Mê-xi-cô là những nước đang có lượng truy cập các phương tiện truyền thông xã hội nhiều hơn bất kỳ nước nào, chỉ đứng sau Mỹ.

• Thế giới đang chứng kiến “sự tái cân bằng toàn cầu” mang tính lịch sử. Nếu như châu Âu và Bắc Mỹ nhờ cuộc cách mạng công nghiệp, và hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX, đã “che khuất” phần còn lại của thế giới, thì nay sự nổi lên của Nam bán cầu đã đảo ngược thực tế đó. Báo cáo dự đoán cái gọi là “sự nổi lên của Nam bán cầu” sẽ tiếp tục và có thể phát triển mạnh hơn nữa khi thế kỷ XXI chưa khép lại.

• Báo cáo năm 2013 của UNDP lần đầu tiên chỉ ra rằng những thập kỷ gần đây, hơn 40 nước đang phát triển trên thế giới đã đạt được những thành tựu về phát triển con người còn vượt xa hơn cả các tiêu chuẩn mà toàn cầu đặt ra. Song cũng giống các nước công nghiệp hóa Bắc bán cầu, các nước này cũng phải đối mặt với những thách thức dài hạn do dân số lão hóa, môi trường ô nhiễm, bất bình đẳng xã hội, sự mất cân xứng giữa nguồn nhân lực được đào tạo và các cơ hội việc làm thực tế. Điều này đòi hỏi những giải pháp ở cả cấp quốc gia lẫn toàn cầu nếu các nước đang phát triển muốn tiếp tục duy trì động lực phát triển con người.

• Báo cáo năm 2013 của UNDP cảnh báo nếu các nước không có biện pháp giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, những tiến bộ về phát triển con người tại các nước nghèo nhất trên thế giới có nguy cơ đình trệ, thậm chí sẽ bị đảo ngược. Nếu các nước không có sự phối hợp để ngăn chặn các thảm họa về môi trường, số người sống dưới chuẩn nghèo trên thế giới có thể tăng lên đến 3 tỷ người vào năm 2050.

Báo cáo nhấn mạnh nghèo đói vẫn là vấn đề nan giải tại phần lớn các nước đang phát triển. Ước tính 1,57 tỷ người, tương đương hơn 30% dân số của 104 nước tham gia nghiên cứu “Sự nổi lên của Nam bán cầu: Tiến bộ con người trong một thế giới đa dạng” của UNDP sống trong cái gọi là “nghèo đa chiều” (Nghèo được phản ánh bằng sự thiếu hụt phúc lợi xã hội ở các khía cạnh khác nhau như thu nhập, lương thực, nhà ở, giáo dục, chăm sóc sức khỏe,…) trong đó có 612 triệu người ở Ấn Độ.

Có thể nói, bên cạnh những thách thức, Nam bán cầu cũng có đủ tiềm lực kinh tế để trở thành lực lượng “quyền năng” trong tiến trình phát triển toàn cầu. Các nước đang phát triển ở Nam bán cầu hiện đang nắm giữ 2/3 trong tổng số 10,2 nghìn tỷ USD trao đổi ngoại hối của toàn thế giới, trong đó chỉ riêng Trung Quốc đã “sở hữu” đến 3 nghìn tỷ USD, và khoảng ¾ trong số 4,3 nghìn tỷ USD thuộc về các quỹ đầu tư của Nhà nước.

Tuy nhiên, các tổ chức toàn cầu vẫn chưa bắt kịp với sự thay đổi lịch sử này. Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và có dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, có chưa đến 3,3% cổ phần trong Ngân hàng thế giới (WB). Ấn Độ, nước sẽ sớm vượt qua Trung Quốc để trở thành nước đông dân nhất thế giới, vẫn chưa có một chiếc ghế thường trực nào tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Còn châu Phi, với 1 tỷ dân hiện đang sinh sống tại 54 quốc gia được công nhận chủ quyền, lại có tiếng nói rất yếu ớt tại hầu hết các tổ chức quốc tế.

Báo cáo 2013 cho rằng sự nổi lên của các nước Nam bán cầu là thách thức đối với các tổ chức toàn cầu hiện hành, đòi hỏi các tổ chức này phải thay đổi và đưa ra những cách thức mới cho các nước và các khu vực cùng nhau đương đầu với những vấn đề toàn cầu.

Báo cáo thúc giục thành lập một “Ủy ban Nam bán cầu mới” để các nước đang phát triển có thể đi đầu trong việc đề xuất các cách tiếp cận mới giúp cho việc quản trị toàn cầu đạt hiệu quả. Báo cáo nhấn mạnh sự nổi lên của Nam bán cầu và các tiềm năng để thúc đẩy tiến bộ cho các thế hệ tương lai khu vực này nên được xem là nguồn lợi cho tất cả các nước và khu vực khác, bởi vì thế giới nói chung đang ngày càng trở nên liên kết và phụ thuộc nhiều hơn vào nhau./.
Hà Bùi

6. Thông tin Hội nghị thượng đỉnh lần V - nhóm BRICS (3/2013)

1. Bước phát triển mới quan trọng của BRICS
16:6' 5/4/2013
TCCSĐT - Ngày 27-03-2013, Hội nghị thượng đỉnh lần thứ V của Nhóm các nước có nền kinh tế mới nổi phát triển nhất thế giới, gọi tắt là BRICS (gồm Bra-xin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) với chủ đề "BRICS - châu Phi: Quan hệ đối tác phát triển, hợp nhất và công nghiệp hóa", đã bế mạc tại thành phố cảng Đơ-ban (Durban) của Nam Phi.



Với việc dự kiến thành lập Ngân hàng phát triển và Quỹ dự phòng rủi ro; thành lập Hội đồng Kinh doanh và Hội đồng nghiên cứu chính sách, kết quả Hội nghị đánh dấu bước phát triển mới quan trọng của BRICS.

Quyết định quan trọng của BRICS

Những quyết định quan trọng của BRICS tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ V về việc thành lập Ngân hàng phát triển, Quỹ dự phòng rủi ro, Hội đồng kinh doanh và Hội đồng nghiên cứu chính sách; ký Tuyên bố chung của BRICS.

Các chi tiết cụ thể của hai định chế quan trọng gồm Ngân hàng phát triển và Quỹ dự phòng rủi ro sẽ được các nhà lãnh đạo BRICS thảo luận thêm tại cuộc gặp vào tháng 9-2013 ở Nga bên lề Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nước phát triển và các nước có nền kinh tế mới nổi G20 do Nga đảm nhận vai trò Chủ tịch luân phiên.

Theo Tổng thống Nam Phi Gia-cốp Du-ma (Jacob Zuma), Chủ tịch luân phiên BRICS năm 2013, lãnh đạo các nước thành viên đã nhất trí số vốn ban đầu của Ngân hàng phát triển đủ để tài trợ hiệu quả cho các dự án kết cấu hạ tầng. Trong đó, 5 nước thành viên của BRICS đã hoàn toàn nhất trí khởi động các cuộc đàm phán chính thức về các nội dung liên quan tới việc thành lập Ngân hàng này như nơi đặt trụ sở Ngân hàng và các dự án có thể được Ngân hàng tài trợ. Dự kiến, trong 5 năm tới, Ngân hàng phát triển sẽ đạt mức vốn hóa 4.500 tỷ USD để trở thành công cụ cho BRICS giành ảnh hưởng ngày càng lớn hơn trên trường quốc tế trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế ngày càng nghiêm trọng ở châu Âu. Quỹ dự phòng rủi ro của BRICS cũng sẽ được thành lập với quy mô vốn ban đầu ở mức 100 tỷ USD và có chức năng tương tự Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nhằm ngăn chặn hoạt động đầu cơ.

Cũng tại Hội nghị này, Hội đồng Kinh doanh và Hội đồng nghiên cứu chính sách của BRICS đã được thành lập nhằm thúc đẩy trao đổi thương mại và kinh doanh trong Nhóm và tạo thuận lợi cho quá trình hợp tác giữa các nước thành viên. Trong số các hiệp định được ký kết tại Hội nghị, có hai hiệp định về tài trợ phát triển kinh tế xanh và tài trợ phát triển các hệ thống hạ tầng tại châu Phi. Các nhà lãnh đạo cũng đã thảo luận về dự án xây dựng một tuyến cáp quang dài 28.400 km để kết nối các nước thành viên BRICS nhằm thoát khỏi sự phụ thuộc vào các nước phát triển trong lĩnh vực viễn thông.

 
 Lãnh đạo các nước thành viên của BRICS bày tỏ mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển toàn diện với châu Phi.

Trao đổi với báo "Độc Lập" (Nga), chuyên gia của Viện Nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga cho rằng, Ngân hàng phát triển của BRICS sẽ thực hiện chức năng thúc đẩy, đưa ra sáng kiến và sử dụng nguồn lực kinh tế từ tất cả các nguồn trong BRICS. Tuy nhiên, BRICS hiện có một hạn chế là diễn đàn này chưa có cơ quan điều phối hoạt động. Vì vậy, Tổng thống Nga V. Pu-tin đề nghị đưa BRICS trở thành một diễn đàn đối thoại, một cơ chế phối hợp hành động chiến lược được xem là táo bạo và hợp lý. Đề xuất này đề cập đến việc thành lập Ban Thư ký của BRICS để điều phối hoạt động và tăng cường thông tin cho các bên. Diễn đàn năm nay có thể chỉ ghi nhận sáng kiến này, nhưng nó sẽ được bàn thảo một cách nghiêm túc tại Hội nghị thượng đỉnh BRICS lần thứ VI tại Bra-xin vào tháng 3-2014.

Trong chính sách đối ngoại, các nước thành viên BRICS cảnh báo các mối đe dọa sử dụng vũ lực cũng như các lệnh trừng phạt đơn phương chống lại I-ran, kêu gọi giải quyết bế tắc về chương trình hạt nhân của I-ran bằng các biện pháp chính trị và ngoại giao. Lãnh đạo các nước thành viên BRICS cũng phản đối việc phương Tây kêu gọi lật đổ Tổng thống Xy-ri Ba-xa An Át-xát (Bashar al-Assad). Đồng thời, kêu gọi chính quyền Xy-ri tạo điều kiện để các nhân viên nhân đạo quốc tế làm việc, trợ giúp người dân nước này.

Tuyên bố chung của Hội nghị nhấn mạnh mục tiêu đưa BRICS trở thành một cơ chế phối hợp thường xuyên và dài hạn trong các vấn then chốt của nền kinh tế và chính trị thế giới, kêu gọi thiết lập thế cân bằng hơn đối với kinh tế thế giới cũng như dân chủ hơn trong quan hệ quốc tế. Tuyên bố chung kêu gọi cộng đồng quốc tế nỗ lực phối hợp chặt chẽ với nhau nhằm bảo đảm hòa bình và an ninh quốc tế.

Tổng thống Bra-xin, bà Đin-ma Ru-xép (Dilma Rousseff) đánh giá: "Hội nghị thượng đỉnh BRICS diễn ra trong bối cảnh thế giới đang có những thay đổi kinh tế sâu sắc, khiến các quốc gia thành viên của tổ chức này trở thành cổ đông và người chơi quan trọng trên trường quốc tế".

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhận định: “Phía trước các nước BRICS còn cả một chặng đường dài và còn nhiều tiềm năng phát triển. Trung Quốc cam kết cùng với các nước thành viên BRICS thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong Nhóm và thúc đẩy hợp tác hiệu quả hơn”.

Tại Hội nghị, Thủ tướng Ấn Độ Man-mô-han Xinh (Manmohan Sing) đã kêu gọi tăng cường chia sẻ kinh nghiệm giữa các nước BRICS trong các lĩnh vực năng lượng, an ninh lương thực, giáo dục, y tế, phát triển bền vững, công nghệ thông tin và dịch vụ công cộng. Ông cũng nhấn mạnh tới các thách thức của chủ nghĩa khủng bố và hải tặc, đồng thời cho rằng các nước cần sử dụng tiếng nói tập thể của mình để có đóng góp hữu ích và hiệu quả trong việc giải quyết các thách thức này, từ đó tăng cường hòa bình và an ninh toàn cầu.

Tổng thống Nga V. Pu-tin (Vladimir Putin) đã bày tỏ hy vọng các nước BRICS trong khi chú trọng đến việc mở rộng các quan hệ kinh tế sẽ tiếp tục phối hợp củng cố các thị trường công nghệ và công nghiệp. Ông khuyến khích thúc đẩy nền kinh tế xanh, trong đó áp dụng các tiêu chuẩn cao nhất về môi trường vì sự phát triển bền vững.

Đối thoại BRICS - châu Phi

Đối với các thành viên BRICS, Hội nghị thượng đỉnh lần này được tổ chức tại Nam Phi là cơ hội để thúc đẩy các bên hợp tác và làm sâu sắc thêm mối quan hệ với châu Phi, nơi chiếm 60% diện tích đất canh tác của toàn cầu chưa sử dụng và nguồn tài nguyên phong phú. Năm 2010, 6 nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới thuộc về châu Phi và sản lượng sản xuất của châu lục này sẽ tăng 50% trong 4 năm nữa. Tăng trưởng kinh tế toàn châu lục dự kiến ở mức khoảng 5,5% trong 5 năm tới. Xu hướng tăng trưởng này không phải là kết quả từ việc phát hiện các mỏ dầu trong thời gian gần đây. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), trong 5 năm qua, các nước không có dầu mỏ tại khu vực Hạ sa mạc Sa-ha-ra châu Phi vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 5,4%/năm.

Tại Hội nghị thượng đỉnh BRICS lần thứ V, lãnh đạo các nước thành viên tiến hành cuộc Đối thoại BRICS - châu Phi với chủ đề "Khai mở tiềm năng châu Phi: Hợp tác BRICS và châu Phi trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng". Phát biểu tại cuộc Đối thoại, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định: “Thế giới không thể hưởng hòa bình và đạt thịnh vượng nếu ở châu Phi không có hòa bình và phát triển. Các vấn đề quốc tế không thể được giải quyết nếu không có sự tham gia của châu Phi. Hệ thống điều hành toàn cầu sẽ không còn giá trị nếu thiếu tiếng nói của châu Phi. Thế kỷ XXI chắc chắn sẽ là thế kỷ nổi lên của khu vực này".

Lãnh đạo các nước thành viên khác của BRICS cũng bày tỏ mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác với châu Phi và cung cấp hỗ trợ trong lĩnh vực hạ tầng cũng như thúc đẩy phát triển bền vững và toàn diện ở châu lục này. Cũng tại cuộc Đối thoại, các nhà lãnh đạo châu Phi cho biết, châu lục này cần củng cố kết cấu hạ tầng, tăng cường hội nhập và công nghiệp hóa, tăng năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững. Họ bày tỏ mong muốn thiết lập một quan hệ đối tác hợp tác với các nước thành viên BRICS, trong đó nhấn mạnh tới sự hỗ trợ lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi và cùng thắng giữa các nền kinh tế mới nổi và các quốc gia đang phát triển.

Trong báo cáo mới nhất về xu hướng đầu tư toàn cầu với tiêu đề "Sự trỗi dậy của FDI BRICS và châu Phi" tại Hội nghị thương mại và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) được tổ chức trước thềm Hội nghị thượng đỉnh BRICS lần thứ V, các đại biểu đánh giá, BRICS đã vươn lên nằm trong số 20 nước hàng đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào châu Phi. Báo cáo cho biết, trong số 20 nước dẫn đầu về dòng FDI vào châu Phi năm 2011, Trung Quốc đứng thứ 4, Ấn Độ thứ 5 và Nam Phi thứ 17. Trong số những nước nắm cổ phiếu FDI hàng đầu ở châu Phi, Nam Phi đứng thứ 5, tiếp đến Trung Quốc thứ 6, Ấn Độ thứ 7 và Nga thứ 15. Trong năm 2010, lượng cổ phiếu FDI của BRICS ở châu Phi chiếm 17%, trong khi dòng vốn FDI chiếm tới 25%. Báo cáo cho biết, phần lớn các dự án FDI của BRICS tại châu Phi là trong ngành chế tạo và dịch vụ, giúp tạo việc làm và phát triển công nghiệp.

Ngoài ra, UNCTAD cũng cho biết, các nước BRICS cũng là những nước nhận được lượng vốn FDI và đầu tư ra nước ngoài quan trọng. Trong thập kỷ qua, dòng vốn FDI mà BRICS tiếp nhận đã tăng hơn gấp 3 lần, ước tính lên tới 263 tỉ USD vào năm 2012, trong khi vốn đầu tư ra nước ngoài của BRICS tăng từ 7 tỉ USD năm 2000 lên 126 tỉ USD năm 2012, chiếm 9% dòng FDI của thế giới.

Tham gia BRICS là ưu tiên trong chính sách đối ngoại mới của Nga

Báo "Độc Lập" (Nga) ngày 27-03-2013 đăng bài viết nhận định, vấn đề lành mạnh hóa môi trường kinh tế quốc tế là một trong những tâm điểm nghị sự của Hội nghị thượng đỉnh BRICS lần thứ V này. Nga coi việc tham gia BRICS là một trong những phương hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại mới bởi hiện nay BRICS đang sở hữu tiềm năng rất to lớn với 45% dân số toàn cầu, 29% diện tích thế giới và 27% tổng GDP toàn cầu. Ngoài ra, các nước BRICS ngày càng có nhiều lợi ích chiến lược tương đồng.

Trước khi diễn ra Hội nghị thượng đỉnh BRICS lần thứ V, Tổng thống Nga V. Pu-tin ký phê chuẩn và công bố chính sách của Nga tham gia BRICS, trong đó nhấn mạnh Nga ủng hộ việc biến diễn đàn này thành một mô hình kiểu mẫu của các mối quan hệ quốc tế, vượt lên các thiết chế hiện có đang đi theo các trục Đông - Tây hay Nam - Bắc. Nga cũng hy vọng rằng với sự đồng thuận cao trong lãnh đạo các nước thành viên, BRICS trong tương lai gần như hoàn toàn có thể trở thành một trong những nhân tố cơ bản của hệ thống quản trị toàn cầu, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại.

Bối cảnh hiện nay của nền kinh tế thế giới không cho phép kỳ vọng về một sự hồi phục vững chắc sau khủng hoảng. Các nước BRICS phải tăng cường phối hợp, không chỉ trong nội khối mà còn ở các diễn đàn lớn như G8 và G20. BRICS, với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7,5% trong các năm 2011-2012, trong khi ở châu Âu chỉ là 1,5% cần đạt được tiếng nói quan trọng hơn trong các thể chế tài chính toàn cầu như Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới./.
Thùy Dương
 
2. Bước đột phá của khối BRICS
22:23' 12/4/2013
TCCSĐT - Tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ V của Nhóm các nước có nền kinh tế mới nổi phát triển nhất thế giới gồm Bra-xin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi tại Đơ-ban (Nam Phi), các bên đã đạt được thỏa thuận về một số vấn đề then chốt, trong đó có việc khởi động thành lập Ngân hàng Phát triển mới BRICS. Điều đó sẽ mang lại lợi ích không chỉ cho các nước này, mà còn có thể hỗ trợ tích cực cho kinh tế toàn cầu.


“Giấc mộng toàn cầu” đang trở thành hiện thực
Hơn 10 năm trước, nhà Kinh tế trưởng của Goldman Sachs là ông Dim Ô-nây (Jim O’Neil) đã dự báo, vào khoảng giữa thế kỷ XXI trên thế giới sẽ có 6 thực thể kinh tế đơn lẻ lớn mạnh gồm Mỹ, Nhật Bản, Bra-xin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc. Ông viết tắt 4 nước cuối cùng trong chuỗi quốc gia này thành cái tên “BRIC” và coi đó là “bốn viên gạch vàng”. Sau đó 2 năm, trong “Báo cáo tình hình kinh tế toàn cầu” (tháng 10-2003), ông Dim Ô-nây cho rằng, BRIC đang trỗi dậy và có thể thực hiện “giấc mộng toàn cầu”. Dự báo đó ngày nay đang trở thành hiện thực.

Năm nước có nền kinh tế mới nổi BRICS (gồm Bra-xin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) vừa tiến hành Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ năm tại thành phố Đơ-ban (Durban), thuộc Nam Phi, trong hai ngày 26 và 27-3, đã thỏa thuận một số vấn đề then chốt, trong đó có việc sẽ khởi động thành lập Ngân hàng Phát triển mới BRICS (NDB) để tài trợ cho các dự án kết cấu hạ tầng với tổng vốn đầu tư vào khoảng 4.500 tỷ USD, được triển khai trong những năm sắp tới, đồng thời sẽ thiết lập một quỹ đề phòng rủi ro với số vốn ban đầu là 100 tỷ USD. Ngoài ra, BRICS còn dự định tổ chức Hội đồng Kinh doanh nhằm gắn kết các doanh nghiệp trong khối, Hội đồng Cố vấn nhằm hiện thực hóa các ý tưởng và Diễn đàn học giả nhằm thúc đẩy đối thoại và phản biện giữa chuyên gia các nước nội khối.

Mặc dù cho đến nay các nước này chưa thể hiện rõ họ có chung những mục đích gì, nhưng dư luận thế giới nhận thấy, khối BRICS đang có những bước đi mang tính bước ngoặt, nhằm khẳng định vai trò của khối này trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu; tăng cường sức mạnh để có thể trở thành một khối “kinh tế - chính trị độc lập” và vươn lên thách thức những trật tự tài chính quốc tế hiện hữu, chủ yếu do Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tạo ra trong nhiều thập kỷ vừa qua.

Với vai trò bổ sung thiết yếu cho các thể chế tài chính đa phương hiện nay, đề án thành lập Ngân hàng Phát triển mới BRICS (viết tắt là NDB), tuy mới chỉ đạt được sự nhất trí về cơ bản, song dư luận thế giới tỏ ra hy vọng NDB sẽ giúp tăng cường sự hợp tác nội khối BRICS, các nước đang phát triển, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững kinh tế toàn cầu; mở ra nhiều cơ hội để đạt được các lợi ích chung và các kết quả cùng có lợi cho các thành viên BRICS. Những cơ hội này chắc chắn sẽ đem lại lợi ích to lớn hơn nhiều, so với các thách thức do sự khác biệt về lợi ích tạo ra.

Tuy nhiên, để Ngân hàng Phát triển mới BRICS đi vào hoạt động và đem lại hiệu quả thực sự, các nhà lãnh đạo cấp cao các nước BRICS cần phải giữ vững quyết tâm chính trị cao, các chuyên gia tài chính cũng như các chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác cần phải chuẩn bị chu đáo và tạo ra những điều kiện thuận lợi, trước hết là xác định rõ chức năng của Ngân hàng, nơi đặt trụ sở và bổ nhiệm được người có uy tín và trình độ cao, đồng thời lại phải được toàn thể các thành viên của Khối đồng thuận, để làm Tổng Giám đốc, điều hành NDB.

Ý tưởng thành lập Ngân hàng NDB được các nhà lãnh đạo khối BRICS đề xuất từ tháng 3-2012 và đã giao cho các Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương các nước trong Khối nghiên cứu phương án khả thi cho đề án này. Mục tiêu quan trọng nhất của việc thành lập NDB là nhằm huy động nguồn lực cho các dự án phát triển hạ tầng cơ sở và phát triển bền vững trong các nước thuộc khối BRICS, các quốc gia có nền kinh tế mới nổi và đang phát triển khác, để bổ sung cho các nỗ lực hiện thời của các định chế đa phương và khu vực, vì mục tiêu phát triển và tăng trưởng toàn cầu. Chính vì vậy, sự hợp tác của khối BRICS cho đề án này có thể góp phần tích cực vào việc khắc phục những thách thức nêu trên, có cơ hội tránh được sự lệ thuộc vào các nước phương Tây.

Ý tưởng thành lập Ngân hàng Phát triển mới BRICS một khi trở thành hiện thực, thì đó sẽ là thành công lớn nhất, là bước phát triển đột phá kể từ khi khối BRICS ra đời cách đây 5 năm. Và đó sẽ là một sự kiện quan trọng thực hiện “giấc mộng toàn cầu”, như nhà kinh tế Dim Ô-nây đã dự đoán.

Suốt một năm chuẩn bị cho đến nay đã có một số cơ sở để tin rằng, Ngân hàng Phát triển BRICS có thể sẽ bảo đảm được nguyên tắc bình đẳng trong quá trình hoạt động tốt hơn Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Các quốc gia BRICS có thể sẽ đặt ra giới hạn tín dụng khác với các tổ chức như WB, IMF, cũng như sẽ ban hành chính sách không bắt buộc trong nhượng quyền tín dụng.

Ngân hàng NDB sẽ không phải là biểu tượng của “người mạnh giúp kẻ yếu”. Thấu hiểu được nhu cầu cấp thiết của mỗi quốc gia, các nước thành viên BRICS sẽ hỗ trợ lẫn nhau một cách bình đẳng và hiệu quả hơn thông qua NDB, cũng như tăng cường vị thế của Khối trong hệ thống tài chính toàn cầu. Trung Quốc, với nguồn dự trữ ngoại hối dồi dào, được cho là sẽ đóng vai trò then chốt trong Ngân hàng Phát triển mới BRICS.

Đương nhiên, việc thành lập Ngân hàng NDB cần trải qua một quá trình. Trong quá trình thương lượng và đề ra được những luật lệ rõ ràng về việc thành lập và vận hành ngân hàng, các quốc gia BRICS có thể giải quyết được những bất đồng trong hợp tác. Những lợi ích chung của các quốc gia này sẽ nảy sinh từ việc đẩy mạnh đối thoại, hợp tác và phối hợp. Đó sẽ là một “cơ chế hợp tác”. Ngân hàng Phát triển mới BRICS cũng sẽ đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực liên quan đến thương mại.

Hiện còn một số vấn đề về NDB cần được xúc tiến thương lượng để đi đến nhất trí đồng thuận. Trước hết đó là việc lựa chọn địa điểm đặt trụ sở chính. Ngân hàng Phát triển mới BRICS được đặt ở quốc gia nào thì đấy là vấn đề cực kỳ nhạy cảm. Trung Quốc với nguồn tài chính dồi dào, có thể sẽ trở thành nước đóng góp lớn nhất, đương nhiên, họ rất mong muốn ngân hàng này đặt trụ sở chính tại Thượng Hải. Trung Quốc hiện đã là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới nhưng vẫn khá lạc hậu về phương diện thu hút các tổ chức kinh tế quốc tế. Nếu NDB đặt trụ sở chính tại nước này thì đây sẽ là một sân chơi quan trọng đối với sự quản lý kinh tế của Trung Quốc.

Là nước viện trợ nhiều cho châu Phi, đồng thời Trung Quốc cũng là nước tiếp nhận viện trợ để phát triển, do vậy, bản thân quốc gia này cũng cần được cung cấp kinh nghiệm về thành lập và vận hành Ngân hàng Phát triển mới BRICS.

Tuy nhiên, ngay cả nước Nga, Ấn Độ, hay Bra-xin cũng đều có những nhu cầu, những lý do và những suy nghĩ tương tự. Do đó, địa điểm đặt trụ sở Ngân hàng Phát triển mới BRICS nhiều khả năng được chấp nhận hơn cả là Nam Phi. Thế nhưng, như vậy lại xảy ra các vấn đề liên quan tới sức ảnh hưởng và tỷ lệ góp vốn. Ngoài ra, còn vì một lý do khác, tuy hiện nay chưa trở thành quan trọng đặc biệt, nhưng sau một thời gian nữa nó sẽ buộc người ta phải quan tâm nếu xét trên “quan điểm động”. Thành viên khối BRICS chắc chắn sẽ không dừng lại ở con số 5 hiện nay, mà sẽ còn tăng lên 6, 7, 8, 9… Ngay bây giờ đã có nhiều người nêu ý kiến nên đổi tên “khối BRICS” thành “khối BRICSI”, nghĩa là thêm In-đô-nê-xi-a. Các nước có nền kinh tế mới nổi mong muốn gia nhập Khối này, chủ yếu sẽ tập trung ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, bởi thế Ngân hàng NDB đặt tại một nước châu Á sẽ “hợp lý và thuận lợi” hơn tại Nam Phi hay Bra-xin. Chính vì thế mà hiện vẫn chưa thể “chốt” vấn đề địa điểm đặt trụ sở của Ngân hàng NDB.

Việc xác định chức năng của Ngân hàng Phát triển mới BRICS cũng chưa thật rõ ràng. Hiện đã có Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Phi, Ngân hàng Phát triển châu Á. Các khu vực khác cũng đều có các ngân hàng phát triển mang tính khu vực của mình. Việc thành lập thêm Ngân hàng Phát triển mới BRICS, đương nhiên phải tính đến việc cần làm khác biệt với các ngân hàng phát triển khác như thế nào, nếu không thì vẫn chỉ là sự chồng chéo lên nhau. Và ai sẽ là người quản lý Ngân hàng Phát triển BRICS.
Ngay từ đầu đã xác định một tiêu chí rất quan trọng của Ngân hàng Phát triển mới BRICS là phải đối thoại bình đẳng, tránh tình trạng “ai đóng góp nhiều, người đó có quyền phát ngôn và có sức ảnh hưởng”, giống như ở WB hay ADB hiện nay. Mặt khác, cũng lại phải thấy rằng, các nước BRICS đang phải đối diện với sự phức tạp của nhiều mối quan hệ, việc lựa chọn giám đốc ngân hàng nhất thiết phải dựa trên tiêu chí năng lực tốt, có uy tín cao, được tất cả các bên đồng thuận. Nhưng, tính đến thời điểm hiện nay vẫn chưa xuất hiện một ứng cử viên nào thích hợp vào vị trí này.

Hội đồng Doanh nghiệp BRICS


Cùng với sự nhất trí khởi động thành lập Ngân hàng Phát triển BRICS, tại Hội nghị Thượng đỉnh Đơ-ban cũng đã tổ chức lễ ra mắt “Hội đồng Doanh nghiệp BRICS”. Hội đồng này được cơ cấu với mỗi nước 5 thành viên và hoạt động dưới sự điều hành của Chủ tịch Hội đồng theo chế độ luân phiên giữa các nước thành viên. Đây chính là cơ cấu phối hợp thường xuyên, liên tục và dài hạn giữa các nước BRICS nhằm bảo vệ quyền bình đẳng, tính minh bạch và sự cân bằng trong các mối quan hệ kinh tế - chính trị giữa khối BRICS với các tổ chức kinh tế quốc tế khác, cũng như quan hệ giữa các nước thành viên nội khối. Đây cũng chính là một bước nhằm khắc phục khiếm khuyết mà suốt những năm vừa qua khối BRICS đã nhận thức được, thấu hiểu, nhưng chưa thể thực hiện.

Như mọi người đã biết, tổng diện tích lãnh thổ của BRICS chiếm tới 26% tổng diện tích lục địa thế giới, dân số chiếm trên 43% dân số thế giới và GDP chiếm trên 16% GDP của thế giới. Từ năm 2006 - 2008, tốc độ tăng trưởng bình quân GDP hàng năm của Bra-xin từ 3% tới 4,9%, của Nga và Ấn Độ từ 6% - 8%, của Trung Quốc trên 9%, nghĩa là đều cao hơn các nước phát triển. Kể từ năm 2003 tới nay, kim ngạch buôn bán trao đổi giữa các nước BRICS tăng tới 500%. Dự trữ ngoại tệ của BRICS hiện lên tới hơn 4.500 tỷ USD, trong đó Bra-xin chiếm 260 tỷ, Nga 525 tỷ, Ấn Độ 300 tỷ và Trung Quốc gần 3.400 tỷ USD. Sức mạnh của khối BRICS to lớn như vậy, tiềm lực của Khối cũng không có một thực thể kinh tế - chính trị nào trên thế giới có thể vượt qua, ảnh hưởng và uy tín của các nước này tại khu vực, cũng như trên toàn thế giới ngày càng mạnh mẽ. Với triển vọng ngày càng phát triển, người ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng nhóm các nước mới nổi này sẽ ngày càng giành được vị thế tương xứng trong các mối quan hệ quốc tế. Và đấy cũng chính là một trong những lý do ra đời của Hội đồng Doanh nghiệp BRICS.

BRICS sẽ trở thành BRICSI?


Từ cái tên ban đầu cách đây hơn chục năm “BRIC”, do nhà kinh tế Dim Ô-nây viết tắt tên 4 nước Bra-xin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, vào tháng 5-2008 lần đầu tiên 4 nước này tiến hành cuộc họp ngoại giao với quy mô đầy đủ và đến ngày 16-6-2009 tiến hành Hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên tại thành phố Ê-ca-tê-ren-bua (Yekaterinburg), nước Nga. Như vậy, tổ chức BRIC với danh nghĩa là khối 4 nước có nền kinh tế mới nổi đã ra đời cách đây 5 năm. Đến đầu năm 2012 thêm Nam Phi gia nhập, tên của khối này có thêm chữ cái “S”, trở thành “BRICS”.

Hiện nay, Cộng hòa In-đô-nê-xi-a - “quốc gia vạn đảo” ở Đông - Nam Á, với dân số gần 240 triệu người, nền kinh tế lớn thứ 16 trên thế giới, có tốc độ tăng trưởng GDP 5-7%/năm, đã bày tỏ nguyện vọng gia nhập tổ chức của nhóm nước kinh tế mới nổi. Nếu In-đô-nê-xi-a trở thành thành viên chính thức của Khối này, thì cái tên của khối sẽ là “BRICSI”. Với một đất nước dân số lớn thứ tư trên thế giới, có nền kinh tế đang vươn lên mạnh mẽ như vậy, việc đứng vào hàng ngũ các nước mới nổi sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian. Khi đó cái tên “Khối BRICS” đương nhiên sẽ đổi thành “khối BRICSI”.

Hiện ở In-đô-nê-xi-a có khoảng 45 triệu người thuộc tầng lớp trung lưu. Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế, đến năm 2030, tầng lớp trung lưu ở quốc gia vạn đảo này sẽ tăng lên gấp đôi, tức là 90 triệu người và nền kinh tế In-đô-nê-xi-a lúc đó sẽ chiếm vị trí thứ bẩy trên thế giới. Như vậy, sức mạnh và uy tín của khối BRICSI sẽ ngày càng to lớn, ảnh hưởng của Khối sẽ cảng trở nên hấp dẫn và quan trọng hơn trong sự nghiệp bảo đảm công bằng, phát triển cân đối toàn cầu./.
Giang Sơn
 

5. Thắng lợi của lý tưởng “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở Vê-nê-xu-ê-la

16:58' 22/4/2013
TCCSĐT - Ngày 14-4 vừa qua, Hội đồng bầu cử quốc gia Vê-nê-xu-ê-la chính thức thông báo, quyền Tổng thống Ni-cô-lát Ma-đu-rô (Nicolas Maduro) giành thắng lợi trước ứng cử viên đối lập Ên-ri-kê Ca-pri-lết (Henrique Capriles). Với thắng lợi này, tân Tổng thống Ni-cô-lát Ma-đu-rô sẽ tiếp tục thực hiện đường lối xây dựng “chủ nhĩa xã hội thế kỷ XXI” ở Vê-nê-xu-ê-la.


Hội đồng bầu cử quốc gia Vê-nê-xu-ê-la cho biết, theo kết quả kiểm 99% tổng số phiếu bầu, quyền Tổng thống Ni-cô-lát Ma-đu-rô giành được 50,7 % số phiếu bầu, so với 49,1% số phiếu của ứng cử viên đối lập Ên-ri-kê Ca-pri-lết. Theo Hiến pháp Vê-nê-xu-ê-la, ứng cử viên nào giành được nhiều phiếu bầu nhất sẽ thắng cử ngay trong vòng đầu và tổng thống đắc cử sẽ có nhiệm kỳ 6 năm. Đây là kết quả "không thể đảo ngược" và với thắng lợi này, ông Ni-cô-lát Ma-đu-rô sẽ trở thành Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la nhiệm 2013-2019.

Tiến trình bỏ phiếu ở Vê-nê-xu-ê-la được xem là công bằng và vô tư. Các quan sát viên của mỗi đảng có mặt tại phòng phiếu để bảo đảm không có gian lận, còn các cử tri trước khi bỏ phiếu phải trình giấy tờ chứng minh chính thức, không phải là bản sao hay giấy tờ nào khác. Có hơn 80% trong số gần 19 triệu cử tri Vê-nê-xu-ê-la đã tham gia bầu cử.

Vài nét về hai ứng cử viên

Ứng cử viên Ni-cô-lát Ma-đu-rô, sinh năm 1962, thành viên Đảng xã hội thống nhất, người kế thừa cố Tổng thống U-gô Cha-vết (Hugo Chavez) là một nhà lãnh đạo nghiệp đoàn, xuất thân là công nhân lái tàu điện ngầm ở thủ đô Ca-ra-cát (Caracas).

Ông Ni-cô-lát Ma-đu-rô từng được bầu vào Quốc hội Vê-nê-xu-ê-la năm 2000, tái đắc cử năm 2005, và được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Từ năm 2006 đến năm 2012, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao và được Tổng thống U-gô Cha-vết bổ nhiệm làm Phó Tổng thống hồi tháng 10-2012. Với tư cách là người phụ trách ngoại giao của Vê-nê-xu-ê-la, ông N. Ma-đu-rô đã thay mặt Tổng thống U-gô Cha-vết tham dự nhiều sự kiện quốc tế, nổi bật là Hội nghị các nước Mỹ La-tinh tại Cô-lôm-bi-a hồi tháng 4-2012 trong thời gian ông U. Cha-vết đang trải qua các đợt điều trị bệnh ung thư ở Cu-ba.

 
 Ông Ni-cô-lát Ma-đu-rô đắc cử trong cuộc bầu cử Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la ngày 14-4-2013.

Tháng 12-2012, ông N. Ma-đu-rô được công nhận là người kế nhiệm Tổng thống U-gô Cha-vết lúc đó đã sang Cu-ba điều trị bệnh. Kể từ đó đến cuộc bầu cử ngày 14-4-2013, ông N. Ma-đu-rô đảm nhiệm vai trò lãnh đạo đất nước và giữ chức quyền Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la sau khi Tổng thống U-gô Cha-vết qua đời đầu tháng 3-2013. Là người được Tổng thống U-gô Cha-vết đích thân lựa chọn, ông N. Ma-đu-rô có lợi thế hơn ứng cử viên tổng thống khác trong cuộc bầu cử Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la ngày 14-4-2013.

Trong khi đó, ứng cử viên Ên-ri-kê Ca-pri-lết, sinh năm 1972, là người của Liên minh dân chủ thống nhất. Ông từng giữ chức Thống đốc bang Mi-ran-đa (Miranda) từ năm 2008 đến năm 2012. Năm 2012, ông từ chức thống đốc bang để ra tranh cử với Tổng thống U-gô Cha-vết trong cuộc bầu cử vào tháng 10-2012 nhưng thất bại. Trước đó, ông Ên-ri-kê Ca-pri-lết từng là Phó Chủ tịch trẻ nhất của Quốc hội Vê-nê-xu-ê-la đã bị giải thể và từng giữ chức Chủ tịch Quốc hội trong hai năm 1999 - 2000. Ông cũng từng là thị trưởng thành phố Ba-ru-ta qua 2 nhiệm kỳ (2000-2008). Ứng viên Ên-ri-kê Ca-pri-lết cũng là người sáng lập và lãnh đạo Đảng quyền tối cao của pháp luật.

Trong chiến dịch tranh cử tổng thống 2012, ông Ên-ri-kê Ca-pri-lết đã cam kết tiến hành thực thi một số thay đổi quan trọng trong đường lối đối ngoại của Vê-nê-xu-ê-la như sẽ hủy bỏ các hợp đồng mua vũ khí với Nga và xa lánh I-ran, Bê-la-rút (Belarus). Ông Ên-ri-kê Ca-pri-lết cũng cam kết sẽ đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa ở Vê-nê-xu-ê-la, dành nhiều cơ hội cho cho tầng lớp trung và thượng lưu; cam kết đưa tỷ lệ lạm phát xuống mức 1 con số; tăng sản lượng khai thác dầu lên tới 6 triệu thùng/ngày; thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Cùng với đó, ông Ên-ri-kê Ca-pri-lết còn cam kết sẽ tạo ra 100.000 việc làm mỗi năm.

Trong cuộc bầu cử tổng thống Vê-nê-xu-ê-la vào tháng 10-2012, mặc dù được các thế lực bên ngoài ủng hộ và tạo điều kiện nhưng ông Ên-ri-kê Ca-pri-lết vẫn thất bại trước ứng cử viên là đương kim Tổng thống U-gô Cha-vết với tỷ lệ phiếu bầu 44,31% trên 55,07%.

Trong chiến dịch tranh cử trước ngày bầu cử 14-4-2013, các lực lượng đối lập ở quốc gia này được một số phương tiện thông tin đại chúng ở phương Tây tiến hành chiến dịch thông tin trên quy mô lớn đưa tin thất thiệt về “những thất bại trong tiến trình cải cách ở Vê-nê-xu-ê-la” hoặc về “sự kết thúc của nhà lãnh đạo chuyên chế”. Ngoài ra, một số phương tiện thông tin đại chúng ở phương Tây liên tục đưa tin và bài nhằm làm lu mờ ảnh hưởng của cố Tổng thống U-gô Cha-vết và hạ thấp uy tín của người kế nhiệm ông - quyền Tổng thống Ni-cô-lát Ma-đu-rô.

Tương lai nào cho Vê-nê-xu-ê-la ?

Ra đi ở tuổi 58, cố Tổng thống U-gô Cha-vết để lại một đất nước Vê-nê-xu-ê-la vừa đứng trước hy vọng về một tương lai sáng sủa, vừa xen lẫn những khó khăn kinh tế và tình trạng phân cực chính trị ở trong nước. Kết quả sít sao của 2 ứng cử viên Ni-cô-lát Ma-đu-rô (50,7 % số phiếu ủng hộ) và Ên-ri-kê Ca-pri-lết (49,1% số phiếu ủng hộ) phần nào chứng tỏ sự phân cực này.

Một số nhà quan sát nhận định, Vê-nê-xu-ê-la sẽ phải đối mặt với thời kỳ đầy thách thức vì thủ lĩnh các phong trào đối lập được một số thế lực bên ngoài ủng hộ, có thể tận dụng thời kỳ khó khăn này để kêu gọi người dân nước này đoạn tuyệt với các di sản của cố Tổng thống U-gô Cha-vết. Ngay cả các chuyên gia kinh tế trong Chính phủ Vê-nê-xu-ê-la cũng tỏ ra lo ngại trước nhiệm vụ khó khăn là duy trì sự ổn định kinh tế trong nước trước các thách thức lạm phát, lương thực thiết hụt, kết cấu hạ tầng xuống cấp sẽ tác động lớn tới đời sống của người dân.

Sau khi giành thắng lợi trong cuộc bầu cử ngày 14-4-2013, ông N. Ma-đu-rô không chỉ được thừa hưởng một nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong thập niên qua nhờ giá dầu tăng nhưng cũng sẽ phải đối mặt với không ít thách thức. Việc phá giá 32% đồng tiền Bô-li-va (Bolivar) mới đây đã tạo ra dư chấn trong nền kinh tế. Biện pháp này tuy giúp giảm thâm hụt ngân sách nhưng cũng tạo ra áp lực về giá cả trong một đất nước có tỷ lệ lạm phát là 20%. Việc phá giá đồng Bô-li-va cũng chưa mang lại nhiều lợi ích trong việc ngăn chặn tình trạng thiếu hụt những mặt hàng thực phẩm thiết yếu.

Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào, tầm ảnh hưởng của cố Tổng thống U-gô Cha-vết sẽ định hình nền chính trị và xã hội Vê-nê-xu-ê-la trong nhiều năm. Đây là một lợi thế quan trọng của tân Tổng thống Ni-cô-lát Ma-đu-rô.

Là người được chính Tổng thống U-gô Cha-vết “chọn mặt gửi vàng”, trong chiến dịch tranh cử vừa qua, ông N. Ma-đu-rô gương cao khẩu hiệu “U-gô Cha-vết chỉ đường, Ni-cô-lát Ma-đu-rô cầm lái”. Đây là thông điệp gửi tới các cử tri Vê-nê-xu-ê-la rằng một khi họ bỏ phiếu cho ông cũng chính là bỏ phiếu ủng hộ đường lối và chính sách cải cách của cố Tổng thống U-gô Cha-vết.

Ông Ni-cô-lát Ma-đu-rô cam kết tiếp tục sứ mệnh cách mạng cao cả của cố Tổng thống U-gô Cha-vết, giải quyết tình trạng lạm phát cao, thiếu lương thực cũng như tỷ lệ tội phạm cao ở Vê-nê-xu-ê-la .

Trong chiến dịch tranh cử, quyền Tổng thống Ni-cô-lát Ma-đu-rô tuyên bố sẽ tiếp tục các chính sách xã hội tốt đẹp được tài trợ bằng thu nhập từ khai thác và xuất khẩu dầu mỏ, sẽ giảm tỷ lệ nghèo từ 50% xuống còn 29% thông qua các chương trình y tế, giáo dục và bảo đảm thực phẩm cho người dân. Tân Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la sẽ phải chỉ đạo Ủy ban Chính phủ điều tra nguyên nhân gây nên căn bệnh chết người ở cố Tổng thống U-gô Cha-vết. Theo ông N. Ma-đu-rô, “các thế lực đen tối” đã đầu độc nguyên thủ Vê-nê-xu-ê-la và nhiều nước Mỹ La-tinh, trong đó có cố Tổng thống U-gô Cha-vết khi ông bị nhiễm một loại bệnh ung thư kỳ lạ, chưa từng gặp trong lịch sử y học thế giới.

Sắp tới đây, trong điều kiện mới, tân Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la Ni-cô-lát Ma-đu-rô sẽ phải điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại nhưng sẽ vẫn theo hướng tiếp tục phát triển đất nước theo đường lối xây dựng “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” và phát huy vai trò cũng như vị thế của Vê-nê-xu-ê-la như ngọn cờ của phong trào cánh tả ở Mỹ La-tinh./.
Thùy Dương
“Tư tưởng chính trị của cựu Tổng thống U-gô Cha-vết và đánh giá tương lai của cuộc cách mạng Bô-li-va-ri-a-na”
22:2' 27/4/2013
TCCSĐT – “Tư tưởng chính trị của cựu Tổng thống U-gô Cha-vết và đánh giá tương lai của cuộc cách mạng Bô-li-va-ri-a-na” là chủ đề cuộc Tọa đàm do Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Đại sứ quán nước Cộng hòa Bô-li-va-ri-a-na Vê-nê-xu-ê-la tại Việt Nam tổ chức sáng ngày 26-4-2013, tại Hà Nội.


Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Bô-li-va-ri-a-na Vê-nê-xu-ê-la tại Việt Nam, ông Gioóc-giơ Rô-đôn U-xa-tê-gi (Jorge Rondon Uzcategui); GS. TS Vũ Văn Hiền, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam - Vê-nê-xu-ê-la; PGS. TS Nguyễn Viết Thảo, Phó Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tham dự Tọa đàm.
Ngày 11-6-2012, nhân dịp kêu gọi bầu cử tổng thống, cố Tổng thống U-gô Cha-vết đã giới thiệu kế hoạch xã hội lần thứ hai 2013 - 2019, trong đó vạch ra 5 mục tiêu để xác định hiện tại và tương lai của đất nước Vê-nê-xu-ê-la là một đất nước tự do có chủ quyền. Đó là:

“- Bảo vệ, mở rộng và củng cố điều quý giá nhất mà chúng ta đã chinh phục cách đây 200 năm: nền độc lập quốc gia;

- Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI Bô-li-vi-a ở Vê-nê-xu-ê-la như một mô hình thay thế cho hình thức phá hoại và thù địch của chủ nghĩa tư bản; nhằm bảo đảm “hạnh phúc lớn nhất, an ninh xã hội và ổn định chính trị” cho người dân;

- Đưa Vê-nê-xu-ê-la trở thành một đất nước giàu mạnh về kinh tế, xã hội, chính trị ở Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê để bảo đảm việc hình thành một khu vực hòa bình ở châu Mỹ;

- Đóng góp vào sự phát triển của khu vực, của một thế giới đa cực và đa phương, bảo đảm sự cân bằng của thế giới và hòa bình của hành tinh;

- Bảo tồn sự sống của nhân loại trên hành tinh".
Phát biểu khai mạc Tọa đàm, PGS. TS Nguyễn Tất Giáp, Phó Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh, Việt Nam và Vê-nê-xu-ê-la dù xa nhau nửa vòng trái đất, nhưng hai dân tộc, nhân dân hai nước, lãnh đạo của hai nước, từ rất sớm, đã thiết lập được mối quan hệ hữu nghị hết sức tốt đẹp. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhân dân Việt Nam đã nhận được sự đoàn kết, ủng hộ, chia sẻ hết sức quý báu của nhân dân Vê-nê-xu-ê-la. Điều đó tạo ra sự cổ vũ lớn lao đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam trước đây và trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước ngày nay. Đặc biệt, hiện nay sự hợp tác phát triển giữa hai nước ngày càng toàn diện trên nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học, giáo dục,…Nhân dân Việt Nam với tình cảm đặc biệt trân trọng mối quan hệ giữa hai nước luôn luôn dõi theo, ủng hộ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước của Vê-nê-xu-ê-la.

“Mô hình chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” mà nhân dân Vê-nê-xu-ê-la cùng các nước Bô-li-vi-a, Ê-cu-a-đo, Ni-ca-ra-goa và một số nước Mỹ La-tinh đang xây dựng đã đạt được những thành tựu quan trọng bước đầu, như chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng, đời sống nhân dân được cải thiện, đối ngoại được mở rộng, an ninh được củng cố, vị thế của Vê-nê-xu-ê-la và nhiều nước trong khu vực được củng cố và nâng cao trên trường quốc tế. Để đạt được những thành tựu trên không thể không nhắc đến tư tưởng chính trị và công lao của cựu Tổng thống U-gô Cha-vết.

Tại buổi Tọa đàm, các học giả Việt Nam và Vê-nê-xu-ê-la đã trao đổi những kết quả nghiên cứu, những suy nghĩ, cảm tưởng về mô hình “chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI ở Mỹ La-tinh hiện nay”; những nội dung đặc sắc trong tư tưởng của cố Tổng thống U-gô Cha-vết…; về cuộc cách mạng Bô-li-va-ri-a-na, cùng những nhận thức về hướng đi, giải pháp và tương lai cho việc tiến tới xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn - xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; nâng cao tính độc lập của khu vực, tạo tiền đề để các nước trong khu vực có thể hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác kinh tế, chính trị, quân sự và văn hóa khu vực và tiểu khu vực cùng phát triển, củng cố niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.

Trong tham luận “Tư tưởng chính trị của Tổng tư lệnh U-gô Cha-vết Phri-át: nguồn gốc và giá trị”, Đại sứ Vê-nê-xu-ê-la tại Việt Nam Gioóc-giơ Rô-đôn U-xa-tê-gi đã cung cấp đầy đủ hơn, cập nhật hơn về bối cảnh thế giới và trong nước đã góp phần hình thành nên những tư tưởng chính trị của U-gô Cha-vết, về cuộc cách mạng Bô-li-va-ri-a-na, về chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở Vê-nê-xu-ê-la,…Đại sứ R. U-xa-tê-gi khẳng định: “Chắc chắn rằng, những ý tưởng chính trị của Tổng thống U-gô Cha-vết đã vượt ra khỏi phạm vi của Vê-nê-xu-ê-la và ngày càng trở nên hiệu quả.

Những ý tưởng này đã đánh thức các dân tộc Mỹ La-tinh, dẫn đến sự xuất hiện của các chính phủ quốc gia và các xu hướng cách mạng, sự hình thành các mô hình mới về hội nhập khu vực vì lợi ích của các dân tộc Mỹ La-tinh và việc mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ hữu nghị, đoàn kết và hợp tác với tất cả các dân tộc trên thế giới. Đến nay, ý tưởng của ông đã trở nên mạnh mẽ, ngăn chặn chủ nghĩa đế quốc bá quyền thiết lập trật tự thế giới mới, một trật tự MỚI nhưng CŨ, bởi nó vẫn giữ nguyên bản chất: sự bóc lột giữa người với người, chủ nghĩa thực dân và tàn phá thiên nhiên”./.
Tính từ năm 1977 đến nay, lãnh tụ U-gô Cha-vết đã có 36 năm hoạt động cách mạng, trong đó có 15 năm làm tổng thống, tạo ra một trang sử mới cho đất nước Vê-nê-xu-ê-la. Di sản của ông đã để lại gồm: cuộc cách mạng Bô-li-va-ri-a-na đã có được 15 năm chiến đấu sáng tạo và chiến thắng vẻ vang; một chính quyền cách mạng của nhân dân đã được xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy, thể chế quản lý và đội ngũ cán bộ; sự hiểu biết và ủng hộ rộng rãi của bạn bè quốc tế. Và trên hết, đó là một nền tảng tư tưởng chính trị đúng đắn, phù hợp mang tên U-gô Cha-vết. 

Thanh Thúy
 

4. Vị thế và vai trò của Trung Quốc trong tái thiết cục diện châu Á-Thái Bình Dương

Tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương là một trật tự quốc tế tương đối ổn định, mang tính khu vực được hình thành trong quá trình tồn tại và phát triển của các nước ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trật tự này được đa số các nước trong khu vực công nhận.

Trên thực tế, đây chính là sự công nhận về vị thế cũng như vai trò của các nước khu vực này trong quá trình duy trì sự vận hành trật tự, ổn định. Các nước lớn đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng trật tự và vận hành ổn định. Vì thế, các nước lớn có ảnh hưởng quan trọng đối với việc xây dựng và giữ vững trật tự. Quá trình thay đổi tình hình thường xảy ra những biến động. Biến động là một tiêu chí quan trọng trong quá trình điều chỉnh hoặc tái thiết cục diện. Từ kinh nghiệm lịch sử cho thấy đến nay vẫn chưa xuất hiện những biến động trong việc thay đổi tình hình. Đương nhiên, trong quá trình thay đổi tình hình, mức độ biến động là khác nhau, có trường hợp biến đổi tình hình với mức độ nhẹ, thậm chí có thể gọi là biến đổi mang tính hòa bình; có trường hợp biến đổi tình hình với mức độ lớn, thậm chí xảy ra chiến tranh thế giới. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, một phần tạo thành quan trọng tình hình châu Á-Thái Bình Dương là tình hình hai cực Mỹ-Xô, song vẫn chưa thể hình thành nên một tình hình độc lập. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất, ý đồ xây dựng một cục diện thế giới do Mỹ làm chủ. Cùng với việc thực lực Mỹ suy yếu, thực lực của các nước lớn khác không ngừng nâng cao, khoảng cách thực lực giữa hai bên không ngừng thu hẹp, điều này khiến cho việc xây dựng tình hình khu vực ngày càng trở thành một hiện tượng nổi cộm mang tính quốc tế. Việc tái thiết tình hình châu Á-Thái Bình Dương chính là một biểu hiện chủ yếu. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang trở thành tiêu điểm của việc tái thiết cục diện mới 
Trước tiên, Mỹ đang chuyển trọng tâm chiến lược toàn cầu của mình sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Một biểu hiện quan trọng trong đó là việc Mỹ bố trí quân sự ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương vốn trở thành khu vực trọng điểm trong việc bố trí quân sự trên toàn cầu của Mỹ. Tại Hội nghị Đối thoại Shangri-La năm 2012, Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ cho biết trong 8 năm tới, việc bố trí quân sự ở nước ngoài trên toàn cầu của Mỹ sẽ chuyển từ khu vực trọng điểm châu Âu sang khu vực trọng điểm châu Á-Thái Bình Dương. Tính đến năm 2020, việc bố trí lực lượng hải quân Mỹ sẽ thay đổi từ sự phân chia đều 50% cho hai khu vực Thái Bình Dương và Đại Tây Dương như hiện nay thành 60% cho khu vực Thái Bình Dương và 40% cho khu vực Đại Tây Dương; trong tình hình duy trì 10 tàu chiến như hiện nay, Mỹ dự định bố trí 6 chiếc ở khu vực Thái Bình Dương. Việc bố trí quân sự lần này đã có những thay đổi rất lớn so với việc bố trí quân sự ở nước ngoài sau Chiến tranh thế giới thứ Hai. Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, xuất phát từ những đòi hỏi của cuộc đọ sức chiến lược với Liên Xô, Mỹ luôn đặt trọng tâm bố trí quân sự tại khu vực Tây Âu, tiếp đến là khu vực Đông Bắc Á. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, việc bố trí quân sự của Mỹ ở nước ngoài từ châu Âu nghiêng sang châu Á-Thái Bình Dương, quân đội Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng chuyển dịch từ khu vực Đông Bắc Á sang khu vực Đông Nam Á. Mặc dù đã xuất hiện sự điều chỉnh này, nhưng việc bố trí lực lượng của Mỹ tại khu vực châu Âu và châu Á-Thái Bình Dương vẫn giữ được trạng thái ổn định. Hiện nay, việc bố trí lực lượng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương lớn hơn so với việc bố trí lực lượng ở khu vực châu Âu, điều này phản ánh trọng tâm bố trí quân sự ở nước ngoài trên toàn cầu của Mỹ đang có sự thay đổi, khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã trở thành khu vực tiêu điểm chú ý toàn cầu của Mỹ. 
Thứ hai, khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang trở thành khu vực tiêu điểm của cuộc đọ sức giữa các nước lớn . Điều này được biểu hiện chủ yếu ở bốn điểm sau: một là, Nga coi khu vực châu Á-Thái Bình Dương là khu vực trọng điểm của việc phát triển ra ngoài. Cùng với việc NATO mở rộng về phía Đông và cuộc chiến tranh Côxôvô bùng nổ, việc Nga mở rộng phát triển sang châu Âu càng gặp nhiều trở ngại hơn. Hơn nữa, tâm lý phòng thủ Nga của Các quốc gia độc lập (SNG) khác xung quanh Nga không ngừng tăng lên khiến Nga coi khu vực châu Á-Thái Bình Dương là sự lựa chọn tốt nhất để mở rộng phát triển ra ngoài. Đây cũng chính là nguyên nhân sâu xa đằng sau hàng loạt động thái của Nga trong những năm gần đây như tăng cường sự hiện diện quân sự của mình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, va chạm với Nhật Bản ngày càng lớn, đẩy mạnh đầu tư vào phần lãnh thổ châu Á của mình. Hai là, “Chính sách hướng Đông” của Ấn Độ đang được thúc đẩy thực hiện. Đầu những năm 90 thế kỷ 20, Ấn Độ đã đưa ra chiến lược phát triển quốc gia mang tên “Chính sách hướng Đông”, thậm chí còn đề ra “Thế kỷ mới châu Á là thế kỷ của Ấn Độ” v.v…. Ba là, Nhật Bản tích cực mở rộng ảnh hưởng ra nước ngoài. Từ những năm 90 của thế kỷ 20, Nhật Bản bắt đầu ra sức mở rộng ảnh hưởng của mình ra nước ngoài. Trong quá trình này, Nhật Bản coi khu vực châu Á-Thái Bình Dương là trọng điểm để mở rộng ảnh hưởng của mình. Chẳng hạn như Nhật Bản coi “Khủng hoảng eo biển Đài Loan” là tiêu điểm “chú ý” của mình trong văn kiện công tác bảo vệ an ninh quốc gia, không ngừng đẩy mạnh việc tham gia các vấn đề Biển Đông, liên tục nới lỏng “Ba nguyên tắc xuất khẩu vũ khí” cũng như không ngừng làm gia tăng những va chạm quân sự với các nước khác v.v…. Tất cả những điều này cho thấy Nhật Bản đang cố gắng nâng cao tầm ảnh hưởng của mình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Bốn là, sức mạnh tổng hợp quốc gia của Trung Quốc đang được đẩy mạnh nhanh chóng, lợi ích ở nước ngoài cũng không ngừng gia tăng. Từ khi cải cách, mở cửa đến nay, thực lực kinh tế Trung Quốc không ngừng nâng cao, đặc biệt là sau khi bước vào thế kỷ mới, cùng với thực lực kinh tế nâng lên, thực lực quân sự của Trung Quốc cũng không ngừng lớn mạnh, lợi ích ở nước ngoài của Trung Quốc đang tăng với tốc độ nhanh. Điều này khiến cho lợi ích quốc gia của Trung Quốc và các nước láng giềng phát triển từ xung đột lợi ích quốc gia mang tính thông thường sang xung đột lợi ích quốc gia mang tính hạt nhân. Có thể nói, cuộc đọ sức giữa các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang diễn ra ngày càng gay gắt. 
Cùng với việc điều chỉnh chiến lược quốc gia và sự thay đổi không ngừng về tương quan thực lực của các nước liên quan trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cục diện khu vực này đang có những thay đổi bí hiểm, hay nói cách khác, cục diện châu Á-Thái Bình Dương mới đang dần xuất hiện. Tình hình châu Á-Thái Bình Dương ảnh hưởng lớn đến tình hình thế giới Từ thời kỳ cận đại đến nay, tình hình thế giới đã nhiều lần có những thay đổi. Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, tình hình thế giới là cục diện hai cực do Mỹ và Liên Xô làm chủ. Sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất, nhưng vẫn chưa thể xây dựng một cục diện thế giới do Mỹ làm chủ. Thế giới đang phát triển theo hướng đa cực hóa, tình hình khu vực đang trong quá trình xây dựng. Từ phía Mỹ, ý đồ chiến lược của Mỹ là xây dựng nên một cục diện thế giới do Mỹ làm chủ. Từ góc độ toàn cầu, châu lục Á, Âu là hai châu lục có tầm ảnh hưởng mạnh nhất đối với thế giới, chi phối sự ổn định và phát triển của toàn thế giới. Chỉ cần Mỹ làm chủ được cục diện Á-Âu, Mỹ có thể làm chủ cục diện thế giới. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu của việc Mỹ và Liên Xô lấy hai châu lục này làm trung tâm của cuộc đọ sức trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Mỹ rất coi trọng việc xây dựng cục diện châu Á-Thái Bình Dương. Một mặt, Mỹ đẩy mạnh tầm ảnh hưởng của mình đối với các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ví dụ như Mỹ tăng cường quan hệ với các nước đồng minh ở khu vực này như Nhật Bản và Hàn Quốc; cải tổ cơ chế an ninh hiện có của khu vực châu Á-Thái Bình Dương; nỗ lực xây dựng một cơ chế liên minh đa phương ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương v.v… Mặt khác, Mỹ thông qua việc đẩy mạnh bố trí lực lượng quân sự của mình ở khu vực này, đẩy mạnh lực hướng tâm của các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương đối với mình, đồng thời ràng buộc nhiều quốc gia khu vực này hơn nữa để không dẫn đến những biến động mới. 
Từ góc độ Nga, tuy thực lực của Nga đã có phần giảm sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhưng từ quỹ đạo phát triển trong lịch sử Nga, việc dân tộc này một lần nữa trỗi dậy là việc sớm muộn. Hiện nay, những vấn đề hàng đầu được Nga quan tâm là làm thế nào để xây dựng cục diện khu vực châu Á-Thái Bình Dương, phát huy vai trò như thế nào trong tình hình mới châu Á-Thái Bình Dương hay làm thế nào để có thể lấy cục diện châu Á-Thái Bình Dương làm “nền tảng” nhằm gây ảnh hưởng đến tình hình thế giới. Vì thế, Nga không ngừng mở rộng ảnh hưởng đối với các công việc khu vực châu Á-Thái Bình Dương, không ngừng dẫn dắt tình hình khu vực phát triển theo hướng có lợi cho mình, đặc biệt, Nga còn liên tục tiến hành tập trận chung ở khu vực này cũng như gây ra các va chạm với Nhật Bản, gây sức ép quân sự với nước này để hạn chế ảnh hưởng của Mỹ trong các công việc khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nâng cao vị thế và vai trò của mình trong quá trình xây dựng cục diện khu vực này. Là một trong những cường quốc về kinh tế và khoa học kỹ thuật trên thế giới, khu vực châu Á-Thái Bình Dương là sân chơi để Nhật Bản “bước” vào thế giới. Nếu như vai trò của Nhật Bản trong các công việc của khu vực không được công nhận, Nhật Bản sẽ không thể phát huy vai trò lớn hơn trong các công việc quốc tế. Chính vì vậy, việc xây dựng cục diện châu Á-Thái Bình Dương là vô cùng quan trọng đối với Nhật Bản. Hiện nay, các tranh chấp về chủ quyền biển đảo cũng như quyền lợi biển giữa Nhật Bản với các nước láng giềng cũng chính là một trong những phương thức để Nhật Bản theo đuổi việc mở rộng ảnh hưởng của mình.
Đối với Trung Quốc, sức mạnh tổng hợp quốc gia của Trung Quốc đang không ngừng tăng lên đó là một sự thật không thể phủ nhận. Trung Quốc chủ trương phát triển hòa bình, hy vọng tình hình châu Á-Thái Bình Dương tốt đẹp là có lợi cho hòa bình và ổn định của khu vực cũng như có lợi cho tình hình phát triển của các nước trong khu vực này. Đây cũng chính là điều mà Trung Quốc chủ trương tích cực xây dựng. Đương nhiên, việc xây dựng cục diện này đòi hỏi Trung Quốc phát huy vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và duy trì cục diện đó. Cùng với việc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc sẽ ngày càng phát huy vai trò lớn hơn nữa trong quá trình xây dựng tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trung Quốc cần thúc đẩy việc tái thiết cục diện khu vực châu Á-Thái Bình Dương Trước tiên, hiện nay việc Mỹ thúc đẩy tiến trình xây dựng cục diện khu vực châu Á-Thái Bình Dương là không có lợi cho Trung Quốc . Từ các báo cáo chiến lược do chính phủ và các cố vấn của Mỹ công bố, Trung Quốc luôn bị Mỹ coi là đối tượng cần phải kiềm chế. Về hiện thực cho thấy một mặt, Mỹ làm yếu đi ảnh hưởng của Trung Quốc bằng việc can dự vào các tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước láng giềng; mặt khác, Mỹ hạn chế tầm ảnh hưởng của Trung Quốc bằng cách tăng cường sự hiện diện quân sự của mình tại các nước xung quanh Trung Quốc. Không chỉ vậy, Mỹ còn tích cực xây dựng các khung quy chế về sự phát triển của Trung Quốc tại các nước xung quanh này. Có thể nói, những biện pháp trên là nhằm hạn chế vai trò của Trung Quốc trong tiến trình xây dựng tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương. 
Thứ hai, Trung Quốc có đủ khả năng, thực lực để gây ảnh hưởng đến việc xây dựng cục diện châu Á-Thái Bình Dương: Thứ nhất, hiện nay Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, đặc biệt là kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra đến nay, việc phát triển kinh tế toàn cầu liên tiếp gặp phải khó khăn, nhưng ngược lại việc phát triển kinh tế Trung Quốc vẫn giữ trạng thái ổn định. Điều này đã khiến cho nền kinh tế Trung Quốc trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển, đây chính là ưu thế về kinh tế của Trung Quốc. Thứ hai, sau khi bước vào thế kỷ mới, thực lực quân sự của Trung Quốc cũng đã được nâng cao, thậm chí còn có thể phát triển đồng bộ với kinh tế. Điều này khiến cho sức ảnh hưởng về quân sự Trung Quốc trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương không ngừng tăng lên. Thứ ba, với tư cách là nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Trung Quốc có trách nhiệm gây ảnh hưởng đối với các công việc khu vực. 
Thứ ba, Trung Quốc thúc đẩy tiến trình xây dựng cục diện châu Á-Thái Bình Dương là có lợi cho việc duy trì hòa bình và ổn định khu vực. Trung Quốc chủ trương xây dựng tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương là có lợi cho việc duy trì sự tồn tại và phát triển của các nước khu vực này trong môi trường hòa bình và ổn định. Đây cũng là đặc điểm nổi bật trong kế hoạch xây dựng tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc cần tích cực thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch này. Từ góc độ này cho thấy Trung Quốc có một vị thế và vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình xây dựng cục diện mới châu Á- Thái Bình Dương.Biến động là cơ hội mà Trung Quốc cần nắm bắt. Từ kinh nghiệm lịch sử cho thấy việc xây dựng bất kỳ cục diện mới nào đều là quá trình phân chia lại lợi ích. Các lần phân chia lợi ích này đều không phải chuyện một sớm một chiều, đòi hỏi phải khắc phục hàng loạt khó khăn, trở ngại mới có thể thực hiện được. Mặt khác, việc xây dựng bất kỳ cục diện mới nào cũng đều cần đến những cơ hội cũng như các điều kiện lịch sử thích hợp mới có thể tiến hành điều chỉnh cục diện, còn biến động ở mức độ nhất định, có thể đem lại một số cơ hội nào đó cho việc điều chỉnh cục diện. Có thể nói rằng hiện nay, khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang trong quá trình biến động. Đặc trưng thứ nhất, hầu hết các vấn đề “điểm nóng” trên toàn cầu đều tập trung xuất hiện ở khu vực này; đặc trưng thứ hai, trọng tâm kinh tế toàn cầu và trọng tâm xưng bá của Mỹ đều tập trung ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, gây nên các biến động trong khu vực; đặc trưng thứ ba, mâu thuẫn giữa các nước lớn trên toàn cầu dường như đều tập trung tại đây; đặc trưng thứ tư, khu vực châu Á-Thái Bình Dương trở thành khu vực tập trung nhiều nhất các nước có hứng thú với các công việc toàn cầu. Vì vậy, Trung Quốc cần nắm bắt những biến động này để thúc đẩy tiến trình xây dựng cục diện mới châu Á-Thái Bình Dương. 
Trước tiên, biến động là cơ hội để Trung Quốc phát triển thực lực quân sự tương xứng với thực lực kinh tế . Từ khi cải cách mở cửa đến nay, thực lực kinh tế của Trung Quốc không ngừng nâng cao, phát triển sức mạnh quân sự chưa thể tương xứng với việc phát triển kinh tế, và đã xuất hiện hiện tượng lạc hậu hơn phát triển kinh tế, thậm chí ở một số lĩnh vực còn xuất hiện xu thế lạc hậu hơn các nước xung quanh. Tuy nhiên, việc phát triển sức mạnh quân sự Trung Quốc lại khiến cho một số nước cảm thấy bất mãn, thậm chí, một số nước nào đó còn rêu rao “Thuyết về mối đe dọa quân sự từ Trung Quốc”. Điều này đã ràng buộc và kiềm chế sự phát triển sức mạnh quân sự Trung Quốc. Một số nước xung quanh Trung Quốc lần lượt tăng cường đầu tư quốc phòng; nắm bắt được tâm lý muốn phát triển “thời kỳ cơ hội chiến lược” của Trung Quốc, một số nước nào đó muốn thôn tính lợi ích quốc gia của Trung Quốc, đe dọa nghiêm trọng đến chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia của Trung Quốc. Điều này đều không thể tha thứ đối với bất kỳ quốc gia nào. Tuy sự biến động của khu vực châu Á-Thái Bình Dương đi ngược lại chủ trương duy trì ổn định và hòa bình của Trung Quốc, nhưng lại đem lại thời cơ cho Trung Quốc mở rộng phát triển về sức mạnh quân sự. Hiện nay, Trung Quốc đang phát triển quân sự trong tình trạng bị động và an ninh quốc gia liên tục bị đe dọa. Từ góc độ này cho thấy hiện nay là thời cơ tốt nhất để Trung Quốc mở rộng phát triển quân sự. Một nền kinh tế phát triển mà không có lực lượng quân sự làm hậu phương vững chắc thì đó chỉ là một nền kinh tế yếu kém, rất nhiều bài học lịch sử đã mách bảo với chúng ta điều này. Trên thực tế, sự thách thức của một số nước xung quanh nào đó đối với Trung Quốc được bắt nguồn từ tâm lý: Một là, sức mạnh quân sự Trung Quốc yếu kém; hai là, Trung Quốc không dám sử dụng vũ lực. Trong hai tâm lý trên, sức mạnh quân sự Trung Quốc yếu kém lại chiếm phần chủ yếu. 
Thứ hai, biến động là cơ hội để Trung Quốc thực hiện việc điều chỉnh tình hình sức mạnh. Lướt qua lịch sử phát triển của các nước lớn có tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới, không khó để nhận ra các quốc gia này đều phát triển trong bối cảnh quốc tế có biến động lớn, đồng thời cũng trong bối cảnh ấy, các quốc gia này đã thực hiện việc điều chỉnh so sánh sức mạnh, tức là tái thiết cục diện sức mạnh thế giới. Cùng với sức mạnh tổng hợp quốc gia của Trung Quốc không ngừng tăng, điều này tất nhiên sẽ làm thay đổi tình hình sức mạnh thế giới. Trung Quốc chủ trương phát triển hòa bình, không mong muốn tái thiết tình hình sức mạnh thế giới thông qua con đường chiến tranh mang tính thế giới. Đương nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ không gặp phải bất kỳ sự biến động nào mang tính cục bộ trong quá trình phát triển hùng mạnh. Hiện nay, Trung Quốc phải đối mặt với những biến động của khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và thực chất của sự biến động này là những biểu hiện bề ngoài của việc sức mạnh khu vực này đang tiến hành xây dựng lại. Trung Quốc cần xác lập vị thế mới của mình trong tình hình sức mạnh châu Á-Thái Bình Dương bằng chính những chủ trương và hành động của mình. Những biến động trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương cần trở thành cơ hội và thời cơ tốt đẹp để Trung Quốc xác định vị thế của mình trong tình hình khu vực này. 
Thứ ba, biến động là cơ hội để Trung Quốc thể hiện tầm ảnh hưởng của mình. Trung Quốc chủ trương phát triển hòa bình, hàm ý của nó được thể hiện ở hai mặt: Một là, phát triển trong bối cảnh không có chiến tranh mang tính chất toàn thế giới; hai là, một nền hòa bình ở thế động chứ không phải ở thế tĩnh, là một nền hòa bình mang tính tương đối chứ không phải mang tính tuyệt đối. Xuất phát từ nhận thức như vậy, các biến động của khu vực châu Á-Thái Bình Dương hiện nay vẫn có lợi cho Trung Quốc. Tục ngữ có câu “Thời thế tạo anh hùng”, hiện tại Trung Quốc cần nắm bắt cơ hội lịch sử mà những biến động này gây ra, lấy thực lực bản thân làm hậu thuẫn để mở rộng quyền phát ngôn cũng như tầm ảnh hưởng của mình, soạn ra “quy tắc trò chơi” mới. 
Cuối cùng, biến động là cơ hội để Trung Quốc giải quyết những mâu thuẫn tồn tại với các nước xung quanh. Hiện nay, giữa Trung Quốc và các nước xung quanh còn tồn tại rất nhiều mâu thuẫn và xung đột, nếu như không bắt tay vào giải quyết, chúng sẽ mãi là “hòn đá tảng cản đường” hạn chế sự phát triển của Trung Quốc. Sở dĩ nói biến động đem lại thời cơ cho Trung Quốc và các nước xung quanh giải quyết các “vấn đề” là bởi lẽ, thứ nhất, biến động tạo ra nhiều cơ hội “tiếp xúc” hơn nữa cho hai bên; thứ hai, biến động đem lại cơ hội cho các nước liên quan so sánh thực lực, vì vậy, đằng sau của việc giải quyết vấn đề quốc tế cần phải dựa vào thực lực; thứ ba, biến động đã thúc đẩy các nước liên quan chú ý đến việc giải quyết các “vấn đề” này. Từ góc độ này cho thấy Trung Quốc cần nắm chắc cơ hội do biến động gây ra, từ đó thúc đẩy việc giải quyết các mâu thuẫn và xung đột với các nước xung quanh. Trên thực tế, quá trình giải quyết mâu thuẫn và xung đột giữa Trung Quốc và các nước xung quanh chính là quá trình xây dựng cục diện khu vực châu Á-Thái Bình Dương./. 
Theo Tạp chí “Thế giới đương đại” – Trung Quốc 
Vũ Hiền (gt)

3. Thách thức và cơ hội của quan hệ Trung-Nga

Trong hợp tác cùng có lợi, tuy Trung Quốc và Nga vẫn còn tồn tại một số vấn đề không theo mong muốn của mỗi bên song xu thế tổng thể để phát triển quan hệ hai nước vẫn mạnh mẽ.
Năm 2011, nhân dịp cùng kỷ niệm 10 năm ký “ Hiệp ước láng giềng thân thiện, hữu nghị và hợp tác Trung-Nga ” (gọi tắt là Hiệp ước), hai nước đã thúc đẩy toàn diện quan hệ song phương lên cấp độ cao hơn, lãnh đạo hai nước liên tục giao lưu với nhau, lòng tin chính trị được tăng cường hơn, hợp tác chiến lược càng chặt chẽ hơn, hợp tác trong các lĩnh vực được tiến hành cùng lúc và liên tục đạt được những tiến triển mới lớn hơn. Trong hợp tác cùng có lợi, tuy Trung Quốc và Nga vẫn còn tồn tại một số vấn đề không theo mong muốn của mỗi bên song xu thế tổng thể để phát triển quan hệ hai nước vẫn mạnh mẽ. 
I- Hợp tác trong các lĩnh vực đi sâu phát triển 
Năm 2011, trong bầu không khí hai nước long trọng kỷ niệm tròn 10 năm ký “ Hiệp ước ”, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược giữa Trung Quốc và Nga được nâng lên hơn nữa, hợp tác đôi bên cùng có lợi, ưu đãi lẫn nhau được phát triển toàn diện, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc xây dựng hiện đại hóa của hai nước và cải thiện hạnh phúc, lợi ích và phúc lợi của người dân. 
1- Lãnh đạo cấp cao tiếp tục duy trì giao lưu qua lại chặt chẽ 
Lãnh đạo hai nước tiếp tục duy trì cơ chế gặp gỡ dày đặc. Ngày 13/4/2011, tại Hải Nam, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã có cuộc gặp với Tổng thống Nga Medvedev nhân dịp tới tham gia Hội nghị cấp cao các nước BRICS (Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi). Ngày 15/6, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã có chuyến thăm chính thức nước Nga, đồng thời có bài phát biểu với chủ đề “Mở ra cục diện mới phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung-Nga”, và sau đó tham dự các hoạt động như Diễn đàn kinh tế quốc tế Saint Peterbourg lần thứ 15. Phía Nga cho rằng việc Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tới thăm Nga đúng dịp tròn 10 năm ký “Hiệp ước” và tham dự một loạt hoạt động kỷ niệm có “ý nghĩa mang tính tiêu chí” đối với việc tăng cường quan hệ hai nước. Sau đó, nguyên thủ hai nước đã hội kiến ở nhiều diễn đàn như Hội nghị thượng đỉnh G20. Bên cạnh đó, Chủ tịch Quốc hội Ngô Bang Quốc đã có chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Nga, Thủ tướng Putin và Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng lần lượt có các chuyến thăm lẫn nhau nhân cuộc gặp định kỳ của thủ tướng hai nước và Hội nghị Thủ tướng Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO). Lãnh đạo hai nước đã nghiêm túc tổng kết thành quả và kinh nghiệm trong phát triển quan hệ hai nước 10 năm qua, xác định phương hướng, mục tiêu phát triển và quy hoạch hợp tác trong các lĩnh vực 10 năm tới. Phía Trung Quốc sẵn sàng cùng với phía Nga tuân theo tôn chỉ và nguyên tắc của “ Hiệp ước ”, đẩy mạnh ủng hộ chính trị lẫn nhau, khơi sâu toàn diện hợp tác chiến lược và hợp tác đôi bên cùng có lợi, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung-Nga tiếp tục phát triển lành mạnh, ổn định. Phía Nga cũng nhấn mạnh muốn tiếp tục tăng cường sự phối hợp trao đổi chiến lược với phía Trung Quốc, thực thi toàn diện các nhận thức chung đã đạt được, phát huy hết mức các cơ chế song phương hiện có và ưu thế của mỗi nước, tăng cường lòng tin chính trị lẫn nhau và hợp tác thiết thực trong các lĩnh vực, thực hiện cùng có lợi, cùng thắng lợi và cùng nhau phát triển, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung-Nga tiến lên nấc thang mới. Dù tình hình thay đổi như thế nào đi chăng nữa, phương châm phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung-Nga của Nga đều không dao động. 
2- Hợp tác chiến lược càng chặt chẽ hơn 
Tháng 1/2012, tại Mátxcơva, Trung Quốc và Nga lần lượt bàn bạc, trao đổi về việc ổn định chiến lược cấp thứ trưởng ngoại giao và bàn bạc trao đổi an ninh vòng 5 cấp độ “an ninh quốc gia”. Hai bên đã trao đổi ý kiến sâu sắc, chân thành về các vấn đề như an ninh chiến lược, kiểm soát chạy đua vũ trang quốc tế, ngăn ngừa phổ biến vũ khí hạt nhân cũng như tình hình quốc tế và quan hệ Trung-Nga hiện nay. Hai nước đã hợp tác chặt chẽ trong khuôn khổ các cơ chế đa phương toàn cầu như Liên hợp quốc và G-20, ủng hộ nhau trong các vấn đề liên quan tới lợi ích cốt lõi như chủ quyền, an ninh và sự phát triển của bên kia, cùng coi nhau là đối tác hợp tác chiến lược quan trọng nhất. Phía Nga tiếp tục ủng hộ lập trường nghiêm túc của Trung Quốc trong bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phía Trung Quốc luôn ủng hộ những nỗ lực tranh thủ gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2011 của Nga, ủng hộ lập trường của Nga đối với kế hoạch phòng thủ tên lửa của Mỹ, hoan nghênh Nga lần đầu tiên tham dự Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF) với tư cách thành viên đầy đủ, đồng thời phát huy vai trò tích cực ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong “Tuyên bố chung về tình hình quốc tế và các vấn đề quốc tế lớn hiện nay”, nguyên thủ hai nước nhất trí phản đối thế lực bên ngoài can thiệp vào hoạt động biểu tình của các nước Arập, kêu gọi giải quyết cuộc khủng hoảng Libi và vấn đề hạt nhân Iran bằng con đường chính trị, đốc thúc các bên có liên quan tuân thủ nghiêm tắc các nghị quyết 1970 và 1973 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Hai nước thuộc số ít nước tích cực phối hợp trong việc thúc đẩy Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc tiến hành trừng phạt Xyri, cùng bỏ phiếu phủ quyết nghị quyết trừng phạt đối với Xyri. Hai nước còn trao đổi, phối hợp chặt chẽ trong SCO và cơ chế hợp tác của các nước BRICS. Nhân kỷ niệm 6 năm Đàm phán 6 bên ra Tuyên bố chung " 19/9/2005 ", Trung Quốc đã dốc sức thúc đẩy khởi động đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên, phó Thủ tướng Lý Khắc Cường cũng đích thân tới Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc để dàn hòa giữa hai nước này. Nga còn thông qua biện pháp kinh tế và chính trị, “tìm kiếm bước đột phá nhanh chóng khởi động lại cơ chế đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên”, thúc đẩy Bắc Triều Tiên sớm quay trở lại cơ chế đàm phán này. Hai nước cùng nỗ lực đảm bảo cơ chế hợp tác của các nước BRICS phát triển ổn định. 
3- Cùng coi nhau là bạn hàng quan trọng nhất 
Đường ống dẫn dầu thô giữa hai nước đã chính thức được vận hành, hai bên lần lượt triển khai hợp tác từ khai thác, vận chuyển, gia công đến tiêu thụ sản phẩm dầu mỏ. Công ty dầu khí Trung Quốc (CNPC) và Công ty dầu mỏ Rosneft (Nga) tích cực bàn bạc dự án hợp tác khai thác lô “Magadan số 1” ở Nga. Hai nước đã ký thành công “Nghị định thư ‘Bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực dầu khí ngày 24/6/2009’”, gấp rút thực thi dự án hợp tác truyền tải điện 500 kv và nhanh chóng thực thi các dự án hợp tác được xác định trong Nghị định thư Bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực than đá ký tháng 9/2010. Trong 5 năm tới, mỗi năm Nga sẽ xuất khẩu sang Trung Quốc từ 15-20 triệu tấn than, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác ở công trình giai đoạn 2 nhà máy điện hạt nhân Điền Loan của Trung Quốc. Tập đoàn Winsway Coking Coal Hodings Trung Quốc đã mua 60% cổ phần của công ty TNHH Divalane của Cộng hòa Séc dưới danh nghĩa công ty khí đốt Itera của Nga với số tiền 90 triệu USD, làm cho Trung Quốc thu được những tiến triển to lớn trong việc mua các mỏ than của Nga. Hai nước còn tích cực thúc đẩy dự án hợp tác xây dựng tuyến đường xuyên biên giới Nga-Cadắcxtan-Trung Quốc, cố gắng thông toàn tuyến vào năm 2018. Trung Quốc vẫn là bạn hàng lớn nhất của Nga. Theo số liệu thống kê của hải quan Nga, kim ngạch thương mại Trung-Nga năm 2011 lên tới 83,5 tỷ USD, tăng 40,48% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 10,42% trong 801,6 tỷ USD kim ngạch ngoại thương cả năm của Nga. Trong đó, Nga xuất khẩu sang Trung Quốc 35,24 tỷ USD, nhập khẩu từ Trung Quốc 48,26 tỷ USD, lần lượt tăng 73,3% và 23,9% so với cùng kỳ năm trước. Nhập siêu thương mại của Nga đối với Trung Quốc là 130,2%, giảm 30% so với cùng kỳ năm trước. Trong thời gian diễn ra Diễn đàn cấp cao giới công thương kinh tế Trung-Nga lần thứ 6, hai bên đã ký hơn 20 dự án hợp tác tới tổng trị giá lên tới 7 tỷ USD liên quan tới điện lực, thiết bị khai quặng, tiết kiệm năng lượng, năng lượng có thể tái sinh và sử dụng năng lượng sinh học. Sau khi chi trả 100 triệu USD để mua khoảng 0,3% cổ phần của Ngân hàng ngoại thương Nga, Công ty đầu tư Trung Quốc lại bỏ ra 4 tỷ USD để mua 5% cổ phần của Ngân hàng dự trữ Liên bang Nga, đồng thời cùng Quỹ đầu tư trực tiếp Nga ký Hiệp định quỹ đầu tư Trung-Nga với tổng số tiền là 4 tỷ USD. Công ty xếp hạng tín dụng Dagong của Trung Quốc và Công ty xếp hạng tín dụng Nga còn bàn bạc ký hiệp định hợp tác, dự định thu mua hoặc triển khai hợp tác toàn diện xoay quanh vấn đề này. Dựa vào tình hình “Trung Quốc và Nga đều không có khả năng sản xuất máy bay dân dụng có sức cạnh tranh phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế đồng thời đưa vào thị trường”, hai bên đã đạt được nhận thức chung quan trọng về việc liên kết nghiên cứu chế tạo máy bay dân dụng tầm xa trong thời gian diễn ra Hội nghị lần thứ 16 Ủy ban gặp gỡ định kỳ thủ tướng Trung-Nga. Lãnh đạo hai nước còn đề ra mục tiêu lớn là thương mại hai chiều đạt 100 tỷ USD và 200 tỷ USD trong 5 năm và 10 năm tới. 
4- Hợp tác nhân văn không ngừng đi vào chiều sâu 
Nhân dịp kỷ niệm tròn 10 năm ký “ Hiệp ước láng giềng thân thiện, hữu nghị và hợp tác Trung-Nga ”, hai nước đã lần lượt tổ chức một loạt hoạt động kỷ niệm với quy mô lớn. Hội nghị lần thứ 12 của Ủy ban hợp tác nhân văn Trung-Nga đã tổng kết toàn diện những thành quả và kinh nghiệm hợp tác trong lĩnh vực này, đồng thời có sự sắp xếp cho công tác giai đoạn tiếp theo. Hai bên lần lượt tổ chức các cuộc hội thảo chuyên gia của chính đảng cầm quyền hai nước liên quan tới “chế độ dân chủ của xã hội đa dân tộc”, nghiên cứu thảo luận thẳng thắn và sâu sắc về đặc trưng dân chủ của hai nước và dân chủ kiểu phương Tây. Tháng 8/2011, công ty đường sắt Nga chính thức khai thông chuyến tàu dành riêng cho du lịch kiểu mới Mátxcơva-Bắc Kinh, trong hành trình sắp xếp một điểm du lịch nổi tiếng và thành phố nổi tiếng trong lịch sử của Nga, Mông Cổ và Trung Quốc, thu hút ngày càng đông du khách của hai nước. Tháng 10/2011, ca sỹ nổi tiếng của Nga được nhân dân Trung Quốc yêu thích đã có buổi biểu diễn tại Đại lễ đường nhân dân Trung Quốc, hát tặng khán giả Trung Quốc bài hát “Mẹ và Con”, khiến khán giả Trung Quốc đồng cảm mạnh mẽ. Nga và Trung Quốc cùng coi nhau là nguồn khách du lịch nước ngoài lớn, phong trào đi du lịch giữa hai nước tiếp tục tăng lên, năm 2011 số người đi du lịch giữa hai nước lên tới 3.350.000 lượt người, trong đó số người Nga tới Trung Quốc du lịch là 2.536.300 lượt người. Trong bối cảnh này, lãnh đạo hai nước đã thỏa thuận cùng coi năm 2012 và năm 2013 là “năm du lịch”, đặt sân chơi mới để nhân dân hai nước “hiểu biết lẫn nhau, gần gũi lẫn nhau và thân thiết với nhau”, tiếp thêm sức sống mới cho sự phát triển lâu dài của mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung-Nga. 
II- Những vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước 
Mặc dù quan hệ Trung-Nga tiếp tục duy trì xu thế phát triển tích cực song việc đi sâu hợp tác vẫn bị ảnh hưởng bởi một số nhân tố chủ quan và khách quan, làm cho chiều sâu và chiều rộng trong hợp tác kinh tế thương mại, khoa học giữa hai nước có sự chênh lệch tương đối lớn so với mối quan hệ chính trị tốt đẹp hiện nay, không thể làm cho tiềm lực hợp tác song phương được phát huy hết mức. 
1- Quân đội Nga vẫn lo ngại trước sức mạnh quân sự tăng lên của Trung Quốc 
Quân đội Nga cho rằng ngoài vũ khí hạt nhân, sức mạnh quân sự của Trung Quốc đang xích gần hoặc vượt qua Nga, từ đó đuổi kịp và vượt Mỹ nên vẫn phải tiếp tục điều chỉnh sự bố trí quân sự ở khu vực Viễn Đông sát Trung Quốc. Quân đội Nga còn trang bị hệ thống tên lửa phòng không S-400 Triumf mới nghiên cứu chế tạo cho lực lượng Viễn Đông, thành lập tập đoàn quân hỗn hợp nhiều binh chủng thứ 29 ở khu vực Chita cách biên giới Trung Quốc không xa, còn trang bị cho Hạm đội Thái Bình Dương tàu ngầm hạt nhân chiến lược đầu tiên Yuri Dolgoruky được tự thiết kế và chế tạo sau khi Liên Xô tan rã và tàu đổ bộ tấn công mang trực thăng lớp Mistral dự định mua của Pháp. Theo quân đội Nga, “điều này vừa có thể thể hiện quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ với Nhật Bản, vừa có thể kiềm chế sức mạnh quân sự đang không ngừng tăng lên của Trung Quốc”. Các học giả Nhật Bản phát hiện, “quân đội Nga có những lo ngại nghiêm trọng đối với Trung Quốc, song trong bối cảnh quan hệ quan hệ Nga-Trung ngày càng gắn bó, không cho phép bộc lộ thái độ này về mặt chính trị, nên đành phải tìm lý do khác để thực hiện đối sách”. Quân đội Nga còn hết sức lo ngại trước việc thực lực kinh tế ngày càng hùng mạnh của Trung Quốc biến thành sức mạnh quân sự. Họ cho rằng cùng với việc quan hệ giữa hai bờ eo biển ngày một ấm lên, quân đội Trung Quốc bắt đầu chuyển sự chú ý sang phương Bắc, một loạt các cuộc diễn tập của nhiều binh chủng quy mô lớn, mang tính tiến công theo chiều sâu cũng đang mô phỏng thực thi tấn công Viễn Đông và khu vực Xibêri. Để không bị quá lạc hậu so với Mỹ và Trung Quốc, quân đội Nga tiếp tục đẩy mạnh kế hoạch lớn chi hơn 610 tỷ USD để đổi mới trang bị vũ khí trong 10 năm tới. Tới cuối năm 2011, lực lượng vũ trang Nga đã có hơn 250 đơn vị kể cả 30 đại đội không quân được đổi mới trang bị hiện đại hóa. Tổng thống Putin cho biết tới năm 2020, tỉ lệ trang bị vũ khí kiểu mới của các lực lượng vũ trang Nga sẽ không dưới 70%. 
2- Tâm lý mâu thuẫn của Nga đối với việc dựa vào Trung Quốc để phát triển ở chừng mực nhất định đã cản trở tiềm lực hợp tác của các địa phương với nhau 
Một số lãnh đạo địa phương ở các khu vực tiếp giáp với biên giới Trung Quốc vừa mong muốn lợi dụng nguồn vốn dồi dào của Trung Quốc để phát triển kinh tế địa phương, vừa lo ngại nguồn vốn và các nhân viên Trung Quốc tiến vào lĩnh vực kinh tế và xã hội của mình quá nhiều sẽ làm cho Nga “bị Trung Quốc quản chế”. Họ hết sức lo ngại đối với khoản tiền 3 tỷ USD Trung Quốc tiếp tục viện trợ cho Nga “gấp hơn 4 lần chi tiêu ngân sách Ngân hàng trung ương Nga chuyển cho để giúp đỡ tỉnh tự trị Do Thái, khu vực biên cương giáp biển và khu vực biên cương Khabarovski”, cũng đã hiểu sai đối với việc thành lập cơ quan hành chính đặc biệt ở tỉnh Hắc Long Giang để quản lý 34 khu hợp tác kinh tế Trung-Nga ở Viễn Đông, cho rằng “nhà cầm quyền Trung Quốc đang thành lập ‘êkíp lãnh đạo chuyên ngành’ kiểm soát tiến trình phát triển khu vực Viễn Đông của Nga”. Chính do tâm lý này, tuy nguyên thủ hai nước đã phê chuẩn “Đề cương quy hoạch hợp tác khu vực Đông Bắc Trung Quốc với khu vực Viễn Đông và Đông Xibêri (2009-2018)”, “phía Trung Quốc bắt đầu đầu tư vào các các dự án liên kết song các địa phương của Nga lại không hề coi trọng, tìm trăm phương ngàn cách gây cản trở việc thực thi”, dẫn tới “đề cương” giống như “một tờ giấy trắng”, chưa có dự án nào trong 4 dự án liên kết nằm ở thành phố Mikhaylovka, Ussriysk, Paztizansk và Nakhodka được thực hiện. Dự án đổi mới liên kết do Trung Quốc và Trung tâm tự động hóa thuộc Phân viện Viễn Đông Viện khoa học xã hội Nga thực hiện cũng bị đóng băng do Chính phủ Nga không cho phép nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực khoa học. 
3- Cục diện buôn bán vũ khí và cạnh tranh kinh tế-thương mại của doanh nghiệp hai nước ở nước thứ ba chưa thay đổi 
Phía Nga cho rằng máy bay dùng để đào tạo phi công mà Trung Quốc sản xuất đã chiếm lợi thế so với Nga ở Vênêxuêla, các thị trường buôn bán vũ khí tiềm tàng như Iran và Xyri cũng dần bị Trung Quốc kiểm soát, “máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 do Trung Quốc nghiên cứu phát triển có lẽ là đối thủ cạnh tranh nguy hiểm hơn so với F-35 của Mỹ”, ảnh hưởng trực tiếp tới lượng xuất khẩu máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5 T-50 của Nga. Một số tinh hoa Nga thậm chí oán trách Trung Quốc đã bắt đầu “đánh thành chiếm đất” đối với Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) vốn luôn được Nga coi là khu lợi ích đặc quyền, không để phương Tây xà xẻo, cho rằng khoản vay và trợ giúp “mang tính tiến công” của Trung Quốc cho Bêlarút “đã làm rối loạn toàn bộ bàn cờ giữa Mátxcơva và Minxcơ”, khiến Nga không thực hiện được dự định yêu cầu Bêlarút đẩy nhanh tiến trình cải cách kinh tế và tư hữu hóa tài sản nhà nước. Tổng thống Lukashenko thậm chí còn bán cho Trung Quốc cổ phần công ty Kali Bêlarút, một trong những công ty sản xuất Kali lớn nhất thế giới nhưng lại từ chối yêu cầu của Nga, đồng thời khéo léo khuyên Nga tốt nhất thử tự “khai thác quặng Kali”. Phía Nga còn cho rằng việc Ucraina tăng cường trao đổi, đồng thời trở thành đối tác chiến lược của Trung Quốc cũng ảnh hưởng tới một phần lợi ích của Nga, vì “Ucraina hoàn toàn có thể cung cấp những kỹ thuật quân sự tiến tiến cho Trung Quốc mà mấy năm gần đây Mátxcơva không muốn bán”. Trong khi Udơbêkixtan quyết định lắp một tuyến đường ống dẫn khí khác sang Trung Quốc, mỗi năm sẽ cung cấp cho Trung Quốc 25 tỷ m3 khí đốt, chiếm 1/3 sản lượng khí đốt của nước này, điều này cũng tác động tới vị thế độc quyền truyền thống của Nga về xuất khẩu khí đốt ở Trung Á. 
4- Giá dầu khí giữa doanh nghiệp năng lượng hai nước bất đồng nghiêm trọng 
Ngày 1/1/2012 sau khi đường ống dẫn dầu Trung-Nga chính thức đưa vào vận hành, sự bất đồng về giá dầu thô của doanh nghiệp năng lượng hai nước càng nổi rõ hơn nữa. Phía Nga không phủ nhận việc phía Trung Quốc đã đặt vấn đề về phí vận chuyển trước khi hai bên ký hợp đồng cung cấp dầu thô. Phía Trung Quốc cho rằng mỗi tấn dầu thô của nhánh Nga-Trung nên rẻ hơn 7% so với phí vận chuyển đến điểm cuối đường ống dẫn dầu thông sang Đông Xibêri-Thái Bình Dương, tức là rẻ 30 USD. Tuy nhiên phía Nga kiên quyết cho rằng phí vận chuyển dầu thô mà Trung Quốc phải trả nên tính bằng “tuyến Đông Xibêri-Thái Bình Dương”, đồng thời cho biết nếu tính theo phía Trung Quốc, tới năm 2030 Nga sẽ tổn thất 28,2 tỷ USD. Do mỗi bên một ý kiến, khó phân giải, phía Nga từng muốn đưa vấn đề này lên tòa án Luân Đôn, thậm chí cân nhắc “bồi thường cho Trung Quốc khoản tiền mua hàng 20 năm” để chấm dứt hợp đồng cung cấp dầu. Bên cạnh đó, hợp đồng Nga cung cấp khí đốt cho Trung Quốc được hai bên bàn bạc đã lâu cũng bị dừng lại do vấn đề giá cả, không thể ký theo “tiến độ” hai nước vạch ra trước đó. Phía Nga không muốn cung cấp khí đốt cho Trung Quốc thấp hơn châu Âu, phía Trung Quốc cũng không thể chấp nhận giá khí đốt cao như châu Âu vì hiện nhập khẩu khí đốt từ Trung Á cũng đã khiến Trung Quốc bị lỗ. Nguyên nhân khiến lập trường của hai bên không dịu đi còn do giá khí đốt ở Nga từng bước tăng lên, khiến nước này thu lợi tương đối nhiều, hơn nữa cục diện biến động của Trung Đông và Bắc Phi cũng tạo cơ hội cho Nga mở rộng việc xuất khẩu khí đốt, lượng khí đốt Nga chuyển cho Italia đã vượt trên 50%, thêm vào đó do động đất dẫn tới Nhật Bản rò rỉ hạt nhân, làm cho nhu cầu đối với khí đốt Nga tăng lên, khiến Nga không cần vội vàng ký hợp đồng với Trung Quốc. Về phía Trung Quốc, do hợp tác khí đốt với các nước Trung Á, Mianma và Ôxtrâylia đã có tiến triển, tính cấp bách đối với khí đốt của Nga có phần giảm đi. Cuộc hội đàm giữa Bộ Năng lượng và đại diện doanh nghiệp năng lượng hai nước từ ngày 12-15/10/2011 chưa đạt được nhất trí về giá khí đốt, hợp đồng xuất khẩu khí đốt cho Trung Quốc qua nhánh phía Tây cũng không thể ký được hồi cuối năm 2011. 
III- Triển vọng quan hệ Trung-Nga 
Mặc dù xuất hiện một số bất đồng và mâu thuẫn trong hợp tác kinh tế thương mại nhưng quan hệ Trung-Nga đã sớm phát triển thành mối quan hệ kiểu mới chín muồi. Hợp tác theo chiều sâu giữa hai bên trong các lĩnh vực sẽ không vì vậy bị ảnh hưởng thực sự, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược của hai nước vẫn sẽ tiếp tục duy trì phát triển ổn định. 
Thứ nhất, sự coi trọng hết mức của lãnh đạo hai nước đối với quan hệ song phương là sự đảm bảo mạnh mẽ cho mối quan hệ này tiếp tục phát triển ổn định. Nhân 10 năm ký “ Hiệp ước láng giềng thân thiện, hữu nghị và hợp tác Trung-Nga ”, lãnh đạo hai nước đã tận dụng nhiều cuộc gặp, tổng kết nghiêm túc thành quả thu được từ hợp tác trong các lĩnh vực 10 năm qua, đồng thời có những quy hoạch chu đáo tỉ mỉ cho việc phát triển quan hệ hai nước trong 10 năm tới, đề xuất hai nước cùng nỗ lực, hợp tác chặt chẽ, khơi gợi tiềm lực, tăng thêm đầu tư lẫn nhau, tăng cường và khơi sâu các dự án lớn và hợp tác năng lượng, thúc đẩy sự trao đổi giữa các địa phương, không ngừng nâng cao chất lượng và trình độ hợp tác kinh tế thương mại, đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung-Nga lên yêu cầu mới với trình độ cao hơn, đảm bảo mạnh mẽ cho xu thế phát triển tích cực trong quan hệ hai nước. Putin khi còn là thủ tướng cho biết “chúng tôi nhận thấy giới lãnh đạo và người dân Trung Quốc có ý muốn thiết lập mối quan hệ láng giềng thân thiện, hữu nghị và hợp tác với chúng tôi”, Trung Quốc là “đối tác hợp tác và chiến lược kiệt xuất”, “đáng tin cậy” hết sức quan trọng của Nga, là “thị trường tiêu thụ hàng hóa và nhà đầu tư kinh tế của Nga”. Và việc Putin đảm nhiệm lại vai trò tổng thống năm 2012 càng đảm bảo cho sự tiếp tục phát triển ổn định lâu dài của mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung-Nga. Trong bài “Nước Nga và thế giới đang thay đổi” nằm trong một loạt bài thuộc cương lĩnh tranh cử tổng thống, Putin đã có sự xác định chiến lược mới, cố gắng đưa ra “thuyết về cơ hội Trung Quốc”. Putin nêu rõ “mọi vấn đề chính trị trọng đại của Trung Quốc và Nga đều đã được giải quyết, kể cả vấn đề biên giới chủ yếu. Hai nước đã thiết lập mối quan hệ song phương vững chắc, có nền tảng pháp luật để kiên trì thực hiện các hiệp ước. Sự tin cậy lẫn nhau của lãnh đạo hai nước đã đạt tới trình độ cao chưa từng có, có thể đảm bảo cho Trung Quốc và Nga triển khai hợp tác trên cơ sở thiết thực và cùng quan tâm lợi ích của đối phương theo tinh thần đối tác thật sự. Mô hình quan hệ Nga-Trung mà chúng ta đã thiết lập có triển vọng rộng lớn”. 
Thứ hai, khơi sâu quan hệ hai nước vẫn là nhu cầu chung để cùng đối phó với môi trường quốc tế phức tạp nhiều thay đổi. Việc Trung Quốc và Nga cùng coi nhau là nước láng giềng lớn nhất là hiện thực địa-chính trị quan trọng tồn tại khách quan, cùng coi nhau như chỗ dựa chiến lược là yêu cầu lớn nhất của cả hai. Hiện nay tuy Mỹ coi trọng việc phát triển quan hệ với Nga và Trung Quốc song sự chèn ép chiến lược đối với hai nước không hề giảm đi. Thế lực bảo thủ Mỹ tiếp tục cổ động Chính quyền Obama bán vũ khí cho Đài Loan, đồng thời dựa vào các biện pháp như mở rộng thành viên Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), tăng cường sự hợp tác Mỹ-Nhật, Mỹ-Hàn và Mỹ-Philíppin để thành lập “liên minh chống Trung Quốc ở châu Á”, kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực này. Obama cao giọng “khởi động lại” quan hệ với Nga nhưng lại từ chối kiến nghị xây dựng khuôn khổ an ninh châu Âu thống nhất và thiết lập hệ thống phòng thủ chung do Nga đề xuất, không quan tâm tới sự phản đối của Nga và Hiệp định giữa các chính phủ về bố trí hệ thống phòng thủ tên lửa trong lãnh thổ Rumani sau 4 năm ký với nước này, đạt được hiệp định bố trí hệ thống rađa trong lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ với Thổ Nhĩ Kỳ, tìm cách mượn việc giám sát Iran “làm cho tiềm lực hạt nhân của Nga trở nên mất giá trị”. Mạng WikiLeaks tiết lộ tài liệu gần 100.000 trang từ năm 2004-2010 của Mỹ cũng cho thấy nước này chưa từng giảm bớt ý đồ thù địch đối với Nga. Tuy Mỹ không thay đổi lịch trình rút quân khỏi Ápganixtan song vẫn lấy lý do vận chuyển vật tư cho Ápganixtan, tìm kiếm chỗ đứng quân sự mới ở Udơbêkixtan và Tátgikixtan, không ngừng thâm nhập và làm tan rã các tổ chức do Nga giữ chủ đạo như Cộng đồng các quốc gia độc lập, Cộng đồng kinh tế Á-Âu và Liên minh thuế quan. Trong tương lai gần, các thế lực bảo thủ phương Tây như Mỹ vẫn sẽ tiếp tục ra sức thực hiện chính sách phương Tây hóa, phân hóa và kiềm chế Nga và Trung Quốc, điều này làm cho nhu cầu chiến lược cùng dựa vào nhau, cùng ngăn chặn sức ép chiến lược từ bên ngoài của Trung Quốc và Nga ngày càng mạnh. Hợp tác chiến lược Trung-Nga vẫn là một trong những trụ cột quan trọng để mỗi nước tự hoạch định quan hệ đối ngoại cũng như đối phó với những thách thức và môi trường quốc tế phức tạp nhiều thay đổi. 
Thứ ba, các nhà lãnh đạo và tinh hoa chính trị Nga nhìn nhận khách quan sự trỗi dậy của Trung Quốc. Trong thời gian tranh cử tổng thống, Thủ tướng Putin đã đánh giá cao quan hệ Trung-Nga, bên cạnh đó, ông cũng không né tránh “một số va chạm nhỏ còn tồn tại giữa hai nước. Lợi ích kinh tế của hai nước chúng ta ở nước thứ ba cũng không phải luôn hoàn toàn phù hợp nhau, kết cấu thương mại và mức độ đầu tư lẫn nhau hiện có của hai nước vẫn tương đối thấp, không thể làm mọi người hài lòng”. Tuy nhiên, Putin lại nhiều lần nhấn mạnh, “tôi tin tưởng rằng sự tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc chắc chắn không phải là mối đe dọa, mà là những thách thức bao hàm những tiềm lực hợp tác thiết thực to lớn, là cơ hội tốt để cánh buồm của kinh tế Nga đuổi kịp ‘cơn gió Trung Quốc’. Chúng ta nên tích cực phát triển hơn nữa quan hệ kinh tế thương mại Trung-Nga, thực hiện sự chuyển giao công nghệ và ngành nghề giữa hai nước, nên sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên của phía Trung Quốc, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Xibêri và Viễn Đông”. Ông còn nói “từ một loạt biểu hiện trên vũ đài quốc tế cho thấy Trung Quốc không mưu cầu bá quyền”, mặc dù “tiếng nói của Trung Quốc trên thế giới ngày càng tự tin”, song “chúng tôi hoan nghênh điều này vì Trung Quốc ủng hộ quan điểm của chúng tôi đối với việc xây dựng trật tự quốc tế bình đẳng hơn. Chúng ta sẽ tiếp tục ủng hộ lẫn nhau trong các công việc quốc tế, cùng giải quyết các vấn đề điểm nóng khu vực và quốc tế, tăng cường hợp tác ở Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, các nước BRICS, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, Nhóm G-20 và các cơ chế đa phương khác”. Cần nhận thấy rằng tầng lớp tinh hoa chủ lưu của Nga cũng đang không ngừng thay đổi thành kiến đối với Trung Quốc, họ đều cho rằng dù là quy mô sản xuất công nghiệp hay là khoa học kỹ thuật của Trung Quốc đều có sự nâng cấp rõ rệt, nói rằng “Trung Quốc sẽ nhanh chóng vượt qua Nga đồng thời sánh vai với phương Tây trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Hành động này sẽ phá vỡ quy luật kỹ thuật cao và mới chỉ có thể phát triển ở những nước có điều kiện dân chủ như Mỹ”. Các tinh hoa này còn nói “những kinh nghiệm này của Trung Quốc đặc biệt có ý nghĩa hiện thực đối với nước Nga đang cố gắng thoát khỏi sự cản trở của bên ngoài, tiến lên con đường tự chủ phát triển”. Tổng thống Medvedev cũng từng bày tỏ Nga từ bỏ việc theo đuổi vị thế siêu cường là sự lựa chọn thiết thực có lý trí, và nó được dựa trên những nhận thức tỉnh táo đối với tình hình đất nước, tức là: sức mạnh quân sự sụt giảm, kinh tế suy yếu, khoa học đình trệ, nền tảng công nghiệp bị phá hoại và khủng hoảng dân số. Ông nhấn mạnh, “trừ phi Trung Quốc đầu tư vào các dự án lớn ở khu vực Viễn Đông nếu không Mátxcơva chẳng thể hoàn thành các kế hoạch phát triển quy mô lớn trong thời gian qua. Do đó, phải phối hợp chiến lược phát triển Viễn Đông với chiến lược chấn hưng các cơ sở công nghiệp cũ của Trung Quốc như tỉnh Hắc Long Giang ở khu vực Đông Bắc”. Sau chuyến thăm Trung Quốc, Putin cũng công khai cho biết Nga không có ý định tranh giành quyền chủ đạo với Trung Quốc. Các chuyên gia Nga thừa nhận “do châu Á không có những động cơ tăng trưởng và phát triển có thể sánh với Trung Quốc, nếu muốn Viễn Đông có những thay đổi về chất thì cần có sự tham gia của Trung Quốc”, hơn nữa, dù mối quan hệ giữa Mátxcơva với Mỹ và châu Âu như thế nào đi chăng nữa, Trung Quốc trên thực tế đã là nước láng giềng chủ yếu của Nga, hiện nay và trong tương lai rất nhiều thứ đều sẽ được quyết định bởi nước láng giềng này. “Xét theo ý nghĩa này, tách rời đất nước có mức tiêu dùng liên tục tăng lên, hơn nữa lại có khối lượng lớn tiền nhàn rỗi như Trung Quốc là việc không nên làm”. Vì vậy, “không nên nhào nặn Trung Quốc thành kẻ xâm lược vì Trung Quốc đang đi trên con đường mà Mỹ và các nước khác đã đi, đây là tiến trình địa chính trị thông thường”. 
Thứ tư, Mỹ và châu Âu rơi vào khủng hoảng nợ buộc Nga chuyển thu hút vốn nước ngoài và kỹ thuật hiện đại hóa từ phương Tây sang Trung Quốc. Trong tình hình mong muốn thành lập “liên minh hiện đại hóa” với Mỹ và châu Âu gặp khó khăn, Nga bắt đầu dần tìm kiếm nguồn vốn và kỹ thuật cần cho hiện đại hóa đất nước ở Trung Quốc. Trong chuyến thăm Trung Quốc, Putin và lãnh đạo Trung Quốc đã ký Bản ghi nhớ hợp tác hiện đại hóa kinh tế, nội dung bao gồm sự hợp tác đổi mới trong lĩnh vực công nghiệp, đầu tư, công nghệ Nano, nghiên cứu vũ trụ, công nghệ sinh học, thông tin và một số lĩnh vực khác. Phía Nga ý thức được trong bối cảnh lớn mọi quốc gia trên toàn cầu đều hướng tới Trung Quốc, tăng cường quan hệ đối tác hợp tác chiến lược với Bắc Kinh, đi sâu hợp tác trong các lĩnh vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Nga. Báo “Thương gia” Nga cho biết do công cuộc xây dựng hiện đại hóa cần đầu tư số tiền lớn, Nga chưa có khả năng sản xuất toàn bộ thiết bị khoa học kỹ thuật cao cần cho hiện đại hóa, ký bản hợp tác này với Trung Quốc chính là nhằm tìm kiếm sự giúp đỡ của nước này. 
Thứ năm, ưu thế bổ sung lẫn nhau của hai nước tiếp tục thúc đẩy hai bên đi sâu hợp tác cùng có lợi. Ưu thế đối tác thương mại tự nhiên của hai nước láng giềng Trung-Nga vẫn tồn tại. Qua hơn 30 năm cải cách mở cửa, thực lực kinh tế của Trung Quốc được tăng cường mạnh mẽ, nguồn dự trữ ngoại hối dồi dào, vừa có năng lực mở rộng đầu tư ra bên ngoài, vừa có nhu cầu đảm bảo khoản dự trữ ngoại hối duy trì giá trị, tăng giá trị. Thị trường tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới ổn định của Trung Quốc nên là mục tiêu lựa chọn hàng đầu để Nga phát triển chiến lược đa dạng hóa xuất khẩu năng lượng. Nga là nước duy nhất có vai trò nước cung ứng năng lượng tiềm tàng của Trung Quốc. “Chuỗi cung cầu thông suốt” tự nhiên hình thành từ việc sản xuất-tiêu thụ dầu khí của hai nước đã giúp loại bỏ mối ẩn họa an ninh cung cầu có khả năng xuất hiện khi đi qua các nước khác, đảm bảo an ninh năng lượng của hai nước ở mức tối đa. Dựa trên toan tính lợi nhuận của mình, mặc dù công ty năng lượng của hai nước tương đối cứng rắn về mặt giá cả, song khu vực miền Tây và miền Đông Trung Quốc có nhu cầu lớn về dầu khí, trong khi dầu mỏ của Nga mới chỉ chiếm 6% trong toàn bộ dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc, nên triển vọng hợp tác dầu khí giữa hai bên là vô hạn. Trong khi hai nước tích cực giải quyết vấn đề kết cấu thương mại, phía Nga cũng có những nhận thức khách quan đối với điều này. Phó Thủ tướng Nga nói thẳng, “nhiều thiết bị công nghiệp của Trung Quốc có ưu thế giá cả thấp hơn, chất lượng tương đối so với hàng hóa cùng loại của phương Tây. Thị trường Nga có nhu cầu khách quan đối với nó”. Ông cho rằng phía Nga “thiếu các mặt hàng sản xuất trong nước có sức cạnh tranh, vừa có thể chiếm vị trí ổn định trên thị trường trong nước, vừa có tiềm lực xuất khẩu tốt”, và trong kết cấu thương mại Trung-Nga thì “chủ yếu là vấn đề của bản thân chúng tôi. Chính phủ Nga đang tích cực cố gắng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghiệp Nga. Cùng Trung Quốc phát triển sản xuất và hợp tác đổi mới có lợi cho việc giải quyết vấn đề này”. Các chuyên gia Nga cũng cho rằng Nga chẳng có cách nào chuyển hóa công nghệ thành sản phẩm, “mua thiết bị của Trung Quốc thì cũng chẳng có gì đáng hổ thẹn vì ngay các công ty của Mỹ và châu Âu cũng làm như vậy từ lâu rồi”. Bộ Thương mại Trung Quốc và Bộ Phát triển kinh tế và thương mại Nga đã ký Bản ghi nhớ hợp tác giữa hai bộ để tạo điều kiện cho hàng hóa hai nước vững bước tiến vào thị trường của nhau. Các doanh nghiệp Trung Quốc vẫn hết sức coi trọng vị thế dẫn đầu thế giới mà Nga luôn duy trì trong phát triển năng lượng hạt nhân, vũ trụ và công nghệ chế tạo hàng không vũ trụ, từ rất lâu cũng quan tâm tới thị trường y dược có quy mô trên 20 tỷ USD của Nga. Trung Quốc có ưu thế rõ rệt về mặt vốn và nguồn nhân lực, đặc biệt là đã đứng hàng đầu thế giới về các phương diện đường sắt cao tốc, đóng tàu, thiết bị phát điện và năng lượng thay thế, hơn nữa là một trong những thị trường y dược tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Trung Quốc và Nga hoàn toàn có thể bổ sung ưu thế cho nhau, đạt tới hiệu quả cùng có lợi, cả hai cùng thắng. 
Tuy lo ngại của một số người trong giới quân sự Nga đối với sự phát triển sức mạnh quân sự của Trung Quốc khó có thể xóa bỏ trong thời gian ngắn, song hai nước vẫn có tiềm lực hợp tác về kỹ thuật quân sự. Sức mạnh quân sự của Trung Quốc tuy có phần tăng lên song vẫn khó có thể đuổi kịp yêu cầu phát triển của tình hình, vẫn có nhu cầu dựa vào kỹ thuật quân sự Nga để nâng cao khả năng phòng ngự. Tuy Nga vẫn tạm gác lại việc bán vũ khí tiên tiến và linh kiện rời cho Trung Quốc song thị trường vũ khí đạn dược tiềm năng của Trung Quốc làm cho Nga khó có thể dứt bỏ. Tại Hội nghị lần thứ 16 Ủy ban hợp tác kỹ thuật quân sự giữa các chính phủ Trung-Nga hồi tháng 9/2011, phía Nga cho biết sẵn sàng chấp nhận thực tế “hình thức” hợp tác quân sự của hai nước tiếp tục thay đổi, đồng ý bán những trang thiết bị vũ khí phía Trung Quốc cần như máy bay vận tải quân sự IL-76, máy bay lưỡng dụng Be-200 và A-42 cũng như động cơ máy bay chiến đấu AL-31. Năm 2011, hai nước tổng cộng ký hiệp định buôn bán vũ khí đạn dược trên 1,5 tỷ USD. Tuy ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính, kinh tế tổng thể của Nga bị tác động rất lớn song ưu thế tiềm tàng để tăng trưởng kinh tế của nước này không thay đổi. 10 tháng đầu năm 2011, GDP của Nga tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng trưởng đạt 4,2%/năm, đứng đầu nhóm G-8, đứng thứ ba sau các nền kinh tế chủ yếu của thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ. Tới cuối năm 2011, dự trữ ngoại hối của Nga đạt trên 500 tỷ USD, nợ chỉ chiếm 10% GDP, thấp hơn hẳn so với mức độ nợ của các nước phát triển Âu-Mỹ, tỉ lệ lạm phát đã giảm từ 30% năm 2000 xuống điểm thấp nhất trong lịch sử là 6%, tương đương với mức lạm phát của các nước châu Âu. Năm 2012, kinh tế Nga hoàn toàn có hy vọng khôi phục trình độ như mức trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính năm 2008. Đặc biệt là sau khi Nga chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới ngày 16/12/2011, cùng với việc mở mang thị trường hơn nữa, hợp tác kinh tế thương mại giữa hai bước sẽ được khơi sâu hơn. 
Thứ sáu, triển vọng hợp tác giữa các địa phương vẫn có chiều tốt lên. Tới cuối năm 2011 đã có hơn 70 chủ thể liên bang Nga triển khai hợp tác với Trung Quốc, trong đó có hơn 40 chủ thể đã thiết lập quan hệ hợp tác chính thức với các khu vực liên quan của Trung Quốc. Hợp tác giữa tỉnh Amur, Chelyyabinskaya, tỉnh tự trị Do Thái, khu vực biên cương Khabarovskiy cũng như khu vực biên cương Ngoại Baikal với tỉnh Hắc Long Giang Trung Quốc hết sức tích cực. Phó Thủ tướng Nga Alexander Zhokov cho rằng sự chỉ trích ác ý của một số người đối với hợp tác khu vực biên giới Trung-Nga thuần túy “là sự tô vẽ quá mức của các phương tiện truyền thông”, coi sự phê bình đối với với việc thực hiện cá biệt các vấn đề của “cương lĩnh” là sự phủ định đối với tính nguyên tắc của nó. Ông nhấn mạnh, “sự phát triển tổng hợp của hợp tác chiến lược giữa hai nước không thể thiếu bộ phận hợp tác giữa các khu vực này”. Chính phủ hai nước hết sức coi trọng “Đề cương quy hoạch hợp tác khu vực Viễn Đông và Đông Xibêri với khu vực Đông Bắc Trung Quốc (năm 2009-2018)” đã được nguyên thủ hai nước phê chuẩn. Tuy khu vực biên giới của hai nước có sự khác biệt trong tiến độ thực hiện một số dự án hợp tác, song 28 trong số 95 dự án phía Nga phụ trách đã hoàn thành toàn bộ, bao gồm xây dựng sàn trao đổi hàng hóa và cơ sở cảng Leninskoye, cải tạo tuyến đường quốc tế Ngoại Baikal – Mãn Châu Lý, 67 dự án đang trong quá trình tích cực thực hiện, dự án hợp tác “một đảo hai nước” tức đảo lớn Ussriyska (đảo Hắc Hạt Tử) dự định hoàn thành trước năm 2016 cũng đang được vững bước thúc đẩy. Trước cuối năm 2011, phía Nga đề ra phương án ý tưởng phát triển một số khu vực của Nga đồng thời trình chính phủ liên bang phê chuẩn. Trong vài năm tới, hai bên sẽ xây dựng ở hòn đảo này các trung tâm thương mại và điểm vui chơi du lịch quốc tế như nhà hàng, thương mại, trung tâm vui chơi và văn hóa, trung tâm hợp tác công thương nghiệp Đông Á, trung tâm trao đổi hàng hóa và sân đua ngựa v.v…, dự tính mỗi năm có thể thu hút 1,5 triệu du khách tới tham quan. Bên cạnh đó, hai bên hoàn thành dự án xây dựng tuyến đường cửa khẩu Pogranichniy-sông Tuy Phần để đưa vào sử dụng nhân Hội nghị cấp cao APEC ở Vladivostok năm 2012. Việc xây dựng và cải tạo cơ sở kiểm tra biên phòng tuyến đường cửa khẩu Kraskino-Huy Xuân cũng hoàn thành vào đầu năm 2012. Dự án lớn đường sắt trên cầu qua sông Đồng Giang ở biên giới Trung-Nga đi qua tỉnh Hắc Long Giang cũng đạt được những tiến triển tích cực, phần nằm ở phía Trung Quốc đã bắt đầu khởi công xây dựng; trình tự phê chuẩn của phần nằm ở phía Nga đã gần xong, sắp được khởi công. Tiếp sau việc Trung Quốc và Nga khai thông tuyến đường nổi trên băng Đồng Giang, Nhiêu Hà, công việc của hai nước ở 3 tuyến đường nổi trên băng La Bắc-Amur, Gia Âm-Bashmakovskiy, Hắc Hà-Blgoveshensk đều đang được tiến hành có trật tự. Tới cuối năm 2011, tuyến đường nổi trên băng Hắc Hà đã thực thi việc chắp nối thành công, hai tuyến La Bắc, Gia Âm cũng được khởi công xây dựng. 
Ngoài ra, các dự án hợp tác như cầu, đường quốc lộ và đường sắt trên cầu vượt sông các khu vực Hắc Hà, sông Lạc Cổ, Đông Ninh của Nga và Trung Quốc cũng đang từng bước được thúc đẩy, dự án cầu trên tuyến đường nối liền Khabavoski với đảo lớn Ussuriyska và cơ sở hạ tầng khu vực của hai đoạn này được khởi động. Các quan chức địa phương hai nước còn đưa ra ý tưởng thiết lập ủy ban hỗn hợp giữa khu vực Khabavoskiy với tỉnh Hắc Long Giang để tạo thuận lợi cho hai bên “trao đổi ý kiến định kỳ”, nghiên cứu và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình cùng khai thác dự án đảo lớn Ussuriyska. Ngoài ra, công ty SDIC Trung Quốc và một số doanh nghiệp lớn còn cùng lãnh đạo Chesnia đạt được hiệp định, xây dựng mới trung tâm đầu mối trao đổi hàng hóa ở Groziy (thủ phủ Chesnia), chịu trách nhiệm gia công và tiêu thụ, vận chuyển hàng hóa tới các khu vực tiếp giáp Nga và Ngoại Cápcadơ, đồng thời biến nó trở thành cơ sở trung chuyển bán buôn bán lẻ của Bắc Cápcadơ. Hai bên còn dự định liên kết thành lập một loạt doanh nghiệp chế tạo quy mô vừa và nhỏ nhằm giảm bớt giá thành vận chuyển và thuế thành phẩm nhập khẩu, và giải quyết vấn đề việc làm của người dân sinh sống ở đó. Tình hữu nghị đời đời giữa Trung Quốc và Nga đã trở thành nhận thức chung và nguyện vọng của ngày càng nhiều người dân hai nước, lợi dụng ưu thế bổ sung lẫn nhau một cách khách quan và điều kiện có lợi được thiên nhiên ban tặng để cùng đối phó với môi trường bên ngoài phức tạp đã trở thành nhiệm vụ lâu dài của hai nước. Nga cần hậu phương lớn chiến lược này của Trung Quốc, Trung Quốc cũng cần đối tác chiến lược nước khác không thể thay thế này của Nga. Dù lãnh đạo hai nước thay ban lãnh đạo nhiệm kỳ mới, phương châm láng giềng thân thiện, hữu nghị và hợp tác Trung-Nga đều sẽ không thay đổi. Đúng như lời của Tổng thống Putin: “Nga cần một Trung Quốc phồn vinh và ổn định, ngược lại, Trung Quốc cũng cần một nước Nga hùng mạnh và thành công”. 
Theo Tạp chí “Hòa bình và phát triển” - Trung Quốc
Lê Sơn (gt)