Thứ Ba, 15 tháng 10, 2013

1. Viện trợ nước ngoài của Trung Quốc dành cho châu Phi trong những năm đầu thế kỉ XXI



VIỆN TRỢ NƯỚC NGOÀI CỦA TRUNG QUỐC DÀNH CHO CHÂU PHI TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
                                                                                                             NCS. Võ Minh Tập
                                                                                                
Bài đăng trong Tạp chí Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông, số 9 (97), 2013.
Summary
CHINA’S FOREIGN AID IN AFRICA IN THE EARLY XXI CENTURY
In the early XXI century, Africa is one of the places where gets aid at most from China. This shows that China's aid to Africa is an important part of its foreign aid policy. So what aid policy has China worked out for Africa? What is the actual situation of aid? How does China's aid influence on social and economic development in Africa? This article will focus on the analysis and clarification of these issues.
Keywords: China’s foreign policy, foreign aid
Đặt vấn đề
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, châu Phi là một trong những nơi nhận được viện trợ nhiều nhất của Trung Quốc. Điều này cho thấy, viện trợ của Trung Quốc vào châu Phi là một phần quan trọng trong chính sách viện trợ nước ngoài của họ. Vậy, Trung Quốc đã đề ra chính sách viện trợ đối với châu Phi là gì? Thực trạng viện trợ ra sao? Viện trợ của Trung Quốc có tác động như thế nào đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở châu Phi? Bài viết sẽ tập trung phân tích và làm rõ những vấn đề này.
Từ khóa tiếng Việt: Chính sách đối ngoại Trung Quốc, viện trợ nước ngoài
1. Chính sách viện trợ nước ngoài của Trung Quốc đối với châu Phi
Tính đến nay, viện trợ nước ngoài của Trung Quốc đối với châu Phi đã hơn 56 năm (1956 – 2013). Năm 1956, sau Hội nghị Bangdung (Indenosia), Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách hổ trợ cho các nước châu Phi. Đặc biệt, năm 1964, Chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố trước toàn thế giới Tám nguyên tắc viện trợ kinh tế và hổ trợ kĩ thuật cho các quốc gia đang phát triển [6], trong đó có châu Phi mà nội dung cốt lõi mang tính nguyên tắc cho viện trợ nước ngoài là bình đẳng, cùng có lợi và không có điều kiện ràng buộc.
Trong những năm 1970, Trung Quốc tiến hành viện trợ kinh tế vào châu Phi dưới nhiều hình thức mang tính đa dạng và linh hoạt, đồng thời điều chỉnh quy mô, cấu trúc và các lĩnh vực viện trợ phù hợp với điều kiện thực tế của họ cũng như nhu cầu ở các nước tiếp nhận. Bên cạnh đó, Trung Quốc chú trọng hơn tính hiệu quả kinh tế và tính dài hạn của các dự án viện trợ.
Trong những năm 90 thế kỷ XX, Trung Quốc lại điều chỉnh biện pháp cải cách viện trợ nước ngoài, thành lập các Quỹ viện trợ nước ngoài và Ngân hàng xuất nhập khẩu. Theo đó, các Quỹ này dùng để hổ trợ cho các công ty, doanh nghiệp Trung Quốc để xây dựng và hợp tác liên doanh với các nước đang phát triển, nhất là châu Phi nhằm mục đích đa dạng hóa các nguồn lực cũng như kinh phí.
Năm 2000, Diễn đàn Hợp tác Trng Quốc – châu Phi (FOCAC) được thành lập. Tính đến nay hai bên đã tiến hành 5 lần Hội nghị cấp bộ trưởng. Diễn đàn này đã trở thành nền tảng, cầu nối và là một cơ chế đa phương hiệu quả mang tính thực dụng giữa Trung Quốc và châu Phi. Qua đó, Trung Quốc đẩy mạnh việc mở rộng thương mại song phương, phát triển hợp tác đầu tư, cải thiện công tác viện trợ của Trung Quốc ở các nước châu Phi, mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực khác nhau và làm việc với nhau để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vấn đề nợ của châu Phi. Với diễn đàn lần thứ nhất này, đã góp phần đưa quan hệ Trung Quốc – châu Phi lên thành quan hệ đối tác chiến lược.
Đặc biệt là kể từ năm 2004, trên cơ sở tăng trưởng kinh tế bền vững nhanh chóng và tăng cường sức mạnh tổng thể quốc gia, nguồn lực tài chính cho viện trợ nước ngoài của Trung Quốc cũng đã tăng lên nhanh chóng, trung bình 29,4% (từ 2004 đến 2009). Tại Hội nghị thượng đỉnh Bắc Kinh (2006), các bên đã thông qua  Kế hoạch hành động Bắc Kinh năm 2007 – 2009”, dự tính tăng cường sự hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, đầu tư, thương mại, tài chính, xây dựng cơ sở hạ tầng, năng lượng, các nguồn lực, khoa học – kĩ thuật.  Đồng thời, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã công bố 8 cam kết thực hiện viện trợ đối với châu Phi [1, tr.109] và 3 năm sau (2009), tại Diễn đàn FOCAC lần thứ 4 (Ai Cập), Trung Quốc tiếp tục công bố 8 cam kết viện trợ đối với châu Phi [8], nhằm tăng cường quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – châu Phi.
Qua chính sách viện trợ nước ngoài của Trung Quốc ở châu Phi ta có thể thấy, lĩnh vực viện trợ của Trung Quốc ở châu Phi chủ yếu là nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, giáo dục, chăm sóc y tế, nguồn nhân lực, năng lượng sạch, tình nguyện viên chương trình ở nước ngoài và giảm nợ. Trên cơ sở đó, Trung Quốc đã cung cấp các nguồn lực tài chính cụ thể. Thứ nhất, là tài trợ (miễn phí) để các nước tiếp nhận (châu Phi) xây dựng bênh viện, trường học, nhà ở chi phí thấp, các trường hợp viện trợ nhân đạo khẩn cấp; Thứ hai, các khoảng vay không lãi để xây dựng các công trình công cộng và khởi động các dự án để cải thiện đời sống người dân; Thứ ba, vay vốn ưu đãi để thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng, cơ khí, giao thông vận tải, thông tin liên lạc và tài nguyên [8]... Mặc khác, để tính đến hiệu quả kinh tế từ viện trợ, Trung Quốc đã thực hiện chính sách dưới hình thức hợp tác kỹ thuật và quản lý chặt chẽ như các dự án viện trợ, quản lý cho thuê và liên doanh ở các nước châu Phi. Phía Trung Quốc chịu trách nhiệm cho toàn bộ hoặc một phần của các  quá trình từ nghiên cứu, khảo sát, thiết kế và xây dựng, cung cấp tất cả hoặc một phần của thiết bị và vật liệu xây dựng, gửi các kỹ sư và nhân viên kỹ thuật để tổ chức, hướng dẫn việc xây dựng, lắp đặt sản xuất thử nghiệm các dự án này. Và sau khi dự án hoàn thành, Trung Quốc đưa qua châu Phi để tiến hành thực hiện.
Như vậy, thông qua viện trợ nước ngoài, Trung Quốc tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại với các nước đang phát triển ở châu Phi, góp phần thúc đẩy hợp tác Nam-Nam và đóng góp vào sự phát triển chung của nhân loại. Tôn trọng bình đẳng và cùng có lợi, nhấn mạnh kết quả, không áp đặt bất kỳ điều kiện chính trị đối với các nước tiếp nhận (châu Phi), viện trợ nước ngoài của Trung Quốc nói chung và với châu Phi nói riêng nổi lên như một mô hình với những đặc trưng riêng của Trung Quốc.
2. Tình hình viện trợ nước ngoài của Trung Quốc đối với châu Phi trong thập niên đầu thế kỷ XXI
Từ năm 2001, Chính sách viện trợ của Trung Quốc được quan tâm xuyên suốt đối với châu Phi. Trong 3 năm (2000 – 2003), viện trợ cho châu Phi chiếm 44% tổng số viện trợ nước ngoài của Trung Quốc. Năm 2003, Trung Quốc đã viện trợ cho 53 nước châu Phi, triển khai hàng trăm dự án trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. Trung Quốc đã ký hơn 20 thỏa thuận khung cho vay với lãi suất ưu đãi với 19 nước. Sau chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào (2/2004), Trung Quốc đã cam kết viện trợ không hoàn lại cho Ai Cập 10 triệu USD, cho vay ưu đãi 24 triệu USD, cho Angieria vay 48 triệu USD [3, tr.150]. Tại Hội nghị thượng đỉnh tháng 11 năm 2006, Trung Quốc tuyên bố tăng gấp đôi các khoảng viện trợ cho châu Phi là 10 tỷ USD năm 2009 để phục vụ nhu cầu phát triển. Từ năm 2007 – 2009, Trung Quốc đã cung cấp 5 tỷ USD cho các khoản vay ưu đãi và cũng cam kết cung cấp 10 tỷ USD khoản vay ưu đãi năm 2010 – 2012 [9]. Các khoảng vay được sử dụng để tài trợ cho một số dự án lớn đang xây dựng như sân bay ở Mauritius, nhà ở Malabo, trạm thủy điện ở Ghana, khách sạn Sheraton ở Angieria, sân vận động quốc gia Tanzania…
Tính đến cuối năm 2009, Trung Quốc đã hỗ trợ 161 quốc gia và hơn 30 tổ chức quốc tế và khu vực, bao gồm 123 quốc gia phát triển nhận được viện trợ từ Trung Quốc thường xuyên. Trong số đó, 51 ở châu Phi, 18 ở châu Mỹ Latinh và vùng Caribê, 12 ở Châu Đại Dương và 12 ở Đông Âu. Châu Á và châu Phi, số người nghèo lớn nhất, đã khoảng 80% viện trợ nước ngoài của Trung Quốc [8].
Về viện trợ nhân đạo, năm 2009, Trung Quốc viện trợ để xây dựng 107 trường học, cung cấp học bổng cho sinh viên, xây dựng 54 bệnh viện, cung cấp dịch vụ y tế, chống sốt rét cho 41 quốc gia châu Phi, cứu trợ phòng chống thiên tai…Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc luôn hổ trợ các nước châu Phi trong nổ lực giảm bớt các khoản nợ, giúp giảm gánh nặng nợ cho Trung Quốc. Từ năm 2000 đến năm 2009, Trung Quốc đã xóa 312 khoản nợ cho 35 quốc gia châu Phi, với tổng số 19 tỷ NDT [4, tr.32] (1USD = 7,872 NDT).
Tại Diễn đàn hợp tác Trung Phi lần thứ 5 tại Bắc kinh ngày 19/7/2012 , Trung Quốc đã hứa sẽ cho "Lục địa Đen" vay 20 tỷ USD trong vòng 3 năm tới, cao gấp đôi so với mức cam kết đưa ra vào năm 2009. Với số tín dụng này, Trung Quốc hứa giúp các nước châu Phi phát triển cơ sở hạ tầng, nông nghiệp, các ngành chế tạo và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời nâng viện trợ bằng cách xây dựng các trung tâm hướng dẫn công nghiệp hóa nông sản, đào tạo khoảng 30.000 công nhân và 18.000 học bổng và y tế cho châu Phi. Với những cam kết này, Trung Quốc đã bỏ xa các nước phương Tây trong các hoạt động viện trợ, đầu tư vào lục địa đen và được một số nhà lãnh đạo quốc gia châu Phi “chào đón nhiệt liệt” khi sẵn sàng cung cấp các khoản vay tài chính, sẵn sàng đầu tư xây dựng đường xá, đường sắt và các công trình cơ sở hạ tầng khác mà không đòi hỏi gì thêm. Không chỉ có thế, Trung Quốc tỏ ra khác biệt và được lòng châu Phi hơn nhiều so với các nước phương Tây khi hoàn toàn không quan tâm đến các vấn đề như nhân quyền hay đưa ra những lời chỉ trích vào hoạt động nội bộ của những nước châu Phi.
Một điều có thể nhận thấy, viện trợ của Trung Quốc ở châu Phi khác với Mỹ và Phương Tây là  không kèm những điều kiện hay công cụ chính trị. Điều đó không mang tính chất nhất thời mà là chính sách mang tính chất lâu dài. Chính điều này, các nước phương Tây đã ghi ngờ cho rằng viện trợ của Trung Quốc sang châu Phi nhằm khai thác nguồn tài nguyên ở châu Phi, phục vụ cho lợi ích của Trung Quốc, là chủ nghĩa thực dân mới ở châu Phi.
Như vậy, các chính sách và biện pháp viện trợ của Trung Quốc cho châu Phi ta có thể thấy quyết tâm và khác vọng của Trung Quốc để giúp châu Phi phát triển, giảm nợ cho châu Phi cũng là quá trình làm giảm nợ cho châu Phi đối với các nước khác. Đây cũng là một thành công lớn trong chính sách viện trợ của Trung Quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc thâm nhập mạnh mẽ vào châu Phi, góp phần tác động mạnh mẽ đến quan hệ Trung Quốc – châu Phi hiện tại và trong tương lai. Nói cách khác, viện trợ là chất xúc tác tiếp tục thúc dẩy hợp tác kinh tế giữa hai bên.
3. Đánh giá tác động viện trợ nước ngoài của Trung Quốc đối với châu Phi.
Trong hơn thập kỷ qua, châu Phi nhận được một lượng viện trợ tương đối lớn so với các khu vực khác trên thế giới từ Trung Quốc. Nhưng thực tế, các khoảng viện trợ này dường như không tác động liên hoàn với những gì Trung Quốc tài trợ, điều này cũng rơi vào các nhà viện trợ của phương Tây… Đó là thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của các nước châu Phi, đẩy mạnh cải cách cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập đầu ngươi, giảm nghèo đói, ngăn chặn xung đột và chiến tranh. Trên thực tế, châu Phi vần là châu lục nghèo đói, dịch bệnh, tăng trưởng kinh tế không ổn định và xung đột vẫn liên tiếp xảy ra.
Xét về mặt tích cực, viện trợ ODA của Trung Quốc vào châu Phi đã giúp cho châu lục này có được một số điều kiện thuận lợi sau đây để tạo đà cho sự phát triển
Thứ nhất, viện trợ nước ngoài của Trung Quốc phần nào giúp nhiều nước châu Phi ổn định được tình hình kinh tế, xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế.
Theo tính toán của Trung tâm Phát triển Toàn cầu và Tổ chức AidData, đều có trụ sở ở Washington (Mỹ), công bố tại địa chỉ http://china.aiddata.org thì Trung Quốc đã cam kết chi tổng cộng 75 tỉ USD cho các dự án viện trợ và phát triển châu Phi trong giai đoạn 2000-2011. Tất cả viện trợ của Trung Quốc ở châu Phi chủ yếu tài trợ xây dựng các dự án khai thác tài nguyên và phát triển hạ tầng lớn, như làm đường, xây đập, sân vận động, lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội dân sự ở châu Phi…. Trung Quốc hiện có 1.673 dự án ở 50 nước châu Phi trong hơn thập niên qua. Ví dụ như, Trung Quốc đã tài trợ xây dựng những dự án trọng điểm ở Angola như xây dựng đường sắt 1.300km từ bờ biển phía Tây thành phố Bengue giáp biên giới với Cộng hòa Dân chủ Congo, Trung Quốc cũng tài trợ 211 triệu USD vào năm 2008 cho Angola đề xây dựng đoạn đường nối thủ đô Luanna với khu nông nghiệp phía Bắc tỉnh Uige với chiều dại 300km, cung cấp 300 triệu USD để nâng cấp đường cao tốc tại Nigeria, mạng lưới viễn thông tại Ghana, nhà máy luyện nhôm ở Ai Cập, một số dự án khác như tòa hà Bộ ngoại giao Uganda, Djibouti; sân vận động ở Mali, Cộng hòa Trung Phi; tòa nhà Quốc hội ở Mozambique và Gabon, tài trợ phát triển dịch vụ dân sự cho CAR và Liberia…. Trong chuyến thăm các nước Mali, Senegan, Tanzania, Morise tháng 2/2009 của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, Trung Quốc cam kết viện trợ 74,9 triệu USD xây dựng cầu hứu nghị Trung Quốc – Maili dài 2,6km, cho Senegan vay 9 triệu USD, cho Tanzania vay 25 triệu USD, và cho Morise vay 260 triệu USD [11, tr.124]… Chính vì sự đóng góp của Trung Quốc đã đem lại cho tình hình kinh tế-xã hội của nhiều nước châu Phi có nhiều biến đổi khả quan. Theo số liệu thống kê, vào năm 2007, thu nhập bình quân đầu người của Botswana là 12.644 USD, Nam Phi là 9.191 USD…, tuổi thọ trung bình những nước trên là từ 60 trở lên, tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 5% liên tục nhiều năm [4, tr.32], những nước này có trình độ phát triển kinh tế tốt và có thể chế chính trị ổn định nhất châu Phi, kể cả thu nhập bình quân đầu người và tuổi thọ trung bình cao. Điều này đã tạo nền móng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định xã hội trong tương lai.
Thứ hai, viện trợ giúp các nước châu Phi khắc phục đói nghèo nhờ những đóng góp tích cực như hổ trợ nhân đạo, đào tạo, tài chính cho phát triển các dịch vụ
 Châu Phi hiện nay vẫn là châu lục nghèo đói, bệnh tật nhiều nhất thế giới. Những hoạt động viện trợ của Trung Quốc trong những năm gần đây đã đóng góp rất lớn cho vấn đề xóa đói giảm nghèo ở lục địa đen. Sau chuyến thăm của Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào (4/2006), Trung Quốc đã tài trợ 8,7 triệu USD cho Kenya, bao gồm hợp tác kinh tế, kỹ thuật, tài trợ gạo cho người dân bị hạn hán, thuốc chống sốt rét. Năm 2007, Trung Quốc đã xóa nợ cho 33 nước kém phát triển nhất châu Phi với 1,42 tỉ USD nợ đã xóa, Trung Quốc cũng cố gắng sử dụng hợp lí các khoản trợ cấp giúp vật chất của mình cho các nước châu Phi, đưa chúng vào các đề án xã hội. Cụ thể trong năm 2007, Trung Quốc dự tính xây dựng 30 bệnh viện, 100 trường học ở các vùng nông thôn, 18 trường kinh tế nông nghiệp và 10 trung tâm phòng chống bệnh sốt rét, cung cấp lương thực, cử y tá sang châu Phi chăm sóc sức khỏe cho người nghèo.... Bằng những giải pháp viện trợ không điều kiện, Trung Quốc đã giúp các nước châu Phi khắc phục phần nào tình trạng đói nghèo, bệnh tật. Hiện nay, viện trợ nổi bật của Truung Quốc ở châu Phi là trong lĩnh vực nông nghiệp như hợp tác trong lĩnh vực phát triển đất đai, mở rộng diện tích đất nông nghiệp, áp dụng máy móc trong canh tác, chế biến, đào tạo nguồn nhân lực trong nông nghiệp. Năm 2009, đã có trên 100 chuyên gia nông nghiệp ở châu Phi, dự kiến xây dựng 10 vùng nông nghiệp mới ở châu Phi… Những việc làm đó của Trung Quốc thật sự có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống, vấn đề an sinh xã hội của châu Phi.
Thứ ba, viện trợ góp phần tạo năng lực thể chế và sự phối hợp chính sách tốt hơn, giúp các nước châu Phi tìm được con đường phát triển hiệu quả nhất.
Với những gói trợ giúp được Chính phủ Trung Quốc xây dựng và triển khai thực hiện ở châu Phi, trong đó viện trợ phi tài chính dưới hình thức trợ giúp kỹ thuật lập chính sách, kỹ thuật xây dựng thể chế, tư vấn chính sách cho chính phủ các nước, nhất là đào tạo nguồn nhân lực. Tất cả điều này giúp cho Chính phủ châu Phi  như Nam Phi, Botswana, Tanzania, Uganda… đã cải thiện khuôn khổ pháp lí và chính sách của mình một mặt giúp các nước này nói riêng và châu Phi nói chung tránh những rũi ro gặp phải trong vấn đề kinh tế như sự khủng hoảng, thâm hụt tài chính… mặt khác các chính phủ châu Phi còn phải nâng cao trách nhiệm trong hệ thống quản lí hoạt động kinh doanh, đầu tư của Trung Quốc, đảm bảo luật cạnh tranh, ngăn chặn việc lạm dụng sự thống trị thị trường, minh bạch trong quản trị…của Trung Quốc.
Mặt khác, viện trợ ODA của Trung Quốc vào châu Phi, bên cạnh những tác động tích cực cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, Viện trợ nước ngoài không mang lại sự cải thiện đói nghèo và dịch bệnh cho nhiều nước châu Phi. Vào năm 2009, hơn 20 nước châu Phi ngoài tốc độ tăng trưởng thấp, thì thu nhập bình quân đầu người vẫn đạt dưới 200 USD, dịch bệnh, đói nghèo trở thành bệnh kinh niên như Cộng hòa trung Phi số người nhiểm HIV/AIDS là 14%, Ghinea Bissau là 10% [4, tr.34].... Châu Phi vẫn còn là một châu lục nghèo đói, nhiều vấn đề mang tính toàn cầu ở châu Phi như đói nghèo, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, xung đột…vẫn luôn hiện hữu. Một điều dễ nhận thấy, viện trợ của Trung Quốc không phải tập trung đều đặn ở hầu hết khắp châu Phi, Trung Quốc ưu tiên đầu tư, viện trợ các dự án ở những nước đối tác quan trọng đối với Trung Quốc, như những nước giàu tài nguyên thiên nhiên ở Bắc Phi, Nam Phi và Tây Phi… ngoài việc gây ra những vấn đề ô nhiễm môi trường, tăng dịch bệnh khi khai thác không hiệu quả, không đảm bảo môi trường gây ra mối lo ngại đến chất lượng cuộc sống mà còn vấn đề sử dụng nguồn lao động, chế độ trả lương cho người lao động người châu Phi là việc với các xí nghiệp, dự án của Trung Quốc bất đối xứng và công bằng điều này tăng them đói nghèo ở châu Phi hiện nay.
Thứ hai, viện trợ nước ngoài trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng còn kém hiệu quả do năng lực thể chế và môi trường chính sách yếu kém, viện trợ chủ yếu phục vụ mục tiêu giảm nợ nần. Theo ước tính, mỗi năm châu Phi cần chi phí từ 18 đến 25 tỷ USD cho nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng trong khi hiện nay con số đáp ứng chỉ có 5 tỷ, ở một số nước, để 90% dân số sử dụng 20 km đường tốt có thể thông suốt ngày cả trong mùa mưa phải tốn tới 4 tỷ USD, tương đương 75% GDP mỗi năm [2, tr.136]... Đồng thời, đến nay nợ nước ngoài châu Phi chiếm khoảng trên 60% GDP, viện trợ nước ngoài hầu hết là để chi trả các khoản nợ nước ngoài…. Ngoài ra, Trung Quốc viện trợ có phần tiếp tay cho chế độ ở một số nước châu Phi gây nên tham nhũng, sử dụng không hiệu quả nguồn viện trợ, nhiều chính phủ các nước châu Phi chậm đổi mới chính sách viện trợ hiệu quả nên dễ dàng phụ thuộc vào viện trợ bên ngoài.
Thứ ba, Trung Quốc dùng phương thức viện trợ và hợp tác kinh tế để tiến hành ngoại giao năng lượng đối với các quốc gia châu Phi, phục vụ lợi ích căn bản cho Trung Quốc, gây ra mối đe dọa thâm hụt và cạn kiệt nguồn tài nguyên ở châu Phi.
Thông qua các nguồn viện trợ ngắn hạn và dài hạn, Trung Quốc đổi lại những hợp đồng khai thác tài nguyên thiên nhiên từ các nước châu Phi. Hiện Angola là đối tác quan trọng xuất khẩu dầu thô cho Trung Quốc, năm 2005, nước này đã nhận một khoảng vay trị giá 2 tỷ USD từ Trung Quốc để trao đổi giao dịch dầu, sau đó Trung Quốc mua lại một số cổ phần  của công ty dầu khí quốc gia Angola, hiện tại hầu hết các khoảng viện trợ của Trung Quốc ở Angola chủ yếu để xây dựng đường sá, cơ sở hạ tầng nhằm phục vụ khai thác mỏ, thăm dò và khai thác dầu khí…Trung Quốc cũng kí nhiều hợp đồng với một số công ty khai thác dầu Gabon, quản lí và sử dụng nguồn tài nguyên như luyện kim, khoáng sản quặng, xây dựng hệ thống giao thông để tiến hành khai thác. Trung Quốc cũng công bố lợi ích của mình trong việc thực hiện khai thác dầu, mangan, vàng ở Bờ Biển Ngà, thành lập nhà máy lọc dầu ở Namibia, khai thác mỏ ở Madagasca, thăm dò và khai thác dầu ở Ethiopia…Có thể nói, với nguồn vốn dồi dào, các nguồn viện trợ mà Trung Quốc cung cấp cho châu Phi nhằm mục đích tiếp xúc, tiếp cận nguồn tài nguyên dồi dào tại châu lục, trên cơ sở tiếp cận và đáp ứng nhu cầu thiếu hụt các nguồn cung năng lượng trong nước của Trung Quốc và một chừng mực nào đó, thông qua chính sách ngoại giao năng lượng, Trung Quốc muốn thực hiện tham vọng nước lớn trong thời gian tiếp theo. Điều này không ít học giả, các chuyên gia kinh tế, các tổ chức xã hội và môi trường đã lên tiếng cảnh báo về điều mà họ gọi là “chủ nghĩa thực dân mới” khi Trung Quốc ráo riết khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá và đất đai của châu Phi mà không quan tâm đến các vấn đề xã hội và môi trường. Tổng thống Nam Phi Jacob Zuma cũng từng bày tỏ quan ngại về sự thiếu bền vững trong quan hệ hợp tác giữa châu Phi và Trung Quốc.
Cuối cùng, thông qua các dự án viện trợ, Trung Quốc độc chiếm thị trường châu Phi, giải tỏa áp lực về dân số, giải quyết việc làm cho người Trung Quốc gây nên mối lo ngại nghiêm trọng đối với các nước châu Phi.
Theo nhiều nguồn tài liệu cho thấy 90% lượng công việc tại các dự án do Bắc Kinh đầu tư ở châu Phi rơi vào tay lao động Trung Quốc di cư, do người Trung Quốc quản lí, lực lượng lao động chủ yếu là người Trung Quốc, người dân châu Phi không hài long với hệ thống trả lương mất cân xứng cho công nhân viên chức người châu Phi là việc trong các xí nghiệp của Trung Quốc, cũng như việc Trung Quốc đưa công nhân sang châu Phi, trong khi châu Phi thừa lao động phổ thông, các khoản vay tín dụng, viện trợ vào châu Phi là làm giàu cho giới quan chức châu Phi chứ không phải phục vụ nhu cầu của tầng lớp dân cư nghèo khổ, cũng như giải quyết những vấn đề phát triển các nước châu Phi.
Bên cạnh đó, không một số liệu chính thức nào được công bố, song theo đánh giá, số người Trung Quốc tại châu Phi ở mức từ 750.000 đến 1 triệu người theo các dự án viện trợ, hơn 50.000 người ở Algeria, 100.000 người ở Algola, còn ở Nigeria người Trung Quốc còn đông hơn người Anh thời thuộc địa [10, tr.53]. Báo Afrik đánh giá đó không phải chỉ là một “làn sóng” người Trung Quốc nữa mà là một “trận sóng thần”. Số lượng người Trung Quốc không ngừng tăng tới làm ăn và định cư. Người Trung Quốc có xu hướng định cư lâu dài tại châu Phi, đàn ông sang trước sau đó đưa gia đình sang theo. Họ tới châu Phi không phải vì mục đích du lịch mà là để kiếm tiền. Hiện nay, ở châu Phi nhiều làng Bảo Định của người Trung Quốc được thành lập, một mô hình định cư hiệu quả trong chính sách di dân của Trung Quốc. Lục địa đen đang là một thị trường mới của họ, nơi mọi thứ đều có thể. Tuy nhiên, sự hiện diện trên cũng gây ra những vụ tranh chấp lớn với người bản địa. Không chịu chấp nhận thân phận “chư hầu”, người châu Phi đã thể hiện sự phẫn nộ trước việc phải cạnh tranh với những vị khách Trung Quốc.
Kết luận
Qua phân tích chính sách, tình hình và những tác động viện trợ nước ngoài của Trung Quốc với châu Phi, chúng ta có thể thấy:
Thứ nhất, Chính sách viện trợ nước ngoài của Trung Quốc đối với châu Phi được hoạch định rõ ràng và có bước đi cụ thể. Điều này có nghĩa là châu Phi có một vị trí đặc biệt trong chính sách viện trợ của Trung Quốc.
Thứ hai, chính sách viện trợ châu Phi của Trung Quốc một mặc giúp châu Phi cải thiện tình hình kinh tế-xã hội, ủng hộ Trung Quốc ở các diễn đàn quốc tế, giải quyết vấn đề dân số… song mục tiêu cơ bản nhất là nhằm giúp Trung Quốc tiếp cận nguồn lực, thị trường và nguồn tài nguyên, nhất là dầu mỏ ở châu Phi.
Thứ ba, nét nổi bậc nhất của chính sách viện trợ khác với các nước Âu – Mĩ là không đặt ra những điều kiện kinh tế, chính trị khắc khe. Viện trợ vào những lĩnh vực quan trọng, viện trợ với lãi xuất thấp, có khi viện trợ không hoàn lại… điều này cho thấy chính sách viện trợ của Trung Quốc là không nhất thời, ngắn ngủi mà có tính chất lâu dài.
Cuối cùng, những nổ lực của Trung Quốc trong việc viện trợ cho châu Phi trong hơn thập niên qua cũng như thời gian tới mở ra một tương lai tươi sáng cho lục địa đen, đồng thời cũng mang lại những lợi ích quan trọng cho Trung Quốc. Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu chủ yếu là thúc đẩy tăng trưởng và giải quyết những vấn đề toàn cầu ở châu Phi hiện nay đòi hỏi Trung Quốc phải tìm ra những phương thức viện trợ hợp lý, hiệu quả, tránh mang những tai tiếng của dư luận để góp phần đưa châu Phi thoát khỏi tụt hậu và hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu.

Tài liệu tham khảo chính
1. Congressional Research Service Library of Congress (2008), China’s Foreign Policy and “Soft Power” in South America, Asia, and Africa, U.S. Government Printing Office, Washington, DC.
2. Đỗ Đức Định (cb, 2006), Tình hình chính trị - kinh tế cơ bản của châu Phi, Nxb KHXN, Hà Nội.
3. Nguyễn Thanh Hiền (Chủ niên, 2008), Hợp tác quốc tế giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu của châu Phi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Thanh Hiền (cb, 2011), Châu Phi: một số vấn đề kinh tế và chính trị nổi bật sau chiến tranh lạnh và triển vọng, Nxb KHXH, HN.
5. Thomas Lum, Hannah Fischer, Julissa Gomez-Granger and Anne Leland (2009), “China’s Foreign Aid Activities in Africa, Latin America, and Southeast Asia,” R40361 (Congressional Research Service, February 25, 2009).
7. Wen Jiabao (2009), Chinese premier announces eight new measures to enhance cooperation with Africa, Chinese Embassy in South Africa All Rights Reserv, 2009/11/09, http://za.china-embassy.org/eng/zfgx/zfhzlt/t625494.htm
9. Quan hệ Trung – Phi năm 2006 – 2008.
10. Nguyễn Bình Giang (Chủ biên, 2011), Di chuyển lao động quốc tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Minh Mẫn (2012), Chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, ĐH KHXH-NV TP.Hồ Chí Minh.