Tạp
chí Bộ Ngoại giao Trung Quốc đánh giá các biến động của cục diện thế
giới năm 2011 và các hướng đi chiến lược quốc tế của Trung Quốc trong
tình hình mới.
Nhìn
lại tình hình chung của thế giới năm 2011, dường như có thể khái quát
bằng một chữ “thay đổi”. Từ “Mùa Xuân Arập-Bắc Phi” hồi đầu năm 2011 tới
“Mùa Hè Ấn Độ”, “Mùa Thu Oasinhtơn” rồi tới “Mùa Đông Mátxcơva”, cục
diện chính trị quốc tế đang thay đổi; kinh tế Mỹ gắng gượng phục hồi,
cuộc khủng hoảng nợ của châu Âu trầm trọng hơn, các nước nhóm BRICS có
sự phòng bị trước, cục diện kinh tế thế giới được điều chỉnh; mối quan
hệ quốc tế của châu Á-Thái Bình Dương (TBD) và Đông Á cũng đang chuẩn bị
điều chỉnh lại; quan hệ Trung-Mỹ đứng trước việc xác định lại vị trí...
Vậy nên đánh giá ra sao về cục diện biến động của thế giới, quan sát
như thế nào về hướng đi chiến lược quốc tế của Trung Quốc trong cục diện
biến động này?
Khủng hoảng kinh tế thế giới làm đẩy nhanh việc thay đổi
trật tự kinh tế quốc tế, vai trò ổn định của nền kinh tế Trung Quốc nổi
rõ.
1- Tình hình kinh tế thế giới nghiêm trọng trong năm 2011
Năm
2011 vừa qua đi, tình hình kinh tế thế giới nghiêm trọng, các hiện tượng
nguy hiểm xảy ra liên tiếp. Tốc độ tăng trưởng của một số nền kinh tế
chủ yếu của thế giới sụt giảm, các nước phương Tây tiếp tục lún sâu vào
cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính không có cách nào thoát ra, vấn đề nợ
công của rất nhiều nước châu Âu nổi rõ, thị trường tài chính quốc tế
liên tục rối ren, không ngừng dập tắt sự kỳ vọng của mọi người, thậm chí
mang lại cho người ta cảm giác khó nhìn thấy bình minh. Mức tăng trưởng
thực tế của nền kinh tế Mỹ năm 2011 được dự đoán thấp hơn 1,7%, năm
2012 khoảng 2,3%, tỉ lệ thất nghiệp sẽ tiếp tục ở mức 9%, đặc biệt là tỉ
lệ thất nghiệp của thanh niên sẽ khoảng 17%; tăng trưởng kinh tế của
các nước châu Âu có khả năng xích gần con số 0, tỉ lệ thất nghiệp khoảng
10%, trong đó tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên bình quân là 20%, tỉ lệ
thất nghiệp của thanh niên Tây Ban Nha thậm chí vượt trên 46%. Bên cạnh
đó, sức ép lạm phát của các quốc gia, thị trường mới nổi tăng mạnh; chủ
nghĩa bảo hộ với nhiều hình thức tăng lên rõ rệt; tính bất ổn, tính khó
lường của sự phục hồi kinh tế thế giới tăng lên. Theo cách nói của Tổng
Giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế Christine Lagarde, sự phát triển của kinh
tế toàn cầu nổi lên cục diện “hết sức tồi tệ”. Ngoài ra, các điểm nóng
khu vực và quốc tế phát sinh hết đợt này đến đợt khác, các thách thức
mang tính toàn cầu như an ninh lương thực, an ninh năng lượng, biến đổi
khí hậu, thảm họa tự nhiên ngày càng nổi rõ, sự phát triển kinh tế thế
giới đứng trước những thách thức nghiêm trọng. Từ Hội nghị thượng đỉnh
Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G-20) ở Luân Đôn đến nay,
cục diện mới quản lý kinh tế toàn cầu dần lộ rõ nhưng vẫn khó có thể
thích ứng với những thay đổi của cục diện kinh tế thế giới; việc điều
chỉnh kết cấu kinh tế thế giới bước đầu lộ diện nhưng vẫn chưa thể đáp
ứng nhu cầu bức thiết về thay đổi phương thức phát triển của nhân loại;
việc sáng tạo khoa học công nghệ ấp ủ những đột phá mới nhưng vẫn chưa
hình thành các điểm tăng trưởng kinh tế mới có sức nặng.
2- Trật tự kinh tế thế giới có những điều chỉnh lớn.
Cuộc
khủng hoảng lần này là một thách thức hoàn toàn mới đối với cục diện
kinh tế thế giới hiện có, trật tự kinh tế thế giới đã xuất hiện một số
điều chỉnh lớn: Thứ nhất, cuộc khủng hoảng đã làm thay đổi tiến trình
toàn cầu hóa do Mỹ chủ đạo, nền kinh tế phương Tây bị giáng một đòn nặng
nề kể từ sau chiến tranh. Giáo sư Lâm Nghị Phu dự đoán các nền kinh tế
phát triển đã bước vào thời kỳ kinh tế chạm đáy trong thời gian tương
đối dài. Thứ hai, cuộc khủng hoảng lần này lan nhanh và rộng trong phạm
vi toàn cầu, phản ánh hệ thống tiền tệ quốc tệ hiện có - lấy đồng USD
làm chủ đạo được hệ thống Bretton Woods xác lập sau chiến tranh tồn tại
những khiếm khuyết nghiêm trọng, đã không có cách nào thích ứng với xu
thế mới phát triển kinh tế thế giới, cần khẩn trương có những cải cách
lớn, xây dựng một khung hợp tác tiền tệ quốc tế có tính đại diện để thúc
đẩy đồng tiền dự trữ quốc tế hoàn thiện theo hướng giá trị đồng tiền
được ổn định, cung ứng có trật tự, có thể điều phối tổng lượng, về căn
bản duy trì sự ổn định của nền kinh tế thế giới và bảo vệ lợi ích kinh
tế của các nước. Thứ ba, trong 20 năm qua, một loạt các nền kinh tế mới
nổi kể cả Trung Quốc bắt đầu trỗi dậy đồng thời phát huy vai trò ngày
càng quan trọng trong cục diện kinh tế thế giới. Trong tiến trình quản
lý toàn cầu kiềm chế cuộc khủng hoảng tài chính lần này, vai trò của
G-20, bao gồm các nền kinh tế mới nổi nổi rõ, cùng nhau thảo luận các
vấn đề lớn như quản lý cuộc khủng hoảng và phát triển kinh tế thế giới,
thể hiện vai trò hoàn toàn mới chưa từng có của các nền kinh tế mới nổi,
và các nước đang phát triển trong cục diện kinh tế thế giới hiện nay.
Thứ tư, trọng tâm của cục diện kinh tế thế giới đã xuất hiện dấu hiệu
dịch chuyển sang khu vực châu Á-TBD. Thứ năm, nền kinh tế thế giới dường
như đang ở trong đêm trước của cuộc cách mạng kỹ thuật, kinh tế mới
nổi, phân phối lại các nguồn tài nguyên trong phạm vi toàn cầu, vai trò
chiến lược của các nước chủ yếu cũng đồng thời đang được điều chỉnh, làm
dấy lên sự quan tâm của mọi người.
Trong
bối cảnh này, tính tổng hợp và tính sâu sắc của cuộc khủng hoảng ngày
một nổi rõ. Hiệu ứng đến sau của cuộc khủng hoảng tài chính đẩy nhanh sự
lan rộng, thâm nhập và phát tác trong lĩnh vực chính trị-xã hội, làm
trầm trọng hơn các mâu thuẫn xã hội tiềm tàng đã có, cho thấy những vấn
đề mang tính kết cấu ở tầng sâu và những điểm yếu tồn tại trong thể chế
chính trị của các nước phương Tây như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Về mặt
biểu tượng, sự đối lập chính trị trong nước gay gắt hơn, đảng cầm quyền
và đảng đối lập đối chọi gay gắt, các chính đảng liên tiếp thay nhau cầm
quyền. Bộ trưởng tài chính của 23 trong số 27 nước thành viên châu Âu
rời bỏ vị trí, lãnh đạo của hơn 15 nước lần lượt mất chức. Cục diện
chính trị bất ổn dẫn tới nhiều biện pháp đối phó với cuộc khủng hoảng và
cải cách xã hội không thể thực thi. Ở nhiều quốc gia và thành phố châu
Âu như Anh, các cuộc biểu tình chống đối của dân chúng đã biến thành bạo
loạn quy mô lớn, hàng chục thành phố ở các nước như Mỹ, Canađa và
Ôxtrâylia đã xuất hiện “phong trào chiếm lĩnh” thanh thế to lớn. Mâu
thuẫn giữa sắc tộc và văn hóa gay gắt, thế lực cực hữu trỗi dậy, ở Na
Uy, Bỉ và Italia sinh sôi đồng thời dâng cao các hoạt động khủng bố bạo
lực.
Ngoài
ra, vấn đề mà châu Âu phải đối mặt không đơn thuần là giải quyết cứu vãn
vấn đề thời cuộc hiểm nguy về kinh tế mà là liệu có cần dựa vào thời cơ
cứu vãn nền kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh vấn đề chính trị trong tiến
trình nhất thể hóa châu Âu mà bao thế hệ nỗ lực đạt được sau chiến
tranh, tức là dựa vào thời cơ châu Âu ban hành cơ chế chính sách tài
chính và tiền tệ trung ương thống nhất, tăng tốc đẩy mạnh tiến trình
nhất thể hóa châu Âu. Trong đó, thể chế lãnh đạo của hai đầu tàu
Pháp-Đức nổi lên vai trò chính trị then chốt.
3- Cuộc khủng hoảng nợ của châu Âu làm dấy lên những suy nghĩ sâu sắc.
Xu thế
phát triển của cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu làm cho các đảng cầm quyền
và đảng đối lập ở các nước phát triển phương Tây phải suy ngẫm sâu sắc.
Chủ nghĩa tự do mới trong lĩnh vực kinh tế, tài chính hóa và hư cấu hóa
quá mức nền kinh tế trước đây cũng như chế độ phúc lợi cao trong lĩnh
vực xã hội hiện ngày càng bị chất vấn nhiều về mặt lý luận và chính trị;
một số cuộc thảo luận nào đó thậm chí bắt đầu đi sâu vào chế độ dân chủ
phương Tây trong lĩnh vực chính trị cho tới những khiếm khuyết và vấn
đề phát triển của toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa, đồng thời thôi thúc
mọi người một lần nữa tạo dựng quan niệm và nhận thức chung từ góc độ so
sánh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Sau khi suy ngẫm và
kiểm nghiệm, phương Tây đang dốc sức thay đổi đề phát triển, về đối
ngoại tích cực bảo vệ đồng thời lợi dụng hết mức ưu thế là những người
chủ đạo hệ thống quốc tế để được giúp đỡ và đẩy cuộc khủng hoảng sang
nước khác, về đối nội điều chỉnh phương thức phát triển kinh tế, nâng
cao sức cạnh tranh. EU một mặt tìm cách thông qua các biện pháp như ký
các hiệp ước đồng minh mới, ban hành và thống nhất chính sách tài chính
thống nhất phù hợp với đồng tiền, đẩy mạnh việc nhất thể hóa và dồn lực
đối phó với cuộc khủng hoảng nợ; mặt khác đề ra và thực thi các kế hoạch
trung và dài hạn về giáo dục, khoa học kỹ thuật, ngành nghề và xã hội
để tăng cường ưu thế nội sinh. Mỹ thì chú trọng phát triển nền kinh tế
thực, trong khi tái thiết giáo dục và cơ sở hạ tầng, tích cực tìm kiếm
sự sáng tạo kỹ thuật mới và xác lập điểm tăng trưởng kinh tế mới, đặc
biệt là tìm cách phát huy ưu thế của mình trong lĩnh vực Internet, thông
qua việc vạch ra quy tắc quốc tế về không gian mạng để tạo dựng trụ cột
ngành nghề và kỹ thuật làm chỗ dựa cho ưu thế cạnh tranh và địa vị lãnh
đạo toàn cầu, tính chuyện cải cách đồng USD để tạo thuận lợi cho việc
tăng cường trở lại địa vị bá quyền tài chính quốc tế. Đương nhiên những
cải cách này chưa động chạm sâu đến những vấn đề mang tính kết cấu, cơ
chế và tệ nạn bên trên của phương Tây. Đối với những vấn đề mang tính
kết cấu và mang tính cơ chế, Mỹ và châu Âu cần phải cải cách cơ chế thu
thuế tài chính, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, loại bỏ nhiều mâu thuẫn
lớn trong xã hội; cải cách chế độ bầu cử và quản lý dư luận trên mạng,
tạo không gian cho lực lượng chính trị thứ ba và công chúng trong thời
đại Internet; cải cách chế độ quản lý văn hóa, giáo dục và dân di cư,
trong khi đảm bảo an ninh xã hội, tạo môi trường thông thoáng có lợi cho
văn hóa đa nguyên và các nhân tài bên ngoài phát huy sức sáng tạo;
trong những thay đổi, điều chỉnh của hệ thống quốc tế, để các cường quốc
kinh tế mới nổi được chia sẻ quyền lợi hơn nhằm tạo thuận lợi cho việc
phát huy vai trò lớn hơn.
Trong
môi trường kinh tế đang suy giảm lớn như vậy, sự đóng góp lớn nhất của
Trung Quốc đối với nền kinh tế thế giới là sự ổn định của đất nước. Chỉ
5-10 năm trước, Mỹ vẫn là cỗ máy ổn định trong nền kinh tế thế giới. Mấy
năm qua, đặc biệt là từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế Trung Quốc đã cho
thấy rõ vai trò ổn định chiến lược của nước này đối với nền kinh tế thế
giới, đặc biệt là trong năm 2011. Cho dù kinh tế của Mỹ và châu Âu gặp
khó khăn, chỉ cần kinh tế Trung Quốc giữ được ổn định, kinh tế các nước
BRICS và Đông Á nhìn chung là ổn định, kinh tế thế giới không thể rối
loạn, nghĩa là phương Tây không tươi sáng còn phương Đông sáng sủa. Hiển
nhiên, cộng đồng quốc tế nên quan tâm hơn tới điểm ngoặt chiến lược
này, nó có ý nghĩa hiện thực hơn so với việc cứ chăm chăm vào vấn đề tỉ
giá đồng nhân dân tệ và xuất siêu thương mại.
Cục diện biến động ở Trung Đông khởi động việc tìm kiếm con
đường mới phù hợp với tình hình đất nước của các nước Hồi giáo, kéo
theo sự thay đổi của cục diện quốc tế.
1- Trung Đông Bắc Phi tìm kiếm thay đổi trong rối ren.
Nhìn
lại những sự kiện xảy ra ở Trung Đông Bắc Phi trong năm 2011, ngoài Xyri
vẫn chưa hết rắc rối, về cơ bản tình hình chung là sáng sủa. Cơn địa
chấn chính trị của Trung Đông bắt nguồn từ sự kiện tranh chấp dân sự ở
Tuynidi, nhanh chóng lan tới toàn bộ khu vực Đại Trung Đông. Mỗi một
quốc gia bị tác động ở những mức độ khác nhau, kết quả cũng không hoàn
toàn giống nhau. Các nước như Tuynidi, Marốc nhanh chóng bước vào thời
kỳ hàn gắn hòa bình về trật tự chính trị trong nước; Libi, Xyri lần lượt
chịu sự trừng phạt, can dự đến cả can thiệp quân sự của các nước phương
Tây, Xyri đến nay vẫn đang trong rối ren; sự sụp đổ nhanh chóng của
Chính quyền Mubarak ở Ai Cập là điều cộng đồng quốc tế không ngờ tới,
cũng kéo theo sự thay đổi của cục diện quốc tế của Trung Đông; dưới sự
can thiệp quân sự của phương Tây, Chính quyền Gaddafi ở Libi sụp đổ hoàn
toàn; Yêmen trở thành nỗi lo lắng buồn phiền của các nước phương Tây,
chần chừ do dự có can thiệp hay không, thể hiện rõ thái độ nước đôi.
Trước những việc như vậy, cộng đồng quốc tế đặc biệt là phương Tây đã tỏ
ra do dự giữa cái gọi là dân chủ, nhân quyền và lợi ích chiến lược các
bên, sự ổn định của cục diện quốc tế Đại Trung Đông và tính khó lường về
chính trị của những người hùng thất thế.
Nếu
tổng kết cục diện biến động lớn ở Trung Đông năm 2011 mà chỉ đơn giản
dùng những từ kiểu tình cảm hóa như “Mùa Xuân”, “Cách mạng” thì rất có
thể không có cách nào miêu tả một cách chân thực xác thực. Vậy nhìn
chung liệu có thể coi nó là sự tìm kiếm con đường phát triển kinh tế
chính trị mới của các quốc gia Hồi giáo Trung Đông Bắc Phi phù hợp với
tình hình nước mình? Điều có thể nhận thấy là con đường chính trị dân
chủ mà các nước Trung Đông sắp hướng tới cũng sẽ không phải là mô hình
của phương Tây. Và điều có thể dự đoán là tiến trình lịch sử này sẽ còn
kéo dài trong một thời kỳ lịch sử, đồng thời sẽ có thể trải qua nhiều
khó khăn trắc trở hơn. Trong tiến trình này, cục diện các mối quan hệ
quốc tế ở Trung Đông rõ ràng cũng sẽ có những thay đổi lớn, nó sẽ không
dịch chuyển theo ý chí chính trị của các nước ngoài khu vực, kể cả các
nước phương Tây. Quan sát tiến trình biến đổi ở Trung Đông Bắc Phi, vừa
phải quan sát sự can thiệp chính trị và quân sự của các nước phương Tây
vừa phải chú ý quan sát vai trò chính trị to lớn của các tổ chức quốc tế
khu vực và toàn cầu quan trọng như Liên Hợp Quốc, đặc biệt là Liên đoàn
Arập (AL) và Liên minh châu Phi.
2- Vai trò mới của Mỹ trong cục diện biến đổi lớn.
Đối với
vai trò mới của Mỹ trong những biến động lớn lần này, nên có những quan
tâm sát sao. Chính sách khác nhau đối với các quốc gia khác nhau ở khu
vực Trung Đông của Mỹ trở thành nhân tố bên ngoài quan trọng ảnh hưởng
tới xu hướng cục diện chính trị của những quốc gia này. Lần này, Mỹ chủ
động phát huy sức mạnh mềm, đẩy hết những trách nhiệm chủ yếu cho bên
thứ ba, làm hết khả năng giảm bớt tổn hại cho lợi ích của Mỹ xuống mức
thấp nhất với cái giá thấp nhất, đồng thời tiếp tục duy trì địa vị lãnh
đạo. Chính quyền Obama vừa phải nghĩ cách rút quân thuận lợi khỏi Irắc,
Ápganixtan, vừa phải kiểm soát cục diện biến động lớn lan khắp khu vực
Trung Đông, cho thấy rõ đã vượt quá khả năng của Mỹ. Vì vậy, bất kể là
sử dụng biện pháp ngoại giao, thực thi trừng phạt kinh tế hay là sử dụng
vũ lực, Mỹ phần nhiều chú trọng thông qua các cơ chế đa phương để dựa
vào các lực lượng quốc tế, thúc đẩy các nước đồng minh phương Tây và đối
tác khu vực đứng mũi chịu sào phát huy vai trò lớn hơn. Ví dụ, đối với
việc can thiệp quân sự vào Libi, Mỹ thúc đẩy Pháp và Anh phát huy vai
trò lớn hơn trong khuôn khổ NATO và được “sự trao quyền” của Hội đồng
bảo an Liên Hợp Quốc, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của AL, chỉ bỏ ra 2
tỷ USD và 6 tháng đã lật đổ được Chính quyền Gaddafi; đối với Xyri,
trong khi cùng với EU và các nước đồng minh như Canađa tăng cường trừng
phạt, để AL, Thổ Nhĩ Kỳ và Pháp đứng ở tuyến trước phát huy vai trò lớn
hơn, khi nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc chưa được thông
qua, thúc đẩy Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết lên
án Chính quyền Bashar al-Assad tội ác chống lại loài người; đối với
Iran, trong khi phối hợp với các đồng minh tăng cường gây sức ép chính
trị, quân sự và ngoại giao, thúc đẩy Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông
qua nghị quyết trừng phạt mới; đối với những chính phủ sụp đổ nhanh như
Tuynidi và Ai Cập, ủng hộ quân đội các nước này phát huy vai trò chủ
đạo, đồng thời Mỹ duy trì sự tiếp xúc chặt chẽ với lực lượng các phe
phái của hai đất nước này. Mỹ còn thúc đẩy Nhóm các nước công nghiệp
phát triển hàng đầu thế giới (G-7) và Quỹ tiền tệ quốc tế phát huy vai
trò, thông qua ủng hộ chính trị và viện trợ kinh tế, gây ảnh hưởng tới
tiến trình chính trị dân chủ của Tuynidi và Ai Cập. Đối với Baranh, ủng
hộ quốc vương Hamad bin Isa Al Khalifa trấn áp các cuộc biểu tình của
dân chúng dưới sự giúp đỡ của các lực lượng bên ngoài, nhanh chóng ổn
định cục diện hỗn loạn, đảm bảo cho chính phủ của phái Shiite thân Mỹ và
Arập Xêút tiếp tục nắm quyền cũng như sự tồn tại của căn cứ quân sự của
Hạm đội 5 của Mỹ ở Baranh. Đối với Yêmen, đảm bảo an ninh cho Ali
Abdallah Saleh sau khi từ bỏ chức vị tổng thống, ủng hộ quyền lực của
chính phủ được quá độ một cách hòa bình, ngăn chặn chi nhánh Al-Qaeda ở
bán đảo Arập thừa thế bành trướng quá mức. Mỹ đối phó như vậy xuất phát
từ những toan tính tổng hợp với nhiều lợi ích hiện thực chứ không phải
là sự ủng hộ phát triển dân chủ đơn thuần. Mỹ làm như vậy vừa có thể làm
cho lợi ích của Mỹ tổn hại ít nhất với cái giá thấp nhất có thể, vừa có
thể tiếp tục duy trì địa vị lãnh đạo của mình. Đúng như lời của Phó
Tổng thống Mỹ Biden ở Libi sau khi Gaddafi bị bắn chết, đây là “phương
thuốc” mới của Mỹ để can thiệp các công việc toàn cầu trong tình hình
mới.
3- Các nhân tố khó lường.
Dù vậy,
liệu chính sách của Mỹ đối với Trung Đông có thể tiếp tục phát triển
theo những lộ trình trên hay không vẫn đang tồn tại hai biến số quan
trọng. Thứ nhất, sau cục diện biến động, các lực lượng Hồi giáo lần lượt
giành được địa vị chủ đạo ở Trung Đông như phong trào Hồi giáo Ennahda ở
Tuynidi và tổ chức Anh em Hồi giáo ở Ai Cập v.v… liệu có hàn gắn một
cách thích ứng với Mỹ hay không. Thứ hai, Iran tiếp tục kiên định đẩy
mạnh kế hoạch phát triển hạt nhân, đồng thời gây ảnh hưởng đối với tình
hình Xyri, Libăng và Irắc, liệu Ixraen có tấn công quân sự các cơ sở hạt
nhân của Iran từ đó cuốn Mỹ vào xung đột. Nếu nhiều nước Trung Đông và
Mỹ xảy ra xung đột quân sự dưới sự chủ đạo của các lực lượng Hồi giáo,
nếu Ixraen tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran hoặc căng thẳng Mỹ-Iran
bùng lên thành xung đột nghiêm trọng thì các chính sách liên quan của Mỹ
có khả năng được điều chỉnh, từ đó tác động nghiêm trọng tới sự phát
triển của tình hình Trung Đông thậm chí các khu vực khác.
Xu thế dịch chuyển trọng tâm chiến lược của Mỹ đáng được
quan tâm, quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ ở châu Á-TBD không phải là trò
chơi được mất ngang nhau, Trung Quốc là người được lợi và người bảo vệ
tự do hàng hải ở Biển Đông.
1- Mỹ dịch chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á, quan hệ Trung-Mỹ đứng trước những thách thức mới.
Mấy năm
gần đây Mỹ cao giọng tuyên bố quay trở lại châu Á-TBD, và việc này càng
được nêu bật trong năm 2011. Trong bài phát biểu ở Hawaii ngày 11/11,
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tuyên bố “thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ Thái
Bình Dương của Mỹ.” Mỹ hy vọng phỏng theo mối quan hệ xuyên Đại Tây
Dương giữa Mỹ và châu Âu để xây dựng một “mối quan hệ xuyên Thái Bình
Dương” với khu vực châu Á-TBD. “Khu vực châu Á-TBD hiện đang đứng trước
nhiều thách thức, từ đảm bảo tự do hàng hải ở khu vực Biển Đông tới đối
phó với sự khiêu khích và phổ biến hạt nhân của Bắc Triều Tiên, tới thúc
đẩy sự tăng trưởng kinh tế đồng đều, rộng lớn, những điều này đều cần
sự lãnh đạo của Mỹ.” Những lời lẽ này rõ ràng thể hiện ý đồ điều chỉnh
chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Nói tóm
lại, một nguyên nhân quan trọng khiến Mỹ tìm cách tránh một lần nữa bị
cuốn vào Trung Đông, quyết chí hoàn thành nhiệm vụ rút khỏi Irắc, đồng
thời tích cực chuẩn bị các công tác cho việc rút quân khỏi Ápganixtan
vào năm 2014, là để dịch chuyển trọng tâm chiến lược quốc tế sang châu
Á-TBD quan trọng hơn, cấp bách hơn với Mỹ trong tương lai khi mà sức
mạnh tổng hợp của Mỹ tương đối sụt giảm. Mỹ “nhấn mạnh trở lại” địa vị
lãnh đạo của Mỹ ở châu Á-TBD rõ ràng và kiên định như vậy vừa là để đáp
chuyến tàu nhanh phát triển kinh tế của châu Á-TBD nhằm thúc đẩy sự tăng
trưởng của nền kinh tế Mỹ, vừa là để đảm bảo ưu thế trong một cuộc đọ
sức chiến lược mới ở khu vực này. Hiện Mỹ đang cùng lúc bắt tay vào
nhiều việc từ kinh tế, chính trị, quân sự cho tới ngoại giao: ra sức đẩy
mạnh các cuộc đàm phán về Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên
Thái Bình Dương (TPP); tăng đồn trú ở Ôxtrâylia, tìm cách có 2500 lính
thủy đánh bộ đóng ở Ôxtrâylia; tích cực chen chân và xuất hiện trong các
cơ chế đa phương khu vực như Hội nghị cấp cao Đông Á, thúc đẩy cơ chế
hợp tác tiểu đa phương ở nhiều tầng nấc như Mỹ-Nhật-Hàn,
Mỹ-Nhật-Ôxtrâylia, Mỹ-Nhật-Ấn để cùng liên kết, hình thành mạng lưới,
đồng thời thúc đẩy việc ban hành lại các loại quy tắc quốc tế ở khu vực
châu Á-TBD. Điều này không những sẽ trực tiếp gây nhiều khó khăn hơn cho
mối quan hệ đối tác hợp tác cùng tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi cùng
thắng giữa Mỹ và Trung Quốc, mà sẽ gây trở ngại nhiều hơn cho Trung Quốc
phát triển mối quan hệ với các nước láng giềng Đông Á, giải quyết hòa
bình các tranh chấp còn tồn tại, thậm chí khiến những mâu thuẫn tiềm
tàng với nhau gay gắt hơn, từ đó dẫn tới việc tái xây dựng nhiều mâu
thuẫn trong khu vực. Nói tóm lại nghĩa là làm cho môi trường quốc tế
xung quanh của Trung Quốc trở nên phức tạp, nhạy cảm, nhiều thay đổi,
khiến sức ép và mức độ khó khăn của Trung Quốc trong việc bảo vệ ổn định
và quyền lợi trong khu vực xung quanh tăng lên rõ rệt.
Rõ
ràng, trong một đợt biến động mới của cục diện châu Á-TBD, trò chơi và
sự dàn xếp giữa Mỹ và Trung Quốc trong khu vực này đã trở thành dòng
chính. Chiến lược châu Á-TBD mới được Mỹ ra sức đẩy mạnh trên thực tế là
một kiểu phản ứng trước việc ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực này
liên tục tăng lên trong 10 năm qua và hiệu ứng khu vực của nó. Một mục
đích không nói cũng hiểu dường như là đối phó với “sự trỗi dậy của Trung
Quốc”, ngăn chặn sự cân bằng chiến lược của khu vực này phát triển theo
hướng có lợi hơn cho Trung Quốc, tức là Mỹ muốn thực hiện tái cân bằng
chiến lược trong trò chơi với Trung Quốc, tránh bị gạt ra bên lề. Những
mâu thuẫn mang tính kết cấu vốn có trong quan hệ Trung-Mỹ như vấn đề
kinh tế, bán vũ khí cho Đài Loan chưa được giải quyết, trong khi sự thay
đổi mới của khu vực Đông Á trong năm 2011 khiến Trung Quốc lại cảm nhận
được sức ép hiện thực mới. Hiện đang có một xung đột tiềm tàng giữa hệ
thống đồng minh quân sự của Mỹ ở Đông Á với việc Mỹ và Trung Quốc cùng
chung sống ở Đông Á và những trách nhiệm hết sức quan trọng mà cả hai
cùng đảm nhận. Do đó, quan hệ hai nước đã bước vào giai đoạn phức tạp
hơn và nhạy cảm hơn. Rủi ro xảy ra va chạm và đối kháng giữa hai nước
tăng lên rõ rệt, mức độ khó khăn trong việc duy trì quan hệ song phương
ổn định và thực hiện cùng có lợi cùng thắng tăng lên, trong khi các lực
lượng khác tham gia vào cuộc đọ sức ở khu vực châu Á-TBD lại có dấu hiệu
lợi dụng bất đồng giữa Trung Quốc và Mỹ giành nhiều lợi ích. Vì vậy,
việc tổ chức lại mối quan hệ quốc tế trong phạm vi toàn bộ khu vực và
những thay đổi của tình hình trở nên càng phức tạp rối rắm. Để tránh
xung đột, đối kháng gây ra cho Trung Quốc và Mỹ những hậu quả khó có thể
chịu đựng, lãnh đạo cấp cao hai nước luôn cố gắng lấy lợi ích chung đã
có và ngày càng mở rộng khơi sâu làm cơ sở, tích cực tìm kiếm thông qua
các con đường kể cả cơ chế tham vấn các công việc châu Á-TBD để tăng
cường trao đổi, giảm bớt hiểu lầm đồng thời tiến hành quản lý cuộc khủng
hoảng có hiệu quả. Từ một loạt sự việc xảy ra trong thời gian gần đây
cho thấy, cơ chế quản lý chiến lược Trung-Mỹ ngày càng hoàn thiện đã
phát huy vai trò, các cuộc trao đổi song phương đạt được kết quả nhanh
chóng, giảm bớt rủi ro xung đột và hiểu lầm. Sự chín muồi của cơ chế
quản lý chiến lược Trung-Mỹ cũng được khảo nghiệm và hàn gắn đầy đủ
thông qua sự tồn tại và phát sinh của các cuộc xung đột, khủng hoảng
tiềm tàng, lợi ích chiến lược chung và cơ chế quản lý hoàn thiện làm cho
giữa Trung Quốc và Mỹ ở khu vực châu Á-TBD phần nhiều là chia sẻ chứ
không phải là tranh giành, là hợp tác chứ không phải cạnh tranh.
2- Quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ ở khu vực châu Á-TBD không phải là trò chơi được mất ngang nhau.
Quan hệ
giữa Trung Quốc và Mỹ ở khu vực châu Á-TBD không phải là trò chơi được
mất ngang nhau, hai nước cũng tuyệt đối không mong muốn dẫn tới sự xuất
hiện cục diện Chiến tranh Lạnh mới. Hai nước đều nên nhìn thẳng và coi
trọng cục diện chiến lược cùng tồn tại, cùng chung sống ở khu vực rộng
lớn này. Trung Quốc không có ý đồ thách thức vai trò chiến lược của Mỹ ở
châu Á-TBD. Trung Quốc hiểu và tôn trọng hết mức đối với lợi ích chính
đáng của Mỹ ở khu vực này, hoan nghênh Mỹ phát huy vai trò mang tính xây
dựng trong các công việc của châu Á-TBD; Trung Quốc cũng hy vọng Mỹ
hiểu và hết sức tôn trọng những lợi ích to lớn của Trung Quốc ở khu vực
liền kề và xung quanh truyền thống này, cũng như phát huy những ảnh
hưởng chiến lược giàu tính xây dựng. Hai bên nên cùng tôn trọng những
mối quan tâm lợi ích chiến lược của mỗi bên, cùng nhau dốc sức tạo dựng
và quản lý môi trường chính trị, kinh tế và an ninh khu vực và quốc tế
hòa bình, ổn định lâu dài.
Trước
sự thay đổi của môi trường bên ngoài đặc biệt là môi trường xung quanh,
Trung Quốc vẫn nên bình tĩnh quan sát và phân tích một cách có lý trí.
Nên nhận thấy rằng trong thế tấn công của Mỹ lần này khá nhiều là phô
trương thanh thế. Các nước khác thì lại chú trọng thực hiện ngoại giao
cân bằng nước lớn, đứng giữa đầu cơ lợi dụng cuộc đọ sức giữa Trung Quốc
và Mỹ, phần nhiều là miễn cưỡng và do dự khi tỏ ra tốt với Mỹ, lo ngại
quá dựa vào Mỹ làm kích động Trung Quốc từ đó không có cách nào tiếp tục
chia sẻ lợi nhuận từ sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. Điều này vừa
cho thấy môi trường xung quanh của Trung Quốc chưa từ tốt biến thành
xấu, vừa cho thấy các nguồn lực và điều kiện để Trung Quốc tạo dựng môi
trường vẫn đang tăng lên cùng với sức mạnh tổng hợp được tăng cường. Vì
vậy, trong khi kiên trì chính sách hữu nghị với láng giềng, Trung Quốc
cũng nên đổi mới suy nghĩ, tích cực đối phó và chủ động tạo dựng để đối
phó với các tình huống mới và vấn đề mới. Đặc biệt là nên đưa Tây Á vào
phạm vi xung quanh, lập kế hoạch gắn biển với đất liền, phía Đông và
phía Tây, phía Nam và phía Bắc, đưa nhiều lực lượng Mỹ, Nga, Nhật Bản,
Ấn Độ và Ôxtrâylia vào một bàn cờ để hoạch định, phát huy hết mức ưu thế
sân nhà và ưu thế kinh tế, vận dụng tổng hợp các nguồn lực và biện pháp
kinh tế, quân sự và ngoại giao, thực hư đan xen, chế ngự các cuộc khủng
hoảng, thúc đẩy Trung Quốc, Mỹ và các nước láng giềng của Trung Quốc
từng bước hình thành khung cùng tác động tích cực, xác lập điểm tựa khu
vực mạnh mẽ vững chắc để chủ động tạo dựng môi trường quốc tế có lợi.
3- Trung Quốc là người được lợi và người bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông.
Trong
vấn đề Biển Đông được làm nóng lên đến mức ngày càng nhạy cảm, điều mà
Trung Quốc nên an ủi cộng đồng quốc tế là những thành tựu vĩ đại khiến
cả thế giới ngưỡng mộ mà Trung Quốc đạt được từ khi cải cách mở cửa đến
nay hoàn toàn là nhờ môi trường hòa bình của khu vực Biển Đông lâu nay,
được hưởng lợi từ sự thông suốt và đi lại tự do của tuyến đường quốc tế.
Hơn 30 năm qua, tự do hàng hải của tuyến đường thủy quốc tế ở Biển Đông
chưa từng bị đe dọa, trong khi được lợi từ đó thì Trung Quốc cũng luôn
là người bảo vệ quan trọng cho an ninh và tự do hàng hải ở Biển Đông.
Tuy còn tồn tại nhiều tranh chấp quốc tế nhưng hòa bình và an ninh của
khu vực biển rộng lớn như Biển Đông có liên quan tới sự ổn định lâu dài
của môi trường quốc tế xung quanh Trung Quốc, tuyến hàng hải quốc tế
quan trọng này có liên quan tới sự đi lại tự do và an toàn của tuyến
đường thương mại Trung Quốc phụ thuộc vào nhất, ngoài trở thành người
bảo vệ hòa bình và an ninh kiên định nhất, Trung Quốc vừa không thể cũng
không có lý do phá hoại cục diện hòa bình của khu vực lâu nay vẫn dựa
vào. Ngay cả trong vấn đề ở một số đảo, rặng san hô có tranh chấp, Chính
phủ Trung Quốc cũng nhiều lần bày tỏ chính sách ngoại giao giải quyết
bằng phương thức hòa bình, và liên tục tỏ thiện ý. Đối với việc giải
quyết vấn đề Biển Đông, Trung Quốc chưa từng gạt bỏ hợp tác quốc tế,
nhưng cũng tuyệt đối không cho phép bất cứ quốc gia nào lấy tiền đề là
hy sinh sự toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia cốt lõi của Trung Quốc.
Trong tiến trình giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông từ
nay về sau, Trung Quốc sẽ trở thành người xây dựng các quy tắc hành vi
quốc tế tích cực, người bảo vệ cục diện lớn hòa bình ở Biển Đông, thể
hiện khí phách của nước lớn có trách nhiệm của Trung Quốc, làm cho Biển
Đông trở thành tuyến đường tự do và biển hòa bình đem lại lợi ích cho
các nước khu vực và cộng đồng quốc tế.
Việc tạo dựng hình tượng quốc tế của Trung Quốc bắt rễ từ việc xây dựng thực lực mềm.
Năm
2011, sức mạnh tổng hợp và ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc duy trì xu
thế nâng cao nhanh chóng, tiếp tục trở thành một nhân tố quan trọng tác
động tới những biến động của cục diện quốc tế. Một mặt, sự nâng cấp mới
về địa vị quốc tế cũng như những tác động mới giữa Trung Quốc với thế
giới, đã tạo không gian rộng lớn và điều kiện có lợi hơn cho Trung Quốc
bảo vệ và mở mang lợi ích của mình theo con đường phát triển hòa bình,
cũng tạo điều kiện có lợi hơn cho Trung Quốc có những đóng góp lớn hơn
cho sự phát triển và an ninh của thế giới trên các vũ đài rộng lớn hơn.
Nhưng mặt khác, các lực lượng chủ yếu trên thế giới lại dồn dập đẩy
nhanh điều chỉnh chiến lược nhằm vào những biến động của cục diện quốc
tế đặc biệt là nhằm vào sự thịnh vượng đối với khối địa lý châu Á-TBD ở
những mức độ khác nhau, đẩy nhanh việc tổ chức lại cục diện khu vực châu
Á-TBD, khiến tình hình trở nên rối rắm phức tạp, cũng càng khó lường và
đầy rủi ro. Khá nhiều những điều chỉnh và biến động trong đó hoặc là
trực tiếp nhằm vào Trung Quốc hoặc là có mối liên quan chặt chẽ với
Trung Quốc, những điều này đều sẽ mang lại nhiều biến số và tính khó
lường cho môi trường xung quanh Trung Quốc, nhiều nước đã lợi dụng những
biến động phức tạp của môi trường xung quanh dưới thiên hướng phát
triển hòa bình của Trung Quốc, có những yêu cầu mới cao hơn đối với việc
Trung Quốc đẩy mạnh chiến lược đối ngoại. Trong tình hình đó, xuất phát
từ góc độ là một bộ phận quan trọng đang trỗi dậy của nhóm các nước lớn
mới nổi, Trung Quốc phải làm cho tương quan lực lượng của cục diện thế
giới tiếp tục phát triển theo hướng có lợi cho các cường quốc mới nổi;
từ góc độ tăng trưởng và suy giảm của các lực lượng chủ yếu trên thế
giới, Trung Quốc phải làm cho so sánh lực lượng giữa Trung Quốc với các
nước lớn khác có sự thay đổi hơn nữa; từ góc độ vai trò theo dõi sát sao
đối với những biến động của cục diện địa-chính trị toàn cầu, làm cho xu
thế hưng thịnh nhanh của khu vực châu Á-TBD càng nổi rõ. Nói tóm lại,
nhân tố Trung Quốc trong những biến động của cục diện thế giới nổi rõ
hơn nữa, sự tác động giữa Trung Quốc với thế giới tiếp tục phát triển
theo hướng toàn diện, nhiều tầng nấc, nhạy cảm cao, tác động sâu, điều
này làm cho “việc tạo dựng hình tượng quốc tế của Trung Quốc” trở thành
một cụm từ then chốt khi tổng kết ngoại giao Trung Quốc năm 2011 và
triển vọng trong năm 2012.
Nhiều
năm trước, Đặng Tiểu Bình đã nhiều lần nhấn mạnh rằng Trung Quốc mãi mãi
không xưng bá, vĩnh viễn không làm siêu cường. Ngay cả khi Trung Quốc
phát triển, lớn mạnh, cũng quyết không làm siêu cường, quyết không bắt
nạt nước khác. Những lời nói của Đặng Tiểu Bình khi đó là chân thành,
trên thực tế về băn bản đã quy định trách nhiệm đối với cộng đồng quốc
tế sau khi Trung Quốc trỗi dậy. Hình tượng quốc tế của Trung Quốc trước
tiên bắt nguồn từ sức hội tụ dân tộc to lớn trong nước, từ việc Trung
Quốc làm tốt công việc của mình - nền tảng chính trị vững chắc nhất. Để
tạo dựng sức mạnh mềm của Trung Quốc thì căn bản là phải xây dựng Trung
Quốc thành một quốc gia tươi đẹp có sức hấp dẫn về văn hóa, chế độ, đạo
đức, không những có sức hội tụ đối với toàn thể nhân dân Trung Quốc mà
còn có sức hấp dẫn đối với cộng đồng quốc tế. Trung Quốc phải tích cực
đẩy mạnh kinh tế thị trường, tích cực xây dựng nhà nước pháp trị và xã
hội pháp trị, nỗ lực thúc đẩy các quyền lợi về văn hóa xã hội và chính
trị cơ bản cho người dân, đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa xã hội chủ
nghĩa. Trung Quốc phải dùng những điều này để xác lập hình tượng cơ bản,
căn bản của thực lực mềm của Trung Quốc trong cộng đồng quốc tế.
Vì vậy,
điểm dừng chân vẫn phải trở lại với lợi ích căn bản của 1,3 tỷ dân
Trung Quốc. Đối với ngoại giao Trung Quốc, đây mới là cơ sở chiến lược
bền vững nhất. Lợi ích căn bản của 1,3 tỷ dân được bảo vệ thì những đóng
góp của dân tộc Trung Hoa đối với cộng đồng quốc tế chắc chắn là rất
lớn. Xuất phát từ điểm này, Trung Quốc rõ ràng sẽ đóng vai trò người bảo
vệ hòa bình thế giới rất có trách nhiệm. Sự thực là, Trung Quốc là
người được lợi từ môi trường hòa bình quốc tế lâu nay, vì vậy Trung Quốc
sẽ không thách thức trật tự quốc tế hòa bình này mà phải là người bảo
vệ kiên định môi trường lớn hòa bình quốc tế này. Thực tiễn 30 năm qua
đã chứng minh điểm này. Sự phát triển của Trung Quốc không phải là có
được từ bom đạn hay thuốc súng mà là được ưu đãi từ môi trường lớn quốc
tế hòa bình. Ngày nay Trung Quốc đã phát triển nên lại càng không ngu
muội dẫm lên con đường cường quốc đã được lịch sử chứng minh là không
suôn sẻ. Con đường đế quốc và ngoại giao pháo hạm mà các nước phương Tây
thực hiện trong thế kỷ 19 đã bị nhân dân Trung Quốc từ bỏ từ lâu. Hiện
đại hóa quốc phòng của Trung Quốc chỉ nhằm bảo vệ an ninh của mình, chứ
không nhằm các mục đích khác. Xu thế hòa bình và phát triển của thế giới
ngày nay chưa thay đổi, Trung Quốc vẫn sẽ ở trong môi trường chiến lược
quốc tế hòa bình về tổng thể lâu dài. Trung Quốc sẽ kiên trì sự phán
đoán chiến lược cơ bản như vậy. Cộng đồng quốc tế sẽ thật sự cảm nhận
được điều này từ sự phát triển của Trung Quốc, trách nhiệm quốc tế của
Trung Quốc đối với thế giới, từ những sản phẩm công cộng Trung Quốc cung
cấp cho cộng đồng quốc tế, một Trung Quốc lớn mạnh sẽ có đóng góp cho
văn minh nhân loại với sức quyến rũ văn hóa đặc biệt của mình.
Theo Tạp chí “Thế giới đương đại”, Trung Quốc
Văn Cường (gt)
http://nghiencuubiendong.vn/quan-h-quc-t/2878-chien-luoc-quoc-te-cua-trung-quoc-trong-cuc-dien-bien-dong-cua-the-gioi