QUÁ TRÌNH
THÂM NHẬP CỦA ISLAM VÀO ĐÔNG NAM Á TỪ THẾ KỶ
VII ĐẾN THẾ KỶ XV
Võ
Minh Tập
(Bài đăng tại Hội thảo khoa học: "Văn hóa - xã hội các nước Ả Rập: Truyền thống và hiện đại" do Tổng lãnh sự quán nhà nước Kuwait tại TP.HCM và Trường Đại học KHXH-NV, ĐHQG TP.HCM tổ chức ngày 28/09/2012, tr.281-288).
Hình ảnh: tại Hội thảo
Islam –
Hồi giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới. Islam không chỉ đóng một vị trí và
vai trò đặc biệt trong cộng đồng các quốc gia Ả Rập mà còn ở nhiều nước trên thế
giới, trong đó có cộng đồng Islam ở Đông Nam Á.
Trong phạm
vi bài viết này, chúng tôi xem xét quá trình thâm nhập của Islam vào Đông Nam Á
(VII – XV), nhằm đóng góp thêm một số vấn đề sau: sơ lược về thế giới Islam Ả Rập;
Con đường thâm nhập và lan tỏa của Islam trong khu vực, trong đó lý giải những
nhân tố thâm nhập và đặc trưng tiếp xúc và giao lưu của Islam đối với khu vực và
nêu lên một vài nhận xét về Islam ở khu vực Đông Nam Á trong thời điểm nghiên cứu.
1. Sơ lược về thế giới Islam Ả Rập
Tính đến
nay, Islam đã tồn tại và phát triển hơn 1.400 năm, có khoảng hơn 1 tỷ tín đồ.
Islam có một vị trí, nội dung, tổ chức và ảnh hưởng văn hóa mang tầm cỡ quốc tế.
Theo số liệu thống kê, Islam tồn tại trên 120 nước, tín đồ Islam tạo thành đa số
dân cư tại 35 nước, còn thiểu số có ảnh hưởng lớn tại 29 nước. Islam được thừa
nhận là quốc giáo tại 28 nước [1:309]. Islam ra đời vào thế kỷ VII tại bán đảo Ả
Rập, do nhà tiên tri Muhammed sáng lập. Là một tôn giáo ra đời muộn hơn nhiều
so với các tôn giáo khác, nhưng hiện nay, đây là tôn giáo có vị trí quan trọng
nhất ở khu vực Trung Đông. Lịch sử Islam ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền
với bộ kinh Qur’an (kinh co-ran). Sự ra đời kinh co-ran và Islam đã đánh dấu bước
ngoặc lịch sử của người Ả Rập.
Cũng như
nhiều tôn giáo khác, Islam ra đời xuất phát từ
những điều kiện kinh tế, xã hội, tư tưởng và tôn giáo đặc trưng. Tuy
nhiên, sư ra đời của Islam lại mang những nét đặc biệt mà không một tôn giáo
nào có được. Đó là quá trình hình thành và thống nhất quốc gia trở nên một xu
thế tất yếu, đòi hỏi phải có một nhà nước vững mạnh để khôi phục vị thế kinh tế
và sức mạnh về niềm tin tôn giáo, quá trình bành trướng và phát triển thế lực,
mở rộng lãnh thổ ra bên ngoài.
Niềm tin
của các tín đồ đối với Islam là tuyệt đối, với 5 trụ cột của đức tin: (1) Tuyên
xưng thánh Allah là chúa duy nhất và Muhammed là tiên tri của ngài; (2) Cầu
nguyện theo nghi thức 5 lần một ngày; (3) Bố thí cho người nghèo; (4) Ăn chay từ
lúc bình minh cho đến lúc chạng vạng tối trong suốt tháng Ramadan; (5) Hành
hương đến thành phố Mecca ít nhất một lần trong suốt cuộc đời. [2:223]. Niềm
tin đó được xem là giáo luật, là pháp lý tôn giáo đối với mọi tín đồ. Có thể
rút gọn đức tin đó trong ba điều: tin vào Thượng đế duy nhất là Allah; Tin vào
sứ mạng của giáo chủ Muhammed và tin vào việc phán xét cuối cùng.
Trong sự
phát triển của Islam, có thể nói toàn khu vực Trung Đông đã đạt đến đỉnh cao trong
6 thế kỷ (VIII – XIII), đây được coi là thời đại hoàng kim của những người
Islam Trung Đông. Nền văn minh Islam phát triển rực rỡ trên nhiều lĩnh vực của
khoa học như triết học, y khoa, toán học,
văn học…. Nhiều lĩnh vực khoa học của văn minh Hy Lạp đã được dịch ra tiếng Ả Rập,
Baghdad là nơi xây dựng trường đại học đầu tiên trên thế giới và là một trung
tâm văn hóa lớn nhất thế giới vào đầu thế kỷ VIII [3:105]. Sự hưng thịnh đó của Islam đã mang lại những
sức mạnh kinh tế, chính trị và tôn giáo không thể thiếu đối với thế giới Ả Rập.
Trong thời gian này, những đoàn thương thuyền của người Islam Trung Đông đã đẩy
mạnh tiếp xúc giao thương với bên ngoài, cùng với nó là quá trình bành trướng
thế lực của Islam vượt ra phạm vi của khu vực Trung Đông, lan tỏa và thâm nhập
ra thế giới bên ngoài, nhất là Nam Á, Bắc Phi và Đông Nam Á…
Tuy
nhiên, sau khi Muhammed qua đời (năm 632), Islam Trung Đông bị phân hóa làm 2
nhánh: Islam Sunni là nhánh chính thống và truyền thống của Islam và Islam Shia
là những người theo đường lối chính trị, nối dõi trong việc lãnh đạo cộng đồng
Islam. Từ đó đến nay, mặc dù Islam vẫn rất thịnh hành và phát triển, nhất là
dòng Islam Sunni, nhưng trong thế giới Islam ở khắp nơi trên thế giới thường
xuyên xảy ra xung đột, khủng hoảng. Sự đa dạng đó phần nào làm suy giảm khả
năng liên kết thành một khối thống nhất mạnh mẽ của người dân Islam thế giới
nói chung và người dân Ả Rập nói riêng.
2. Con đường thâm nhập và lan tỏa của
Islam trong khu vực Đông Nam Á từ thế kỷ VII đến thế kỷ XV
Trước
khi Islam được truyền bá vào Đông Nam Á, khu vực này đã có ảnh hưởng sâu sắc về
văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa. Nhưng khi Islam có mặt ở Đông Nam Á, Islam mang những
đặc điểm mới mẻ, có sự thống nhất cao và mang tính khu vực rõ rệt. Với khoảng
hơn 200 triệu tín đồ (Muslim), phần lớn thuộc dòng chính thống (Sunni), Islam
không chỉ còn tăng thêm số lượng và biến đổi về chất mà còn ảnh hưởng rất lớn đến
đời sống chính trị, văn hóa, xã hội các quốc gia khu vực.
Khi
nghiên cứu về Islam ở Đông Nam Á, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, chính những
thương gia Muslim Ả Rập đã có công đưa Islam đến Đông Nam Á hải đảo, sau đó được
người Melayu tiếp tục sự nghiệp truyền bá của họ ở khu vực này, hay thông qua
các thương gia Ấn Độ và Trung Quốc [4:4], cũng theo nhiều nhà nghiên cứu, chính
thương thuyền Muslim Ả rập thuộc trường phái luật Islam chính thống – Shafii,
không đi từ bán đảo Ả Rập truyền vào Đông Nam Á mà chính từ miền Tây Ấn Độ [5:10],
lại có ý kiến cho rằng chính người Ba Tư là cái nôi của Islam ở khu vực.
Trong
khi hầu hết các hoạc giả phương Tây đưa ra ý kiến cho rằng nguồn gốc Islam ở
Đông Nam Á là xuất phát từ các thương thuyền Muslim Ấn Độ, Ba Tư thì ngược lại,
nhiều học giả trong khu vực lại khẳng định là chính người Muslim Ả Rập đã có
vai trò đưa tôn giáo của mình đến khu vực [6:3].
Như vậy,
ai là người có công đưa Islam vào Đông Nam Á vẫn còn nhiều tranh cải. Thông qua
nhiều ý kiến của các học giả và sự hiểu biết trong quá trình nghiên cứu của
mình, chúng tôi sẽ đưa ra những nhận định mang tính chất tương đối, nhằm khôi phục lại bức
tranh về quá trình du nhập của Islam vào khu vực Đông Nam Á.
Chúng ta
biết rằng, trên thực tế người Ả Rập đã biết đến khu vực Đông Nam Á từ rất sớm,
có thể là trong khoảng thế kỷ VII đến thế kỷ XIII. Bởi vì, thời kì này đã hình
thành những con đường buôn bán sôi động nối các vùng Viễn Đông-Nam Á-bán đảo Ả
Rập, mặc dù tại những khu vực này điều có những thương gia của Ấn Độ, Trung Quốc.
Nhưng các thương gia Muslim Ả rập chưa có quan tâm nhiều đến khu vực Đông Nam
Á, một phần do nền thương mại Trung Hoa vẫn chiếm đa số và lấn lướt. Một nguồn
tài liệu cho rằng: Chứng cứ đầu tiên được thừa nhận về hoạt động Islam ở đây
(Đông Nam Á) chỉ là báo cáo của Marco Polo năm 1292 có đề cập đến thành phố
Perlak ở miền Bắc Sumatera đã theo Islam” [7:52]. Điều này có nghĩa là người Ả
Rập đã biết đến khu vực Đông Nam Á nhưng về việc buôn bán mang tính chất có tổ
chức của họ thì chưa có, thậm chí cho đến thế kỉ X.
Tuy
nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu điều cho rằng, quá trình Islam thâm nhập vào
Đông Nam Á, mà trước hết là Đông Nam Á hải đảo là vào thế kỷ XIII. Đến đây,
quan hệ buôn bán trực tiếp và loan tỏa của Islam trong khu vực diễn ra thuận lợi.
Vào năm
1258, khi con đường buôn bán từ phương Đông qua Vịnh Ba Tư lên Bắc Âu bị đóng cửa,
con đường buôn bán mới lại được hình thành từ phía Đông-Ấn Độ-Nam Arabia qua Hồng
Hải… Theo đó, các thương gia Muslim đã đến Đông Nam Á buôn bán, định cư và kết
hôn với các phụ nữ địa phương, và đương nhiên Islam đã được truyền bá vào khu vực.
Đông Nam Á có nhiều thành phố như Pasai, Melaka, Aceh… trở thành những trung
tâm buôn bán và trung tâm Islam quan trọng. Các Islam đã có công tổ chức những
hoạt động tôn giáo và truyền bá kiến thức Islam cho cư dân bản địa. Một điều mà
các dân tộc ở Đông Nam Á dễ dàng tiếp nhận Islam là do tính chất ôn hòa, phù hợp
với đời sống tinh thần và tâm linh của mọi người, phù hợp với nhu cầu phát triển
của cư dân bản địa.
Cũng
công bằng mà nói, nguồn gốc Ấn Độ của Islam Đông Nam Á cũng không thể phủ nhận.
Trước đây khu vực này chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa Ấn Độ trên mọi
lĩnh vực, thường được gọi là các quốc gia Ấn Độ hóa. Nhưng sau khi Islam đến,
các yếu tố văn hóa Ấn và Islam đã đan xen, hòa quyện vào nhau với nền văn hóa bản
địa. Khi Melaka trở thành tiểu quốc Islam thì lúc này Islam cũng có mặt tại Ấn
Độ, vai trò, vị trí của nó trong đời sống chính trị-xã hội và văn hóa rất quan
trọng. Nền tảng và cơ sở quan hệ giữa các quốc gia Đông Nam Á và Ấn Độ đã có
truyền thống tốt đẹp. Điều đó tạo nên một chất keo kết dính, một chất xúc tác để
Islam bắn rễ và phát triển ở khu vực Đông Nam Á. Vào thế kỷ XIII – XIV, một số
người trên đảo Pasai đã cải giáo theo Islam. Thế kỷ XV, Melaka đã đóng vai trò
chủ đạo trong quá trình Islam hóa ra toàn khu vực.
Để làm
rõ quá trình Islam hóa ở Đông Nam Á, tất nhiên chúng ta phải căn cứ vào những minh
chứng cụ thể và có tính thuyết phục. Điều đó thể hiện rõ ràng nhất là căn cứ
vào ngôn ngữ, chữ viết và văn học của người Muslim để nghiên cứu. Đó chính là cốt
lõi của vấn đề. Trên thực tế, ngôn ngữ (tiếng Melayu), chữ Jawi và văn học Malayu đã in đậm dấu ấn của
Islam Ả Rập. Cho đến nay, chúng ta có thể khẳng định rằng, chữ jawi đã được sử
dụng rộng rãi ở bán đảo Malaya trước khi người phương Tây tới, những hoạt động
như các ngày trong tuần, tên các tháng trong năm đều được gọi theo cách gọi của
người Ả Rập, đặc biệt là cách đọc kinh Koran.
Vậy, những
nhân tố nào đã giúp quá trình Islam hóa một cách thuận lợi ở Đông Nam Á? Theo
chúng tôi, có thể nêu lên những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất,
Islam hóa đến Đông Nam Á bằng sự ôn hòa, hay nói cách khác là bằng con đường
hòa bình. Điều này rất giống với Ấn Độ trong quá trình Ấn Độ hóa. Tính mềm dẻo,
bao dung, sự thích nghi và chấp nhận của Islam là phù hợp với tâm lý, lễ nghi của nền văn hóa bản địa.
Vì vậy, họ dễ dàng tiếp nhận và hội nhập.
Thứ hai,
trước khi Islam vào Đông Nam Á thì tiếng Melayu đã phát triển và thành thục, tạo
điều kiện để sử dụng rộng rãi trong giao tiếp, buôn bán. Khi Islam đến, ngôn ngữ
Malayu trở thành phương tiện truyền thông cho toàn khu vực.
Thứ ba, quá
trình chuyển hướng phát triển kinh tế đóng vai trò nổi bật. Từ một nền nông
nghiệp tự cung tự cấp, khu vực này (nhất là Melaka) đã trở thành nơi cung cấp
và thu gom hàng hóa, nhất là hương liệu. Qua con đường giao lưu buôn bán quốc tế,
Islam đã xâm nhập vào Đông Nam Á. Các nguyên tắc, lễ nghi của Islam rất phù hợp
với các tầng lớp quí tộc, thương nhân và được họ sẵn sàng đón nhận. Nhiều tiểu
quốc đã cải giáo theo Islam và hòa nhập vào thương trường.
Một vài nhận xét
Qua
nghiên cứu và phân tích về Islam ở Đông Nam Á (VII-XV), chúng ta rút ra một số
nhận xét như sau:
Islam là
một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, Islam ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong đời sống chính trị, xã hội và văn hóa của các nước có cộng đồng
Muslim, trong đó có Đông Nam Á. Islam ở Đông Nam Á có nhiều điểm chung nhưng
cũng có nhiều điểm khác biệt ở mỗi nước và mỗi khu vực. Islam có mặt ở khu vực
tương đối sớm và được thâm nhập mạnh mẽ vào
khu vực trong thế kỷ XIII, thông qua mối ban giao tiếp xúc văn hóa giữa các
Muslim Ả Rập, Ấn Độ, Ba Tư…. và cư dân bản địa hay nói cách khác là thông qua
con đường hòa bình.
Các cộng
đồng Muslim ở Đông Nam Á cùng chia sẽ di sản văn hóa Melayu về chữ viết, ngôn
ngữ, phong tục tập quán… tất cả điều liên kết với nhau tạo ra nếp sống thuần
phong mỹ tục của mỗi cộng đồng dân tộc và cư dân Đông Nam Á.
--------
Tài liệu tham khảo
- Đỗ Minh Hợp (2009), Tôn giáo học nhập môn, Nxb Tôn giáo, HN.
- John Renad (2005), Tri thức tôn giáo qua các vấn nạn và giải pháp, Nxb Tôn giáo,
- Đỗ Đức Định (Chủ biên, 2012), châu Phi – Trung Đông: những vấn đề chính trị và kinh tế nổi bật, Nxb KHXH, HN. 105
- Fatimi, S.Q (1963, Islam Comes to Malaysia, Malaysian Sociogical Resarch Institue LTD, Singapore.
- G.W.J. Drewes (1985), Readings on Isalm in Southeast Asia, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore.
- Al-Attas, S.M Naguib (1972), Isslam Dalam Sejarah dan Kebudayaan Melayu, Kuala Lumper, Malaysia.
- Andaya, B.W and Andaya, L.Y (1982), A history of Malaysia, Macmillan Press Ltd, London.