Thứ Năm, 30 tháng 8, 2012

22. Kinh tế Trung Quốc 2011 và triển vọng 2012



Năm 2011 là năm khó khăn, đầy biến động và thách thức đối với nền kinh tế toàn cầu. Các khó khăn, biến động và thách thức ấy được dự báo sẽ tiếp tục kéo dài trong năm 2012. Trong bối cảnh chung khó khăn đó, cộng với những khó khăn nội tại, nhiệm vụ điều tiết vĩ mô của chính phủ Trung Quốc vừa duy trì kinh tế phát triển bình ổn, tương đối nhanh, đồng thời vừa khống chế lạm phát càng trở nên nặng nề. Vấn đề lạm phát, bong bóng bất động sản và nợ xấu của các chính quyền địa phương đã trở thành tâm điểm chú ý, là vấn đề nổi cộm trong năm 2011 ở Trung Quốc.
 Năm 2011 cũng là năm lần đầu tiên dân số thành thị Trung Quốc đã vượt qua dân số nông thôn. Đây là kết quả của những quyết tâm và nỗ lực to lớn trong quá trình đô thị hóa ở Trung Quốc, song thực tế này cũng mang lại không ít những lo lắng, trăn trở.
   I. TÌNH HÌNH KINH TẾ TRUNG QUỐC NĂM 2011
Công báo thống kê phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 của nước CHND Trung Hoa ngày 22-2-2012 cho thấy, theo tính toán sơ bộ cả năm GDP đạt 47.156,4 tỉ NDT, tính theo giá có thể so sánh, tăng trưởng 9,2% so với năm trước. Như vậy GDP đã liên tục suy giảm qua bốn quý, quý I tăng trưởng 9,7%; quý  II 9,5%; quý III là 9,1% và quý  IV là 8,9%.
   Nếu phân theo ngành nghề thì khu vực I (nông nghiệp) đạt 4.771,2 tỉ NDT, tăng trưởng 4,5%; khu vực II (công nghiệp và xây dựng) đạt 22.059,2 tỉ NDT, tăng trưởng 10,6%; khu vực III (dịch vụ) đạt 20.326 tỉ NDT, tăng trưởng 8,9%.
Như vậy, tỉ trọng khu vực I trong GDP là 10,12%; tỉ trọng của khu vực II là 46,78% và của khu vực III là 43,10%. Có thể thấy tỉ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế vẫn rất cao (ở các nước phát triển chỉ khoảng 1-3%), trong khi tỉ trọng ngành dịch vụ thì lại thấp, nếu ở trình độ phát triển như Trung Quốc thì thường phải có tỉ trọng ngành dịch vụ là khoảng 60-70%.
   Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng ổn định, sản lượng lương thực liên tục tăng trong 8 năm liền. Cả năm tổng sản lượng lương thực đạt tới 571,21 triệu tấn, tăng 24,73 triệu tấn so với năm trước, tăng trưởng 4,5%, liên tục tăng trong 8 năm liền. Sản lượng thịt các loại tăng chậm, cả năm sản lượng thịt lợn, bò, dê,… đạt 78,03 triệu tấn, tăng trưởng 0,3% so với năm trước. Trong đó, riêng sản lượng thịt lợn lại giảm 0,4 % so với năm trước đạt 50,53 triệu tấn. Đây là một trong những nhân tố khiến giá thịt lợn tăng chóng mặt trong thời gian giữa năm 2011, góp phần đẩy lạm phát lên cao kỷ lục 6,5% vào tháng 7-2011
    Sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình ổn, nhanh, lợi nhuận của các doanh nghiệp tiếp tục tăng. Cả năm các doanh nghiệp công nghiệp có quy mô (doanh nghiệp có mức doanh thu bình quân trên 20 triệu NDT/ năm) có mức giá trị tăng 13,9%, mức độ tăng giảm 1,8 điểm phần trăm so với năm trước.
   11 tháng đầu năm, lợi nhuận của các doanh nghiệp công nghiệp có quy mô trên cả nước đạt 4.663,8 tỉ NDT, tăng trưởng 24,4%, giảm đến 25 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong 39 ngành công nghiệp lớn thì có 36 ngành có lợi nhuận tăng, 3 ngành có lợi nhuận giảm so với cùng kỳ năm trước.
   Đầu tư TSCĐ duy trì mức tăng trưởng tương đối nhanh, kết cấu đầu tư tiếp tục được cải thiện. Cả năm 2011, đầu tư TSCĐ trên cả nước (không bao hàm các hộ nông dân) đạt 30.193,3 tỉ NDT, tăng trưởng danh nghĩa đạt 23,8%. Loại trừ yếu tố giá cả, tăng trưởng thực tế đạt 16,1%.
   Tiêu dùng tăng trưởng bình ổn, tiêu thụ xe hơi giảm với mức độ lớn. Cả năm, kim ngạch bán lẻ hàng tiêu dùng toàn xã hội đạt 18.122,6 tỉ NDT, tăng trưởng danh nghĩa 17,1% so với năm trước; loại trừ yếu tố giá cả, tăng trưởng thực tế đạt 11,6%.
Nếu như trong 2 năm trước, triển khai kế hoạch kích cầu tiêu dùng, đưa ô tô, xe máy, đồ điện gia dụng về nông thôn, triển khai “lấy cũ đổi mới”… nên tiêu dùng tăng trưởng nhanh, xuất hiện những điểm nóng về tiêu dùng như tiêu thụ xe hơi, đồ gia dụng, (năm 2010 thì tiêu dùng vàng và trang sức có mức tăng trưởng cao nhất do giá vàng biến động lớn)… Còn trong năm 2011, những điểm nóng tiêu dùng đều có dấu hiệu suy giảm, tiêu thụ xe hơi các loại tăng 14,6%, giảm đến 20,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; đồ gia dụng tăng 32,8%, giảm 4,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; đồ điện gia dụng và các thiết bị âm thanh tăng 21,6%, cũng giảm 6,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2010.
     Giá cả thị trường tăng so với cùng kỳ năm trước, sau tháng 7 mức độ tăng giá đã liên tục giảm sút
 Cả năm 2011, CPI tăng 5,4% so với năm trước. Trong đó, giá cả ở khu vực thành thị tăng 5,3%; giá cả ở khu vực nông thôn tăng cao hơn  đạt 5,8%. Góp phần khiến CPI tăng cao chủ yếu là  do chỉ số giá nhóm thực phẩm (tăng 11,8%)
   Chỉ  số PPI năm 2011 tăng 6,0% so với năm trước; trong đó PPI tháng 12 tăng 1,7%, giảm 0,3% so với tháng trước.
    Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng với tốc độ tương đối nhanh, xuất siêu tiếp tục thu hẹp. Cả năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 3.642,1 tỉ USD, tăng 22,5% so với năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 1.898,6 tỉ USD, tăng trưởng 20,3%; nhập khẩu đạt 1.743,5 tỉ USD, tăng trưởng 24,9%. Thặng dư thương mại cả năm 2011 đạt 155,1 tỉ USD, giảm 26,4 tỉ USD so với năm trước.
   Cung ứng tiền tệ suy giảm ổn định, tín dụng có phần thu hẹp. Tính đến cuối tháng 12-2011, lượng cung ứng tiền tệ M2 đạt 85.200 tỉ NDT, tăng trưởng 13,6%, mức độ tăng giảm 6,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; lượng cung ứng tiền tệ M1 đạt 29.000 tỉ NDT, tăng trưởng 7,9%, giảm 13,3 điểm phần trăm; lượng tiền tệ trong lưu thông M0 đạt 5.100 tỉ NDT, tăng trưởng 13,8%, giảm 2,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Về tín dụng, theo số liệu công bố trong  Báo cáo số liệu thống kê tiền tệ năm 2011” ngày 8-1-2012 của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, cả năm tổng tín dụng là 7.470 tỉ NDT, giảm 390 tỉ NDT so với cùng kỳ năm trước, điều này cũng phù hợp với dự báo của thị trường. Theo dự báo của nhiều chuyên gia trong ngành, năm 2012 tổng quy mô tín dụng sẽ vào khoảng trên dưới 8.000 tỉ NDT.
Về dự trữ ngoại tệ, theo số liệu của Ngân hàng Trung ương, tính đến cuối tháng 12 - 2011 dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc là 3.181,15 tỉ USD, so với con số 3.220,91 tỉ USD tính đến cuối tháng 11 thì giảm 39,76 tỉ USD.
Trong năm 2011, tỉ giá hối đoái giữa đồng NDT và đồng USD đã vận động theo cả hai chiều, có tăng, có giảm chứ không chỉ 1 chiều tăng như trước đây, mặc cho áp lực quốc tế đòi tăng giá đồng NDT vẫn rất lớn.
Tính đến cuối tháng 11, đồng NDT đã tăng giá trị khoảng 4%. Năm 2012 dự kiến mức độ tăng giá đồng NDT sẽ giảm nhẹ so với năm trước, vào khoảng 3%.
   Theo số liệu mới nhất của Trung tâm giao dịch ngoại hối Trung Quốc, ngày 10-2-2012 tỷ giá giữa  đồng NDT và đồng USD là 6.2937 (1 USD = 6.2937 NDT).
Về FDI: Bộ Thương mại Trung Quốc ngày 18-1-2012 công bố số liệu cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nước này năm 2011 tăng 9,72% so với năm trước, đạt 116 tỷ USD, lại tạo mức kỷ lục  mới. Mức tăng này chủ yếu nhờ sự tăng vốn đầu tư từ các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực châu Á, trong khi đầu tư từ Liên minh châu Âu và Mỹ lại giảm.
Trong năm 2011, có gần 28.000 công ty (27.712 công ty) có vốn đầu tư nước ngoài được cấp phép thành lập mới, tăng 1,12% so với năm 2010.
   Cả  năm 2011, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc đạt 60,07 tỉ USD, tăng 1,8% so với năm 2010.
Năm 2011, doanh thu từ công trình bao thầu ở nước ngoài là 103,42 tỉ USD, tăng trưởng 12,2%. Trong hợp tác lao động với nước ngoài, riêng năm 2011 đã cử 452.000 lao động các loại ra nước ngoài, tăng 41.000 lao động so với năm trước. Như vậy tính đến cuối năm 2011, tổng cộng số lao động Trung Quốc cử ra nước ngoài là 5,88 triệu người.
   II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐÁNG CHÚ Ý TRONG VẬN HÀNH KINH TẾ TRUNG QUỐC NĂM 2011
  1. Vấn đề lạm phát
Ngay từ nửa cuối năm 2010 lạm phát ở Trung Quốc đã diễn biến hết sức phức tạp, bước sang năm 2011, CPI liên tục tăng cao và đạt mức kỷ lục 6,5% vào tháng 7 - mức cao nhất trong vòng 37 tháng. Sau khi đạt mức kỷ lục trong tháng 7, CPI đã liên tục suy giảm và mức độ suy giảm ngày càng lớn. Mặc dù vậy, tính chung cả năm 2011 CPI vẫn tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là 4%. (Xem bảng)
Diễn biến lạm phát ở Trung Quốc năm 2011

Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng
4
Tháng 5
Tháng 6
CPI
4,9%
4,9%
5,4%
5,3%
5,5%
6,4%

Tháng 7
Tháng 8
Tháng 9
Tháng 10
Tháng 11
Tháng 12
CPI
6,5%
6,2%
6,1%
5,5%
4,2%
4,1%
Nguồn: Số liệu của Cục Thống kê Nhà nước Trung Quốc các tháng
Trong suốt thời gian từ tháng 1 đến tháng 7 - 2011, do lạm phát diễn biến phức tạp và liên tục tăng cao, nhà nước Trung Quốc đã xác định duy trì ổn định cơ bản giá cả tổng thể bằng mọi cách - Đây được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong điều tiết vĩ mô và cũng là nhiệm vụ cấp thiết nhất của công tác kinh tế Trung Quốc, đồng thời đã liên tục đưa ra các biện pháp thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
Chỉ tính từ đầu năm đến ngày 20-6-2011, Trung Quốc đã có 6 lần nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc vào các ngày 20-1, 24-2, 25-3, 21-4, 18-5 và 20-6, mỗi lần thêm 0,5 điểm phần trăm. (Còn nếu tính từ năm 2010 thì đã có 12 lần nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc).  Sau điều chỉnh, tỷ lệ dự trữ ở các ngân hàng lớn lên tới 21,5% - mức cao nhất trong lịch sử, còn ở các ngân hàng nhỏ và vừa là 18%. Theo tính toán, lần điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngày 20 - 6 đã khiến nguồn vốn bị đóng băng hơn 380 tỷ NDT.
Về tăng lãi suất cơ bản, nếu như trong cả năm 2010 Ngân hàng Trung ương Trung Quốc chỉ tăng lãi suất 2 lần thì chỉ riêng khoảng nửa năm đầu 2011 Trung Quốc đã có 3 lần tăng lãi suất, vào các ngày 9-2, 6-4 và 7-7-2011, mỗi lần tăng 0,25 điểm phần trăm. Sau  3 lần điều chỉnh, lãi suất huy động tiền gửi kỳ hạn 1 năm là 3,5% và lãi suất cho vay kỳ hạn 1 năm là 6,56%.
Bắt đầu từ tháng 8 do lạm phát có dấu hiệu hạ nhiệt và tốc độ giảm ngày càng nhanh nên nhà nước Trung Quốc đã tạm thời không dùng đến các chính sách tiền tệ. Đến tháng 11, hệ lụy của việc thắt chặt tín dụng ngày càng bộc lộ, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, GDP quý 3-2011 của Trung Quốc ở mức 9,1%, thấp hơn nhiều so với mức 9,5% trong quý 2 và 9,7% trong quý 1; chỉ số quản lý thu mua PMI lần đầu tiên giảm dưới ngưỡng 50% - ngưỡng cho thấy sản xuất đang thu hẹp; dòng vốn nước ngoài có dấu hiệu rời khỏi Trung Quốc; thặng dư thương mại và dự trữ ngoại hối sụt giảm; thị trường bất động sản trầm lắng… Tình hình này đã khiến nhà nước Trung Quốc điều chỉnh, chuyển hướng sang nới lỏng chính sách tiền tệ sau khi liên tiếp thắt chặt trong nửa đầu năm 2011. Ngày 30-11-2011, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tuyên bố kể từ ngày 5-12-2011 giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống 0,5 điểm phần trăm. Sau điều chỉnh, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở các ngân hàng lớn là 21% và ở các ngân hàng vừa và nhỏ là 17,5%.
Bước sang năm 2012, động thái nới lỏng lại được tiếp tục, ngày 18-2-2012, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (Ngân hàng Trung ương) ra quyết định, kể từ ngày 24-2-2012 sẽ giảm tỉ lệ dữ trữ bắt buộc xuống 0,5 điểm phần trăm. Đây là lần giảm đầu tiên trong năm nay. Quyết định này đã giải tỏa nguồn vốn khoảng 400 tỉ NDT.
* Đặc điểm của lạm phát
a) Lạm phát lần này ở Trung Quốc ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người có thu nhập thấp và trung bình
Nhân tố quan trọng thúc đẩy lạm phát tăng cao lần này chính là giá nông sản phẩm, như trong tháng 7 (tháng có mức CPI cao nhất), giá cả các loại hàng phi thực phẩm chỉ tăng có 2,9% thì giá cả thực phẩm tăng tới 14,8%. Giá cả ở khu vực nông thôn lại liên tục có mức tăng cao hơn và nhanh hơn so với thành thị. Có thể nhận thấy khu vực nông thôn và những người có thu nhập thấp, trung bình chịu ảnh hưởng của lạm phát nhiều hơn do phần lớn thu nhập của họ dùng để mua lương thực, thực phẩm.
b) Kiểm soát giá thịt lợn là một trong những yếu tố then chốt để kiềm chế lạm phát tại Trung Quốc
Số liệu tháng 7 cho thấy, giá cả thực phẩm tăng đến 14,8% đã khiến CPI tăng 4,38 điểm phần trăm, chiếm đến 67,38% tổng mức tăng chung của CPI. Trong thực phẩm, giá cả các loại thịt vẫn có mức tăng cao nhất, đặc biệt là giá thịt lợn.
Trung Quốc là một trong những nước tiêu thụ thịt lợn nhiều nhất thế giới, khoảng 37 kg một người một năm. Theo số liệu của Hiệp hội Chăn nuôi Trung Quốc năm 2009, thịt lợn chiếm 65% tổng lượng thịt được tiêu thụ. Trong tháng 5-2011 giá thịt lợn tăng 40,4%; tháng 6-2011 tiếp tục tăng tới 57,1%; mặc dù tháng 7, mức độ tăng giá thịt lợn đã giảm nhẹ so với tháng 6, song vẫn ở mức cao: 56,7%, khiến CPI tăng khoảng 1,46 điểm phần trăm, tức là chiếm tới 22,46% tổng mức tăng chung của  CPI.  Giá thịt lợn liên tục tăng mạnh đã khiến lạm phát liên tục tăng cao và lập đỉnh vào tháng 7. Vì vậy, theo nhiều chuyên gia kinh tế, kiểm soát giá thịt lợn là một trong những yếu tố then chốt để kiềm chế lạm phát tại Trung Quốc.
* Nguyên nhân khiến giá cả nông sản phẩm Trung Quốc liên tục tăng trong nửa đầu năm 2011 là do một là thiên tai tiếp tục nghiêm trọng làm cho giá  lương thực thực phẩm tiếp tục tăng lên, trong khi Tổ chức Lương nông Liên Hợp quốc (FAO) cho biết giá lương thực thực phẩm thế giới tiếp tục tăng cao trong năm 2011 và 2012. Hai là tỉ trọng tiêu thụ thịt lợn của Trung Quốc chiếm 9% trong tổng lượng tiêu thụ, nhưng giá thịt lợn hầu như không giảm mà chỉ có tăng, thời gian tới chưa thể làm cho giá thịt lợn ổn định hay giảm ngay được để kìm hãm đà tăng của CPI. (do nuôi lợn phải có chu kỳ chăn nuôi và vấn đề thiếu hụt số lợn, thức ăn tăng giá, chi phí chăn nuôi tăng nhanh vẫn tồn tại khiến giá cả thịt lợn có thể vẫn tiếp tục đắt đỏ). Ngoài ra, giá thành sức lao động tăng lên, thanh khoản dư thừa cũng làm cho mặt bằng giá tăng lên… 
Về đối phó với lạm phát, Quốc Vụ viện Trung Quốc can thiệp vào tất cả các phương diện: Một là, khống chế thanh khoản, cũng chính là quản lý tốt nhân tố gây lạm phát; hai là, nỗ lực phát triển sản xuất, đảm bảo cung ứng, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp; ba là, làm tốt khâu lưu thông, giảm chi phí vận chuyển trong giá thành sản phẩm; bốn là, quản lý tốt thị trường, tăng cường giám sát, chống đầu cơ tích trữ,…
* Nhằm giảm bớt gánh nặng cho người dân và doanh nghiệp trong bối cảnh khó khăn, trong năm qua Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số chính sách như giảm thuế, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay tín dụng… mang lại lợi ích thiết thực cho họ. Luật thuế thu nhập cá nhân mới bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-9, mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân được nâng lên, và mở rộng phạm vi áp dụng mức thuế thấp; vào tháng 10, nhiều chính sách miễn, giảm thuế các doanh nghiệp vừa và nhỏ được đưa ra, ngoài ra còn xác định sẽ tiến hành thí điểm cải cách mở rộng phạm vi thuế giá trị gia tăng tại Thượng Hải từ năm 2012, và sẽ mở rộng đến phạm vi cả nước khi điều kiện chín muồi.
Chính sách giảm thuế sẽ được kéo dài trong năm 2012. Hội nghị Công tác kinh tế Trung ương nêu rõ, chính sách tài chính năm 2012 sẽ tiếp tục hoàn thiện chính sách giảm thuế mang tính kết cấu, tăng cường đầu tư vào lĩnh vực dân sinh, tích cực thúc đẩy điều chỉnh kết cấu kinh tế.
Giám đốc Sở Nghiên cứu Tài chính và Kinh tế thương mại thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc Cao Bồi Dũng cho biết, năm 2012 trọng tâm của chính sách tài chính tích cực mà Trung Quốc áp dụng sẽ chuyển sang "giảm thuế mang tính kết cấu". Theo ông Cao Bồi Dũng, thông qua cải cách thuế, một mặt có thể ưu hóa kết cấu chế độ thuế, tăng thêm tỷ trọng của chức năng "điều tiết phân phối" trong hệ thống thu thuế, từ đó có thể đạt mục đích rút ngắn khoảng cách giàu nghèo; mặt khác, thông qua các biện pháp mở rộng phạm vi thuế giá trị gia tăng, có thể giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và tạo thêm việc làm.
Về huy động vốn: Vấn đề huy động vốn khó của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tồn tại lâu nay, nhưng đến năm 2011 đặc biệt trầm trọng. Do tác động của các nhân tố chính sách thắt chặt tiền tệ, giá nhân công tăng lên, Nhân dân tệ tăng giá cũng như giá năng lượng và nguyên vật liệu leo thang, môi trường bên ngoài phức tạp, khắc nghiệt, rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ lợi nhuận giảm sút, thậm chí thua lỗ, hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn, một số khu vực xuất hiện "làn sóng đóng cửa" trong thời gian ngắn.
Do huy động vốn từ các ngân hàng khó nên các doanh nghiệp buộc phải vay tín dụng dân gian, vì thế hoạt động cho vay tín dụng “đen” lan tràn tại một số khu vực, một số doanh nghiệp không có khả năng thanh toán khoản vay nặng lãi dân gian, nên đã bị thua lỗ, thậm chí phá sản.
Về vấn đề giải quyết khó khăn huy động vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế học Trường Đại học Nhân dân Trung Quốc Lưu Nguyên Xuân cho biết, cần phải nỗ lực về hai mặt: đưa ra chính sách hỗ trợ vay tín dụng và mở rộng kênh huy động vốn trực tiếp. Theo ông, phải thúc đẩy các ngân hàng tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay tín dụng, do vậy nhà nước cần phải trợ cấp cho ngân hàng thương mại để huy động vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cung cấp hỗ trợ chính sách tương ứng. Mặt khác là tiếp tục phát triển tốt sàn chứng khoán theo mô hình Nasdaq, cung cấp không gian huy động vốn trực tiếp cho phát triển các doanh nghiệp công nghệ cao vừa và nhỏ.
Tình trạng kinh doanh khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như siêu nhỏ hiện nay ở Trung Quốc đã thu hút được sự quan tâm của cơ quan chính phủ. Tháng 6 và tháng 10 -2011, Ủy ban giám sát ngân hàng tháng đã hai lần ra thông tư liên quan hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trước tình hình thắt chặt tiền tệ, ngành ngân hàng vẫn tiếp tục tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay tín dụng.
Hội nghị Công tác kinh tế Trung ương và Hội thảo công tác phát triển và cải cách nhà nước cũng đều đề xuất trong mục tiêu công tác kinh tế năm 2012 là: cần phải hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy kinh tế thực phát triển lành mạnh.
  1. Lo ngại về sự đổ vỡ của thị trường bất động sản:
Thị trường bất động sản Trung Quốc hiện đang trầm lắng, cầm cự, thậm chí theo TS. Phạm Chí Dũng thị trường bất động sản Trung Quốc đã bắt đầu sa chân vào một chu kỳ suy thoái, nếu không muốn nói là đổ vỡ và tháng 10-2011 là thời điểm bắt đầu của những hệ lụy tích tụ từ trước đó.
Đáng lưu ý là do ảnh hưởng của các chính sách điều tiết, lượng giao dịch đã giảm rõ rệt nhưng không phải là giá nhà giảm rõ rệt. Giá tuy có giảm nhưng vẫn còn rất cao. Theo số liệu của Cục Thống kê Nhà nước Trung Quốc, tháng 11-2011, trong 70 thành phố lớn và vừa của Trung Quốc, giá nhà mới xây dựng giảm so với cùng kỳ năm trước chỉ ở 4 thành phố (4/70); giảm so với tháng trước thì có 49 thành phố (49/70). 
Một vấn đề nữa cũng đáng quan tâm là tình trạng các căn hộ còn tồn đọng chưa bán được ngày càng nghiêm trọng. Theo điều tra của một ngân hàng nước ngoài về các doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản ở các thành phố cấp I, II cho thấy do ảnh hưởng của các chính sách điều tiết, sản lượng tiêu thụ bất động sản đã giảm, lượng tồn đọng ngày càng lớn. Đặc biệt ở các thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thâm Quyến… lượng tồn càng cao. Như Bắc Kinh, lượng căn hộ tồn cao nhất trong 3 năm trở lại đây, nếu với tốc độ tiêu thụ bình quân như nửa đầu năm thì cần gần 15 tháng nữa mới bán hết; Thượng Hải cũng phải cần đến 12,4 tháng; một số thành phố như Thẩm Quyến, Vũ Hán, Hàng Châu, Tô Châu,… lượng căn hộ tồn bình quân cũng vượt qua lượng tiêu thụ trong 15 tháng. Tính đến đầu tháng 7, tổng lượng căn hộ tồn ở 11 thành phố lớn trọng điểm tới 634.000 căn, tăng 0,9% so với tháng trước.   
Ngoài những khó khăn đã nêu như giá nhà tuy đã giảm nhưng vẫn còn rất cao, lượng giao dịch nhỏ giọt gần như đóng băng, lượng nhà tồn chưa bán được cao nhất từ trước đến nay, thì vấn đề nan giải nhất vẫn là thanh khoản quá khó, trong khi các khoản nợ đến hạn phải thanh toán cho ngân hàng vẫn liên tục xuất hiện. Trong 3 quý đầu năm nay, ngành bất động sản Trung Quốc phải trải qua những khó khăn nghiêm trọng nhất. Nhiều công ty bất động sản đã phải bán nhà ngang mức giá thành để cầm cự. Một làn sóng bán nhà nữa có thể đẩy thị trường bất động sản tan vỡ, lý do chính mà các công ty này chưa lao vào một cuộc bán tháo thực sự là còn trông chờ động thái hỗ trợ từ chính phủ.
Có thể nói, nhà đất là một lĩnh vực kinh tế được đặc biệt ưu đãi, được cấp vốn dồi dào để xây dựng. Thực hiện gói kích thích khổng lồ 4.000 tỷ NDT trong năm 2008-2009, bong bóng bất động sản ở Trung Quốc đã ngày càng phình to. Năm 2009, tổng chi phí cho nhà cửa đã tăng tới mức 12 - 15 lần thu nhập trung bình một năm của tầng lớp trung lưu ở các thành phố lớn của Trung Quốc. Ở một số thành phố cấp 1 và 2 như Bắc Kinh, Thượng Hải, Hàng Châu, tỉ lệ này là 20 - 30 lần, cao hơn rất nhiều so với mức đề xuất của Ngân hàng Thế giới (WB) là 5 và của Liên Hợp quốc là 3.  Đầu tư lớn và tiền đầu cơ chảy vào thị trường bất động sản làm giá tăng mạnh tại nhiều thành phố, vượt quá khả năng của dân chúng.
Để hạ nhiệt thị trường bất động sản, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra hàng loạt các biện pháp khống chế, năm 2011 không những tiếp tục thi hành chính sách điều tiết của năm 2010 (không chế giá nhà tăng quá nhanh, hạn chế hoạt động đầu cơ bằng cách siết chặt tín dụng, tăng tài sản thế chấp khi mua căn hộ thứ 2, tăng thuế nhà đất…) mà Quốc vụ viện Trung Quốc tháng 1-2011 còn đưa ra Lệnh hạn chế mua nhà, đây được coi là "chính sách nghiêm ngặt nhất trong lịch sử".
Một năm qua, những chính sách hạn chế mua nhà đã có hiệu quả trong việc ngăn chặn giá nhà tăng quá nhanh, nó cũng khiến lượng giao dịch giảm rõ rệt, nhưng khi tư nhân hoãn kế hoạch mua nhà, giới đầu cơ im ắng thì “nạn nhân” đầu tiên lại là các chính quyền địa phương.
Theo mạng phân tích thông tin tình báo chiến lược Stratfor của Mỹ ngày 12-12-2011, kể từ đợt cải cách thuế năm 1994, Trung ương đã lấy một tỷ lệ lớn hơn trong nguồn thu ngân sách, từ mức 22% (1994) tăng lên mức hoảng 60% hiện nay, dẫn đến việc chính quyền địa phương phải tìm kiếm các nguồn tài chính khác, trong đó một giải pháp là bán đất, bán đất hiện chiếm khoảng 40-60% nguồn thu của chính quyền địa phương. Thực tế này cho thấy chính quyền địa phương có lợi ích cơ bản trong việc đẩy giá bất động sản lên và cộng tác với các nhà khai phát bất động sản để duy trì giá ở mức cao.
Song do chính sách kiềm chế bong bóng nhà đất của chính phủ, tổng doanh số bán đất ở 130 thành phố của Trung Quốc đã giảm 30%. Ở các thành phố cấp 1 và 2 giao dịch bất động sản giảm khiến giá đất do chính quyền địa phương đưa ra giảm từ 10-30%. Giá đất giảm, nguồn thu từ bán đất giảm đã ảnh hưởng đến lợi ích của các chính quyền địa phương. Chính vì thế, họ chống lại mục tiêu của chính quyền trung ương trong việc xây dựng nhà có giá phù hợp hơn – một trong những chiến lược chủ chốt của Trung Quốc nhằm đảm bảo an sinh xã hội.
Tóm lại, hiện nay thị trường nhà ở Trung Quốc không mấy sáng sủa, ngành nhà đất đã gặp phải môi trường chính sách nghiêm ngặt nhất. Liệu chính sách hạn chế mua nhà sang năm có nới lỏng hay không đã trở thành tiêu điểm quan tâm. Hội nghị Công tác kinh tế trung ương kết thúc ngày 14-12-2011 đã xác định biện pháp cơ bản cho việc điều tiết ngành nhà đất năm 2012, tức là kiên trì chính sách điều tiết nhà đất không dao động, thúc đẩy giá nhà trở lại quỹ đạo hợp lý. Phó Chủ nhiệm Phòng Nghiên cứu chính sách Bộ Nhà ở và Xây dựng thành thị và nông thôn Vương Ngọc Lâm cho rằng, chính sách hạn chế mua nhà hiện nay sẽ không xuất hiện nới lỏng.
3. Song hành với thị trường bất động sản có nguy cơ suy thoái,  vấn đề nợ xấu của các ngân hàng trở nên nổi cộm
Trung Quốc hiện đang đối mặt với khủng hoảng nợ, chính quyền các tỉnh vay nợ quá nhiều. Như trong Bản báo cáo về hệ thống tài chính và ngân hàng Trung Quốc công bố ngày 14-11-2011 của IMF cho thấy: giá nhà đất tăng mạnh, ngân hàng cho vay quá nhiều và nợ của các chính quyền địa phương ngày càng tăng đang tạo ra những rủi ro cho nền kinh tế Trung Quốc.
Tháng 10-2011, Cơ quan giám sát ngân hàng Trung Quốc cho biết vấn đề nợ nần của chính quyền địa phương đã tạo ra một số rủi ro tiềm ẩn, nhưng vẫn trong vòng kiểm soát. Ông Lưu Minh Khương, lãnh đạo cơ quan này, nói rằng nợ công của Trung Quốc chiếm khoảng 50% GDP tính đến cuối năm 2010, thấp hơn mức báo động là 60%.
Riêng nợ của chính quyền địa phương các cấp, theo Cơ quan Kiểm toán quốc gia (NAO) Trung Quốc, tính đến cuối tháng 6-2011, món nợ này đã lên tới 10.700 tỷ Nhân dân tệ, tương đương với 27% GDP năm 2010 của Trung Quốc. Tuy nhiên, ngày 5-7-2011 tổ chức xếp hạng tín dụng Moody's cho biết khoản nợ của các chính quyền địa phương Trung Quốc cao hơn con số ước tính của Cơ quan Kiểm toán quốc gia Trung Quốc (NAO) đến 3.500 tỷ Nhân dân tệ (540 tỷ USD), đặt các ngân hàng Trung Quốc vào tình trạng nguy hiểm, có thể đe dọa tới xếp hạng tín dụng của họ.
Nguy cơ trở thành nợ xấu: Theo ước tính chính thức của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, các khoản nợ liên quan đến bất động sản hiện vào khoảng 10.460 tỷ Nhân dân tệ, gấp khoảng 1,5 lần tổng cho vay chính thức năm trong 2010. Con số nợ trên thực tế liên quan đến bất động sản có thể cao hơn nhiều mức đó. Do có nhiều bên có thể liên quan đến mỗi khoản vay dựa trên bất động sản làm thế chấp, điều này có thể nhanh chóng trở thành một nguy cơ mang tính hệ thống nếu giá bất động sản giảm mạnh và nhanh.
Theo đánh giá của ngân hàng Thụy Sĩ Credit Suisse, trong vài năm tới, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại Trung Quốc sẽ lên tới 12% và như vậy sẽ hút đến 60% thanh khoản của các ngân hàng. Hậu quả trực tiếp là tiền mặt thêm khan hiếm. Doanh nghiệp tư nhân sẽ càng vất vả khi đi vay tín dụng. 
Nguyên nhân của tình trạng này theo quan điểm của IMF chính là các doanh nghiệp nhà nước vay nợ chồng chất, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản. Nguồn gốc sâu xa là các ngân hàng hoạt động trên cơ sở can thiệp, chỉ đạo của nhà nước. Chính vì thế IMF kêu gọi Bắc Kinh nên xem xét lại tiêu chuẩn cấp tín dụng, việc quyết định cấp tín dụng hay không phải được dựa trên các tiêu chuẩn kinh tế như mức độ tin cậy đối với người đi vay, hay tiềm năng phát triển của một cơ sở sản xuất, chứ không phải được dựa trên cơ sở chính trị như hiện nay.
Để giải quyết tình trạng này, Trung Quốc nên tiến hành cải cách, cho phép các ngân hàng hoạt động dựa trên cơ chế thị trường. Muốn làm được như vậy, chính phủ Trung Quốc cần giảm bớt vai trò của mình trong hệ thống ngân hàng, cho phép các tổ chức cho vay đưa ra quyết định dựa trên mục tiêu thương mại
Tóm lại, theo giáo sư Bùi Mẫn Hân, chuyên gia về Trung Quốc tại Mỹ, Trung Quốc đang đi theo quỹ đạo không bền vững và kinh tế sẽ tăng trưởng chậm lại trong thập niên tới. Nếu cuộc khủng hoảng của phương Tây do người tiêu dùng vay nợ quá mức gây ra thì những khoản vay mà các chính quyền địa phương đổ vào phát triển hạ tầng cũng có thể tạo ra sự phát triển bong bóng tương tự. 
  1. Dân số thành thị Trung Quốc lần đầu tiên đã vượt qua dân số nông thôn.  
Theo số liệu thống kê công bố ngày 17-1-2012 thì số dân thành thị chiếm 51,27% tổng dân số 1,347 tỷ người, như vậy dân số thành thị (690,79 triệu) đã lớn hơn dân số nông thôn (656,56 triệu). Với một nước nông nghiệp lớn như Trung Quốc, từ xưa đến nay thường là dân số nông thôn đông, dân thành thị ít thì sự kiện này qủa là đáng chú ý, đây là kết quả của việc đẩy nhanh tiến độ, nâng cao trình độ đô thị hoá của Trung Quốc trong những năm gần đây.
Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, nếu dân số thành thị Trung Quốc tăng 1% thì sẽ giúp GDP tăng 1,5%. Trong vòng 10 năm tới, tỉ lệ đô thị hóa của Trung Quốc sẽ nâng cao khoảng 0,9%, mỗi năm dân thành thị sẽ tăng lên từ 13 đến 18 triệu người, đây sẽ là lực lượng trực tiếp thúc đẩy thị trường tiêu dùng nội địa Trung Quốc phát triển. Điều này phù hợp với chủ trương lớn của chính phủ Trung Quốc là thúc đẩy mở rộng tiêu dùng trong nước, chuyển dần phương thức tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào đầu tư, xuất khẩu sang dựa nhiều hơn vào tiêu dùng trong nước.
Chủ trương thì vậy, nhưng thực tế thì cũng còn nhiều vấn đề cần xem xét. Theo thống kê trong năm 2011, dân số đô thị tăng 21 triệu người, trong đó trừ dân số tăng tự nhiên trong năm thì trong số 21 triệu tăng thêm phần lớn là do dân nông thôn di chuyển ra thành phố. Vấn đề này lại đặt ra thách thức lớn cho các nhà hoạch định đô thị và đối với hệ thống phúc lợi xã hội vốn đã bị “quá tải”. Có thực tế là ở một số địa phương, nông dân thành dân thành thị chỉ là trên danh nghĩa, về mặt hộ khẩu họ đã là dân thành thị nhưng họ chưa được hưởng chế độ phúc lợi như y tế, giáo dục, dưỡng lão, nhà ở,… như người dân thành thị, mặc dù danh nghĩa là dân thành thị nhưng họ vẫn còn thiếu nhiều yếu tố như tố chất con người, điều kiện kinh tế, xã hội… Họ không những không được hưởng sung sướng như người dân thành thị, thậm chí còn gặp khó khăn về mưu sinh. Trước đây họ ăn, mặc… đều dựa vào đất, rừng, hiện nay mất đất, mất rừng trở thành dân thành thị, nhưng không có bất cứ kỹ năng mưu sinh nào khác, thu nhập không đảm bảo. Đương nhiên trở thành dân thành thị họ sẽ được tham gia bảo hiểm xã hội của dân thành thị nhưng hiện nay thể chế bảo hiểm vẫn chưa kiện toàn và vẫn ở trình độ thấp, nên những người mới trở thành dân thành thị vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi. Chi phí sinh hoạt tăng, thu nhập giảm sút, mức độ bảo đảm phúc lợi không cao, họ vẫn chỉ là rìa của thành phố.

   III. DỰ BÁO KINH TẾ TRUNG QUỐC NĂM 2012
* Xu hướng chính sách kinh tế vĩ mô năm 2012
Hội nghị Công tác kinh tế Trung ương Trung Quốc diễn ra từ ngày 12 đến ngày 14 -12 -2011 tại Bắc Kinh đã đưa ra 5 nhiệm vụ chủ yếu cho kinh tế năm 2012, trong đó tiếp tục tăng cường và cải thiện điều tiết vĩ mô, thúc đẩy kinh tế phát triển bình ổn, tương đối nhanh được đưa lên hàng đầu. Có thể thấy triển vọng  kinh tế vĩ mô năm 2012 tăng trưởng vẫn là đạo lý cứng. Theo tinh thần của Hội nghị, cùng với diễn biến của tình hình kinh tế thế giới, quan điểm chính sách sẽ chuyển từduy trì kinh tế phát triển bình ổn, tương đối nhanh”(2010), “ổn định kinh tế, điều chỉnh kết cấu, khống chế lạm phát” (2011) sang “ổn định cầu tiến” (2012) (tạm hiểu là tiến lên trong ổn định)
Ổn”: Chính là cần giữ chính sách kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; duy trì kinh tế phát triển bình ổn, tương đối nhanh; duy trì ổn định giá cả tổng thể; duy trì xã hội ổn định.
Tiến”: Chính là cần tiếp tục nắm bắt và tận dụng thời cơ, cơ hội chiến lược quan trọng phát triển đất nước, trong chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế đạt được tiến triển mới, trong đi sâu cải cách mở cửa đạt được những đột phá mới, trong công tác cải thiện dân sinh đạt được những thành tựu mới.
Xung quanh vấn đề điều chỉnh lại chính sách vĩ mô, tại hội nghị “Báo cáo công tác đầu tư năm 2012” ngày 11-12 -2011 tại Bắc Kinh, ông Ba Thử Tùng, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Tài chính thuộc Trung trâm Nghiên cứu phát triển Chính phủ cho biết vừa qua Trung Quốc tiến hành điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc - Đây là tín hiệu cho thấy năm 2012 Trung Quốc nới lỏng chính sách tài chính tiền tệ, coi trọng tăng trưởng kinh tế hơn là kiềm chế lạm phát. Bởi lẽ chỉ có tăng trưởng thì mới có thể ổn định xã hội. Năm 2012, ba mối quan hệ là tăng trưởng - lạm phát  - cơ cấu sẽ được Chính phủ tính toán giữ cân bằng, nhưng tăng trưởng vẫn được ưu tiên cao hơn kiềm chế lạm phát. Bởi lẽ, do biến động của tình hình thế giới nhất là hai thị trường xuất khẩu chủ yếu là Châu Âu và Mỹ bị giảm sút nghiêm trọng, nên xuất khẩu không còn là động lực thúc đẩy GDP tăng trưởng như trước, năm 2012 hai yếu tố là đầu tư và tiêu dùng sẽ đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng. Dự kiến, đầu tư sẽ đóng góp tới trên 50% vào tăng trưởng GDP năm 2012.
Theo ông Thẩm Đan Dương người phát ngôn của Bộ Thương mại Trung Quốc, năm 2012 tiêu dùng sẽ được chú trọng thúc đẩy từ ba phương diện: Hoàn thiện thể chế lưu thông giữa thành thị và nông thôn; thúc đẩy phát triển phương thức lưu thông hiện đại và cải thiện điều kiện tiêu dùng.
* Dự báo kinh tế Trung Quốc năm 2012
Năm 2012, bất kể là từ tình hình quốc tế hay trong nước cũng sẽ là một năm phức tạp và đầy thách thức. Kinh tế thế giới vẫn còn nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển chủ yếu vẫn chậm chạp, kinh tế EU quý IV- 2011 và quý I-2012 có khả năng liên tiếp tăng trưởng âm, kinh tế Mỹ tuy có khá hơn một chút nhưng vẫn chậm. Đồng thời, thị trường tài chính quốc tế bất ổn, bảo hộ thương mại được tăng cường dưới mọi hình thức. Ở trong nước, việc duy trì kinh tế phát triển bình ổn, tương đối nhanh ngày càng khó hơn, áp lực lạm phát trong trung và dài hạn vẫn tồn tại, một bộ phận doanh nghiệp nhỏ thiếu vốn, sản xuất kinh doanh vẫn rất khó khăn,… Vì thế, tốc độ tăng trưởng GDP đã liên tục suy giảm trong năm 2011, và dự kiến sẽ tiếp tục đi xuống trong năm 2012.
Hầu hết các dự báo về tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu đều suy giảm so với trước đây. Trong “Triển vọng kinh tế thế giới”, IMF dự báo sản xuất toàn cầu tăng 3,25%, giảm 0,75 điểm phần trăm so với số liệu dự báo tháng 9-2011.
Đối với Trung Quốc, theo ông Ba Thử Tùng: “Năm 2012 có thể coi là bước ngoặt nền kinh tế Trung Quốc chuyển từ tăng trưởng cao thời gian dài sang tăng trưởng trung bình thời gian dài. Trong tương lai, hai chỉ số GDP và CPI sẽ thay đổi. Mức tăng trưởng GDP 10% và CPI 2% là đặc trưng của kinh tế Trung Quốc trước đây hay còn gọi là ‘Thời đại 10+2’ sẽ không còn nữa. Thời gian tới, GDP chỉ có thể duy trì ở 8% và CPI sẽ tăng lên 4% hay còn gọi là ‘Thời đại 8+4’ sẽ lên thay thế”.
Điều này phù hợp với đa số các dự báo, như trong “Triển vọng kinh tế Trung Quốc” được công bố ngày 6-2-2012, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã hạ thấp dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2012 xuống còn 8,25%, giảm 0,8% so với dự báo hồi tháng 9-2011. Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm nay là 8,4% từ mức 9,2% của năm trước, cũng thấp hơn mức dự báo 8,7% trước đó.
Dự báo trong sách Xanh của Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (CASS) năm 2012, GDP sẽ là khoảng 8,9%, CPI khoảng 4,6%.   
Còn theo dự báo khác từ Báo Chứng khoán Thượng Hải thì GDP trong năm 2012 sẽ vào khoảng 8,5%, xu hướng sẽ là trước thấp sau cao. Trong đó, đầu tư tăng trưởng khoảng 18,5%, đóng góp trong GDP là khoảng 4,5 điểm phần trăm; tiêu dùng dự kiến tăng trưởng 17%, đóng góp trong GDP khoảng 4,2 điểm phần trăm; còn xuất khẩu ròng vẫn tiếp tục đóng góp trong GDP âm, vào khoảng -0,2  điểm phần trăm. Năm 2012, CPI  là khoảng 3,4%.
Tốc độ tăng trưởng M2 trong năm 2012 dự kiến khoảng 13-13,5%. Cả năm tổng tín dụng sẽ là khoảng 7.800 tỉ NDT, tăng trưởng khoảng 14%.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng suy giảm nhưng theo IMF, Trung Quốc vẫn là điểm sáng trong tăng trưởng kinh tế toàn cầu, xu thế đầu tư và tiêu dùng của Trung Quốc vẫn còn rất mạnh. Dự kiến cuối năm 2012 tốc độ tăng trưởng sẽ bắt đầu tăng trở lại, năm 2013 sẽ tăng lên khoảng 8,75%.
-          Điều chỉnh kết cấu sẽ đi vào giai đoạn then chốt:
Mặc dù mức tăng trưởng thực tế và các dự báo đều ở mức cao hơn 8%, nhưng Trung Quốc đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn quy hoạch 5 năm lần thứ XII (2011 - 2015) chỉ là 7%, thấp hơn mức 7,5% của kế hoạch 5 năm vừa qua, mục tiêu tăng trưởng năm 2012 cũng chỉ là 7,5%, thấp hơn năm trước (CPI khống chế ở mức trên dưới 4%), nhằm hướng vào điều chỉnh kết cấu. Theo ý kiến của các chuyên gia, việc đặt mục tiêu thấp hơn cho giai đoạn 2011- 2015 cho thấy rằng mô hình tăng trưởng đã bắt đầu được chú trọng không kém gì tốc độ tăng trưởng.
Mô hình phát triển của Trung Quốc hiện nay không cân bằng, thiếu sự phối hợp và cũng chưa bền vững; phát triển phần nhiều dựa vào đầu tư và khai thác tài nguyên thiên nhiên mà thiếu yếu tố tiêu thụ mua sắm của người tiêu dùng. Ngành dịch vụ vẫn còn kém, năm 2011 chỉ làm ra 43% GDP và tạo việc làm cho 35% lực lượng lao động của Trung Quốc. Các quốc gia ở giai đoạn phát triển như Trung Quốc hiện nay thường phải có ngành dịch vụ chiếm 60% GDP.
Năm 2012, dự kiến tốc độ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ trở lại bình thường. Theo thống kê, trong 2 năm 2010-2011 số công trình xây dựng nhà an cư là mới triển khai là 15,8 triệu căn, hoàn công chưa đến 8 triệu căn. Năm 2012, số mới triển khai là khoảng 8 triệu căn, mặc dù số công trình mới triển khai có phần giảm nhưng tính cả số nhà cần hoàn thiện từ năm trước cũng đến gần 15 triệu căn, có tác dụng nhất định góp phần ổn định thị trường bất động sản, khi đầu tư cho bất động sản mang tính thương mại giảm.
Các ngành nghề trong quy hoạch chấn hưng giai đoạn 5 năm lần thứ XII sẽ là hướng đầu tư chính của chính sách tài chính. Điều chỉnh kết cấu kinh tế thông qua cải cách chính sách thuế sẽ được thúc đẩy. Thủ tướng Ôn Gia Bảo ngày 29-10-2011 tại Hội nghị thường vụ Quốc vụ viện đã chỉ ra cần hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách thuế, thúc đẩy giảm thuế mang tính kết cấu. Ở tầm vĩ mô có thể thấy, giảm thuế mang tính kết cấu chính là công cụ quan trọng thúc đẩy điều chỉnh kết cấu, chuyển biến phương thức tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 5 năm lần thứ XII. Giảm thuế mang tính kết cấu, miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ các doanh nghiệp kỹ thuật cao mới nổi rồi đến thay đổi cấu trúc thuế… sẽ trở thành điểm ngoặt quan trọng trong chính sách tài chính giai đoạn 5 năm lần thứ XII.
http://vnics.org.vn/Default.aspx?ctl=Article&aID=320