Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

Mừng Xuân Nhâm Thìn 2012






CHÚC MỪNG NĂM MỚI - NHÂM THÌN 2012
Happy New year 2012
"Hạnh phúc - An khang - Thịnh vượng"

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2011

22. Cha mẹ với việc giáo dục giới tính trong gia đình

18-12-2011
ThS. Đào Thị Vân Anh
TT Nghiên cứu Giáo dục Phổ thông
 Trong thời đại thông tin hiện nay, hàng ngày con em của chúng ta gặp không ít những vấn đề liên quan đến giới tính, tình dục mà vì không được nhận thức một cách hệ thống, khoa học nên các em chủ yếu tự suy diễn để giải đáp thắc mắc của chính mình. Do đó, nếu bị môi trường xấu tác động tất sẽ dẫn đến những hậu quả không lường trước được. Những thông tin về các vụ lạm dụng tình dục, những vụ có thai ngoài ý muốn của học sinh tuổi học trò ngày càng nhiều làm chúng ta không thể không lo lắng trước thực trạng thiếu hiểu biết về sức khỏe sinh sản của các em.
Giáo dục giới tính (GDGT) cho trẻ em có thể từ trong gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội vì đặc tính tính dục của một cá nhân chịu ảnh hưởng từ nhiều nguồn khác nhau: từ cha mẹ, anh chị em, bạn bè, báo chí, sách vở, phim ảnh và cả những nguồn tiếp xúc bất ngờ trong xã hội. Trong đó, không thể phủ nhận vai trò của gia đình trong bước đầu của thời kỳ GDGT. Nhất là hiện nay, trong khi vấn đề GDGT ở nhà trường còn đang được tranh luận: nên được giáo dục như thế nào? Là môn học chính hay chỉ là giờ ngoại khóa? Độ tuổi nào, cấp nào nên học và chương trình như thế nào cho thích hợp? thì phải cần thiết phải đẩy mạnh vai trò của gia đình trong việc GDGT. Đặc biệt, vai trò của cha mẹ, vì đơn giản, những nhận biết ban đầu của trẻ chính là qua tiếp xúc với cha mẹ, trẻ không nói ra được nhưng cảm thụ được mọi chuyện, cảm nhận được vị trí của mọi người trong gia đình qua hành vi, cách cư xử. Cha mẹ là những người đầu tiên phát hiện được sự trưởng thành về mặt sinh lý của con mình. Tuy nhiên, do giới hạn về kiến thức GDGT, do bận rộn trong công việc và do thiếu sự quan tâm nên chỉ trong rất ít gia đình, trẻ nhận được thông tin về GDGT một cách đầy đủ và phù hợp với lứa tuổi. Đã đến lúc những người làm cha, làm mẹ thật sự quan tâm đến giáo dục giới tính cho con em mình.
Các nhà nghiên cứu tình dục đều thống nhất là trong sự phát triển tình dục, môi trường gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhất là khi con còn thơ ấu, vào lúc cha mẹ còn chưa có ý thức là mình đang giáo dục con.
Con người ra đời với những thiên hướng bẩm sinh. Những thiên hướng đó ta không thể thay đổi được nhưng có thể phát triển được hoặc có thể kiềm chế chúng. Một sự phát triển lành mạnh hay những trục trặc, bệnh tật của đời sống tình dục cá nhân đều liên hệ mật thiết với những biện pháp giáo dục nhất định và những điều kiện sống nhất định. Cha mẹ cần quan sát xem quãng thời gian nào đứa trẻ của mình hình thành ý thức về giới tính để tiến hành giáo dục.
Tuổi ấu thơ có tác động rất lớn đối với sự nảy sinh những trục trặc, bệnh tật trong sinh hoạt tình dục sau này. Vào thời kỳ mà não còn đang phát triển mạnh, trẻ em rất dễ bị  thương tổn thần kinh và tinh thần. Đây chính là thời kỳ trẻ cần được sống trong tình yêu thương, trìu mến và mọi sự thuận lợi. Nếu trẻ không tiếp nhận được toàn bộ sự phong phú của tình cảm thì sau này nó sẽ không muốn chia tình cảm với bất kỳ ai. Không nên kiềm chế hoặc thủ tiêu giới tính của trẻ em theo kiểu nhào nặn một bé gái thành một bé trai hoặc ngược lại (xảy ra khi cha mẹ mong có một đứa con trai hoặc con gái mà mình đang thiếu). Khi con mình ở tuổi ấu thơ, không nên cho chúng biết nỗi thất vọng của mình khi chúng ra đời. Em bé gái sẽ mang nỗi mặc cảm tội lỗi rất vô lý và sau này sẽ thiếu tự tin trong cuộc sống nếu như biết rằng mình được sinh ra trái với ý nguyện của cha mẹ về một đứa con "nối dõi tông đường". Giới tính của trẻ, con trai hay con gái, điều đó không liên quan tới ý chí của nó, cũng như độc lập hoàn toàn với nguyện vọng của cha mẹ.
Khi phát hiện ra màu sắc tình dục trong các trò chơi của các em, chúng ta không nên vội kết luận đó là mầm mống của sự trác táng và trừng phạt các em. Với những trẻ nhạy cảm, sự trừng phạt sẽ tác động dữ dội tới sự phát triển tâm lý trẻ, phá vỡ quá trình hình thành ý thức tình dục, quan niệm vợ chồng, quan niệm tình bạn v.v... Tốt hơn cả là cha mẹ bình tĩnh và vui vẻ hướng con mình vào những trò chơi khác.
 Có nhiều cha mẹ hay lo lắng khi phát hiện ra những biểu hiện tình dục của con: các em trai cường dương sau khi thức giấc và hiện tượng kinh nguyệt ở bé gái vào tuổi dậy thì là hiện tượng sinh lý tự nhiên, là bước phát triển chuẩn bị cho cuộc sống tình dục sau này. Cha mẹ cần tôn trọng nhịp độ sinh học tự nhiên trong sự phát triển của con cái. Dậy thì không phải là bệnh tật nhưng không phải là thời kỳ mà con người ta được phép làm mọi chuyện. Đây là thời kỳ mà các chàng trai, các cô gái cần phải học cách giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, tập làm chủ mọi hành vi, ngôn ngữ của mình, phải biết tự kiểm tra ngôn ngữ, tâm trạng lẫn bản năng tính dục của mình. Trước khi có dấu hiệu tuổi dậy thì, những đứa trẻ cần biết cái gì sẽ diễn ra trong cơ thể của mình, nó sẽ biểu hiện ra sao trên cơ thể và trong tâm lý.
Trong giai đoạn cuối của tuổi dậy thì, nhu cầu quan hệ tình cảm với người khác giới tính khá mạnh mẽ. Lúc này sự giải thích, dìu dắt của cha mẹ là rất cần thiết. Cha mẹ phải có một sự giám sát và chỉ đạo một cách thông minh, nghiêm túc mà vẫn tôn trọng sự phát triển tự nhiên của tâm sinh lý dậy thì. Việc giáo dục giới tính trong gia đình thường xảy ra cảnh nhiều khi chúng ta giáo dục quá ít, cũng có khi lại rơi vào tình trạng quá nhiều. Sự thiếu quan tâm giáo dục là hiện tượng dễ thấy, dễ hiểu. Hiện tượng khó hiểu lại là sự quá chu đáo thận trọng. Trong thực tế, sự ngăn chặn cấm đoán đã từng tạo ra sự phát triển bất hạnh cho nhiều đứa trẻ.
Giáo dục tình dục thật ra có mục đích duy nhất là chuẩn bị cho con cái một tâm lý phù hợp nhất trong cuộc sống yêu đương để rồi có một đời sống tình dục thực sự hài lòng, thực sự hạnh phúc trong quan hệ vợ chồng sau này. Chính các bậc cha mẹ có nhiệm vụ dạy cho con mình biết yêu. Để biết yêu các em rất cần một chuẩn mực tình yêu, được hình dung, xây dựng dần dần từ tình yêu của cha mẹ với con cái.  Một đứa con thời thơ ấu không biết tới tình mẫu tử thì lúc lớn lên thường có cảm giác bất lực và vô nghĩa trước cuộc sống. Trong thời thơ ấu, nếu sống thiếu tình thương thì cá nhân sẽ không có được những quan hệ tự nhiên ngay cả trong cuộc sống vợ chồng, thậm chí cũng chẳng quyến luyến gì con cái của mình. Tuổi ấu thơ đã không được yêu thương thì khi lớn lên cũng chẳng biết yêu thương người khác.
Cuối giai đoạn dậy thì, các em thường có được những kinh nghiệm luyến ái đầu tiên của mình. Có em có những mối tình đầu, mặc dù sức mạnh lẫn độ bền của những mối tình đầu tuổi 14, 15 không đáng là bao, nhưng những thể nghiệm tình cảm đầu tiên này có ý nghĩa rất lớn cho sự xuất hiện một tình yêu thực thụ trong tương lai.
Một vấn đề quan trọng nữa được đặt ra là cách tiếp cận của cha mẹ với con cái về vấn đề giáo dục giới tính để đạt hiệu quả: trước hết cha mẹ phải tự tin vào công việc GDGT của mình, tùy theo lứa tuổi để lựa chọn nội dung và phương pháp giáo dục thích hợp, nắm bắt được đời sống tâm sinh lý của con qua từng giai đoạn phát triển để chủ động đưa kiến thức về giới tính cho con, vì giáo dục giới tính không đơn thuần chỉ là truyền đạt thông tin, kinh nghiệm sống mà còn là vấn đề bồi dưỡng nhân cách và xây dựng quan niệm sống của con người. Luôn tiếp cận vấn đề một cách chân thực và cởi mở để tạo lòng tin nơi con trẻ, sự im lặng hay giấu diếm thường làm cho câu chuyện tình dục mang màu sắc bí hiểm, giật gân, kích động sự tò mò không cần thiết. Nói dối trẻ, sẽ gây mất lòng tin, và chúng sẽ chẳng bao giờ tin vào cha mẹ nữa.
Tóm lại, làm sao để giáo dục giới tính trong gia đình trở thành một việc làm bình thường, tự nhiên như các nội dung giáo dục khác và thật sự đạt hiệu quả khi trong giáo dục giới tính có sự truyền đạt thông tin hai chiều thường xuyên giữa cha mẹ và con cái.
http://www.ier.edu.vn/content/view/544/174/ 

21.Truyện ngắn về đề tài lịch sử trong văn học Việt Nam từ 1986 đến nay

1. Từ 1975 đến nay, đặc biệt là từ sau 1986, trong không khí đổi mới, văn xuôi viết về đề tài lịch sử trong văn học Việt Nam gặt hái được nhiều thành tựu. Hàng loạt tiểu thuyết gây được tiếng vang trong dư luận như Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Gió lửa (Nam Giao), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác)... Không vang động, gây ồn ào trong dư luận như tiểu thuyết, các truyện ngắn về đề tài lịch sử (trừ chùm truyện của Nguyễn Huy Thiệp) lại tác động đến bạn đọc một cách lặng lẽ nhưng khá lắng sâu. Nếu tiểu thuyết là sự mở ra trên chiều rộng thì truyện ngắn về lịch sử lại là những mũi khoan vào một số tầng vỉa của hiện thực, làm phát lộ những suy tư sâu sắc về con người và xã hội (xã hội của quá khứ nhưng luôn được soi chiếu từ hiện tại). Nếu tiểu thuyết là vấn đề số phận con người thì truyện ngắn là những nhát cắt của số phận, những nhát cắt luôn đem đến những ám ảnh khôn nguôi về những nghịch lý, những trớ trêu của lịch sử, của thân phận. Trong bức tranh chung khá phong phú của truyện ngắn về đề tài lịch sử, chúng ta có thể nhắc đến truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Trần Thùy Mai, Trần Thị Trường, Hồ Anh Thái, Nguyễn Khắc Phục, Phạm Thái Quỳnh, Trần Vũ...

2. Khi đối sánh tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật với tiểu thuyết lịch sử của chính mình, Lan Khai có nhận xét rằng: "Khác với tôi, ông Luật riêng chú trọng về sự thực, trong khi tôi chỉ khuynh hướng về nghệ thuật"(1). Khuynh hướng về nghệ thuật theo cách hiểu của Lan Khai là xem lịch sử chỉ như "cái đinh để treo các bức họa mà thôi". Truyện ngắn về đề tài lịch sử của Việt Nam từ 1986 đến nay nhìn chung cũng có hai xu hướng: xu hướng muốn tái hiện "chân thực" bức tranh lịch sử và xu hướng mượn lịch sử để suy tư về hiện tại, về những "khả năng có thể diễn ra" của lịch sử, bởi vì lịch sử không có "giá như"; (tất nhiên sự phân chia này chỉ là tương đối bởi vì ranh giới của hai xu hướng không phải lúc nào cũng rạch ròi). Xu hướng thứ nhất có thể kể đến các truyện ngắn: Thời của chim Hồng chim Hạc (Phạm Ngọc Quý), Nghĩa động càn khôn (Trần Hạ Tháp), Vụ án rạch Láng Thé (Phạm Văn Thúy), Người làm thuê quán trọ thành Thăng Long (Khúc Hà Linh), Đào viên tình sử (Phạm Thái Quỳnh), Sông vẫn chảy cuối trời (Nam Trung Hiếu)...Xu hướng thứ hai, đậm nét hơn, với những thành công rõ nét hơn, cũng dễ gây ra những tranh cãi hơn, đó là chùm truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp (Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ, Chút thoáng Xuân Hương, Mưa Nhã Nam), chùm truyện của Võ Thị Hảo (trong tập Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm), Nguyễn Khắc Phục (Phủ Tường Vi), Trần Hạ Tháp (Cội nguồn vang bóng), Trần Chiến (Sư đồ), Hồ Anh Thái (Sông cạn), Trần Thùy Mai (Thần nữ đi chân không, Nàng công chúa té giếng), Trần Vũ (Mùa mưa gai sắc, Giáo sĩ, Gia phả)...

Ở xu hướng thứ nhất, cái mà nhà văn thường hướng đến là khai thác những trang hào hùng, những điểm sáng của lịch sử, đề cao những người anh hùng hoặc phê phán những kẻ bán nước, hại dân, bỉ ổi. Đành rằng đã là truyện ngắn thì phải có hư cấu, nhưng cái chính vẫn là lịch sử. Lấy một số tác phẩm làm ví dụ. Lênh đênh buồn sóng của Phạm Thái Quỳnh tái hiện sự kiện Trần Khắc Chung đưa công chúa Huyền Trân vượt biển từ Chiêm Thành về lại Đại Việt. Thế trận linh xà của Trần Hạ Tháp dựng lại không khí những ngày thu phục nhân tài, chuẩn bị dựng cờ khởi nghiệp của người anh hùng Nguyễn Huệ. Trần Quang Diệu của Trần Thị Huyền Trang tô đậm một quãng đời hào hùng của hai vị tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân. Thể Cúc của Trần Thùy Mai nói về cuộc khởi nghĩa bất thành chống lại triều đình Tự Đức của Đoàn Trưng và những người thợ, binh lính xây thành Vạn Niên...

Ở xu hướng thứ hai, mục đích chính của người viết không phải là tái hiện lịch sử mà là lý giải lịch sử, triết lý về lịch sử theo cách nhìn của hiện tại, là sự đào sâu vào những bi kịch của con người trong những cơn biến động xã hội, là sự dự báo, cảnh báo cho xã hội hiện tại từ những suy ngẫm về quá khứ. Ở các truyện này, cách khai thác sự kiện, con người đi theo hướng " lịch sử không là những xác chết và những sự cố biên niên ù lỳ, quá khứ và lịch sử nhìn bởi nhà văn, nhà văn như chủ thể. Đó là thứ quá khứ tái chiếm hữu và tái tạo từ vị thế hiện tại của chủ thể"(2). Không phải ngẫu nhiên mà nhiều cây bút thường đào sâu vào những sự kiện, những con người mà ở đó còn những khuất lấp, những điểm mờ, những cách lý giải khác nhau về ánh sáng và bóng tối, về công và tội: Lý Thần Tông, Nguyên Phi Ỷ Lan, Trần Thủ Độ, Thị Lộ và vụ án Lệ Chi Viên, Nguyễn Ánh và công chúa Ngọc Bình...Cách nhìn của nhà văn có khi khác hẳn với cách nhìn của chính sử. Vì thế một Từ Lộ - Thần Tông (trong chuỗi truyện Nghiệp chướng, Hành Cước, Báo oán, Thiền sư, Đầu thai, Giải thoát) dưới con mắt của Võ Thị Hảo là hai kiếp luân hồi, hai kiếp người bi kịch, bị giằng xé giữa hận thù và tha thứ, giữa dục vọng và giải thoát, giữa khát vọng quyền lực và sự trống rỗng vô vị, kẻ "suốt đời kiếm củi để nuôi những ngọn lửa không phải cho cõi trần này"(3). Thái Hậu Ỷ Lan (Lãnh cung) không còn là "người đàn bà duy nhất mà sử sách phải lưu truyền mãi mãi" mà là một kẻ máu mê quyền lực, dám làm những việc tàn bạo, biết lấp liếm tội ác và đang bị trừng phạt nơi địa ngục. Thị Lộ trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp "không xúng xính bởi học vấn hoặc phẩm hạnh, cũng không cứng nhắc bởi đồ lót mình. Nàng trinh bạch, điềm tĩnh và cương nghị". Trần Thị Trường cũng miêu tả Thị Lộ như điển hình của người phụ nữ đạo đức thời phong kiến: thông minh, cương trực, yêu chồng hết lòng, thủy chung chống lại những cám dỗ của vị vua trẻ ham sắc dục. Ngược lại trong Trở về Lệ Chi Viên của Nguyễn Thúy Ái, Thị Lộ chỉ là "cô gái quê, ít học nhưng đầy tham vọng"(4). Còn Nguyễn Ánh, trong bộ ba truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là kẻ lọc lõi, thực dụng, tàn nhẫn thì trong truyện ngắn Sóng nhồi vào sóng của Trần Thị Trường lại là một con người trầm mặc, uyên thâm về chính trị, ngoại giao, luôn khẳng định lòng yêu nước và ý thức tự tôn của đấng quân vương: "Của ta, của ta, của ta. Một tấc đất của ta, của tổ tiên ta sao ta lại nhường cho chúng bay. Đừng bắt ép ta, cái lúc cùng đường ai mà chẳng nhắm mắt mượn ngựa"(5). Truyện ngắn Nàng công chúa té giếng của Trần Thùy Mai khai thác sự kiện công chúa Ngọc Bình, vợ của Quang Toản, không bị Gia Long giết trong mối hận thù ghê gớm với nhà Tây Sơn mà còn được thu nhận làm thiếp. Sự kiện ấy dưới cái nhìn của nhà văn nữ này không hiện ra như biểu hiện ân đức của nhà vua triều Nguyễn mà chính là một sự trả thù hèn hạ nhất, tàn ác nhất: Ngọc Bình là ngôi mộ sống để hàng đêm nhà vua thỏa mãn "khao khát báo thù sâu thẳm" được quật mồ Tây Sơn(6). Về phương diện "nhận thức lại" lịch sử, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã từng gây tranh cãi ồn ào bởi cách viết, cách khai thác đa chiều về các nhân vật lịch sử như Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du. Có người đã kết án ông là "xuyên tạc lịch sử", "hạ bệ thần tượng". Rõ ràng ở đây mức độ có thể khác nhau, nhưng rõ ràng các nhà văn đã cố gắng đưa ra những giả thiết, những lý giải riêng về lịch sử, phơi bày sự thật, đào sâu vào bi kịch cá nhân, phơi bày thế giới tâm linh bằng cái nhìn đa chiều. Từ đó nhiều nhân vật lịch sử không còn hiện ra qua lớp sương khói mờ ảo của quá khứ, của khoảng cách sử thi mà hiện lên chân thật, với những hạnh phúc, đau khổ, dằn vặt của kiếp người. Họ chưa lùi vào lịch sử trong cách nhìn của nhà văn, mà dường như đang đồng hành cùng chúng ta, đang đối thoại với con người hiện tại từ những bài học của họ trong quá khứ. Đã có thời kỳ, các nhà văn thường nhìn lịch sử như những sự thật đã an bài. Những hư cấu trong tác phẩm chỉ để bổ sung, chứng minh cho những sự thật đó. Sau 1986, cách tiếp cận về lịch sử đã hoàn toàn khác trước. Đúng như Lại Nguyên Ân nhận xét: "Mười năm gần lại đây, có thể thấy trên đề tài lịch sử những tìm tòi mạnh dạn hơn, vượt qua các quy phạm cằn cỗi, đem lại sinh khí cho văn chương về đề tài lịch sử"(7).

3. Trong các truyện ngắn về đề tài lịch sử, cùng với sự phong phú, đa dạng về nội dung, là sự bứt phá, cách tân trong nghệ thuật thể hiện. Các tình huống được thể hiện một cách đa dạng. Có những tình huống bi hài đầy kịch tính, mâu thuẫn được đẩy lên đến đỉnh điểm và kết thúc bất ngờ (Sóng nhồi vào sóng của Trần Thị Trường, Nghĩa động càn khôn của Trần Hạ Tháp); có những tình huống chất bi kịch được tô đậm, từ đó nhà văn thể hiện niềm thương cảm xót xa trước những thân phận bé nhỏ, những nạn nhân thảm thương trong buổi biến loạn của lịch sử (Thể Cúc, Nàng công chúa té giếng, Án lục người đàn bà họ Tống của Trần Thùy Mai, Phong hầu của Đào Công Vĩnh, Phủ Tường Vi của Nguyễn Khắc Phục, Tiếng an dân của Thái Đào...; lại có những tình huống đậm chất tượng trưng, nhà văn không nhằm hướng tới khắc họa một hiện thực mà chủ yếu muốn nêu ra một tư tưởng, một triết lý về cuộc sống, về con người (Cội Cùng với sự di chuyển linh hoạt điểm nhìn là sự đa dạng trong bút pháp, trong giọng điệu, ngôn ngữ trần thuật. Nguyễn Huy Thiệp trần trụi, gai góc; Võ Thị Hảo thâm trầm, sâu sắc, Trần Thùy Mai trữ tình, nhân hậu... Nguyễn Huy Thiệp biết tận dụng tối đa sức mạnh của ngôn từ, tạo ra những ma lực hấp dẫn từ những câu chuyện nửa hư nửa thực, có khi kỳ ảo ma quái, với giọng điệu khi trang trọng cổ kính, khi giễu nhại, bởn cợt, khi lạnh lùng cay nghiệt. Võ Thị Hảo trong loạt truyện cắt ra từ tiểu thuyết Giàn thiêu chọn một sắc giọng chủ đạo là thâm trầm, đầy chất triết lý pha chút giễu nhại để gửi gắm một thông điệp sâu sắc: con người không ai tránh khỏi luân hồi nghiệp chướng và "lẽ vay trả" ấy phải do chính con người "đem thân kiếp ra mà nghiệm thấy". Trần Thùy Mai, cây bút nữ xứ Huế có nhiều truyện hay về đề tài lịch sử, thường đi sâu thể hiện số phận bi kịch của những người phụ nữ tài sắc, bị vùi dập phủ phàng giữa những cơn biến động xã hội. Nhà văn nữ này thường chọn một sắc giọng cảm thương pha chút ngậm ngùi, ẩn sâu bên trong là một sự đồng cảm, thấu hiểu sâu sắc đối với con người nói chung, người phụ nữ nói riêng.

4. Cùng với những thành công, các truyện ngắn về đề tài lịch sử cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Có thể nói, khi viết về lịch sử, các nhà văn cũng gặp những khó khăn không nhỏ. Với những gì đã qua, với quá khứ, không phải ai cũng muốn đào xới, xem xét lại. Đặc biệt với những nhân vật lịch sử đã được tôn vinh, đã được phủ lên một lớp sương khói của huyền thoại thì việc tiếp cận họ với cách nhìn phi sử thi sẽ bị xem là "bắn súng lục vào quá khứ". Rõ ràng ở đây, cần ở nhà văn một cái nhìn tỉnh táo, một bản lĩnh vững vàng. Thực sự, cũng đã có những cách thể hiện nhân vật lịch sử một cách tùy tiện, có phần dung tục. Trong Mùa mưa gai sắc của Trần Vũ, Nguyễn Huệ được miêu tả như một con người hoang dã, ít học, thô bạo và cuồng dâm: "Huệ đi lại và khạc nhổ lên những mảng da beo làm thảm lót chân trong phủ chúa", "dùng đoản đao bổ đôi quả cau quẹt vôi rồi ăn sống", khi ngủ với Ngọc Hân thì "vục xuống gáy Ngọc Hân cắn như xé thịt". Cách nói năng của Nguyễn Huệ không còn gì dáng dấp của đấng quân vương: " Ta dẫn mấy vạn quân ra đây, đánh một trận dẹp yên thiên hạ, lão già họ Lê, dòng họ, ngai vàng lão thuộc về ta như trâu bò, đất đai, người ngợm của Bắc Hà. Việc gì phải đi đón! Đem con nộp thì ta lấy". Ngọc Hân cũng không phải là nàng công chúa xinh đẹp, đoan trang mà là kẻ cơ hội, thủ đoạn "quyết chiếm cho bằng được, trả bất cứ giá nào kể cả bán thân xác" để giành lấy "cái con người đang nắm vận mệnh Bắc Hà"(8). Cũng trong Gia phả của Trần Vũ, Trần Thủ Độ là người hạ đẳng, tàn bạo, cuồng dâm(9). Còn trong Trở về Lệ Chi Viên của Nguyễn Thúy Ái, Thị Lộ là kẻ lắm thủ đoạn, tham vọng và dâm đãng. Nguyễn Trãi vì thế bị cuốn theo bản năng nhục dục mãnh liệt của thị. Những thang thuốc tráng dương "nhất dạ ngũ giao" cũng không giúp ông chiến thắng tuổi già, " thực tế "ngũ dạ nhất giao" ông cũng không làm nổi". Ông đơn độc và buộc phải chấp nhận khi người thiếp thường ở lại đêm trong cung với ông vua trẻ. Rồi việc thằng Hề lẻn vào Lệ Chi Viên đầu độc vua Thái Tông. Rõ ràng lịch sử ở đây đã được suy diễn tùy tiện để phục vụ cho cách nhìn tưởng là mới mẻ nhưng rõ ràng là dễ dãi, tùy tiện của nhà văn.

Không hề bị cạn nguồn trong một đề tài có truyền thống và đã được nhiều thể loại, đặc biệt là tiểu thuyết tập trung khai thác, truyện ngắn vẫn tìm cho mình một lối đi riêng độc đáo. Vượt qua rào cản của thời gian, truyện ngắn lịch sử không chỉ tái hiện quá khứ mà còn nỗ lực lấp đầy những khoảng trống, những điểm mờ còn nhiều tranh cãi, từ đó soi chiếu lịch sử trong cái nhìn đa chiều, mang tính dân chủ. Đằng sau các nhân vật lịch sử, người đọc nhận ra bao nhiêu nỗi đau, bao nhiêu bi kịch của kiếp nhân sinh, cùng những luận giải độc đáo, những xúc động, hối tiếc, những bài học rút ra từ quá khứ của nhà văn. Từ đó, lịch sử như vẫn đang đồng hành, đang nhắc nhở mỗi con người chúng ta.   

ĐINH TRÍ DŨNG - HOÀNG VĨNH THẮNG

Nguồn: Hội Nhà văn

...............
TÀI LIỆU THAM KHẢO


(1) Chuyển dẫn, Tuyển tập tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật, Nxb Văn học, Hà Nội, 1998.

(2) Nam Giao, Về tiểu thuyết lịch sử, http://amvc.fee.fr.

(3) Võ Thị Hảo, Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Nxb Phụ nữ, 2005. (Những truyện này thực ra được tác giả cắt ra từ một số chương của tiểu thuyết Giàn thiêu).

(4) Nguyễn Thúy Ái, Tột đỉnh tình yêu, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2008.

(5) Trần Thị Trường, Tình như chút nắng, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2007.

(6) Trần Thùy Mai, Một mình ở Tôkyô, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2008.

(7) Lại Nguyên Ân, Tiểu thuyết và lịch sử, http:// www.vietnamnet.vn

(8) (9) Trần Vũ, Mùa mưa gai sắc, Gia phả, http://vnthuquan.net

20.Tính dục trong tiểu thuyết của Kundera

rong số các nhà tiểu thuyết nổi tiếng hiện nay có thể nói Kundera đã khai thác thành công đời sống tình dục nhằm biểu đạt những vấn đề lớn như các vấn đề xã hội, chính trị hay văn chương... Qua một vấn đề muôn thủa nhất của loài người ông đã chỉ rõ sự sụp đổ các giá trị, sự suy thoái không thể cứu vãn của con người, sự thao túng của nhà nước toàn trị... Vì vậy, tính dục trong tiểu thuyết của Kundera được đặt trong mối tương quan với cá nhân, xã hội và văn chương.
        Kể từ khi học thuyết Freud xuất hiện, đời sống xã hội nói chung và văn học nói riêng đã có một cái nhìn mới về tính dục. Tuy nhiên, các nhà văn không chỉ là người phản ánh những vấn đề trong đời sống với hai mặt song hành: ý thức và vô thức, lý trí và bản năng, vật chất và tinh thần... mà họ còn mang đến nhiều ý nghĩa sâu sắc hơn khi khai phá phần ẩn kín thẳm sâu nhất trong con người. Văn học hiện đại đặt ra vấn đề tính dục như một nhu cầu tồn tại của nhân loại. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở vấn đề đó thì nhiều tác phẩm văn chương nào có khác gì một loại phim sex. Không như các nhà tiểu thuyết lãng mạn xem tình dục là đỉnh cao của cảm xúc yêu đương và nâng lên thành tính thẩm mỹ; các nhà văn hiện thực viết về tính dục nhằm bóc trần con người thực với bản năng vốn có; song các nhà văn lớn như Kafka, Hemingway, Coetzee... phương thức sáng tác của họ bao giờ cũng dựa trên tính đa nghĩa của văn bản nghệ thuật và trò chơi ngôn ngữ. Điều này tạo nên chủ nghĩa hiện thực chiều sâu. Trong số các nhà tiểu thuyết nổi tiếng hiện nay có thể nói Kundera đã khai thác thành công đời sống tình dục nhằm biểu đạt những vấn đề lớn như các vấn đề xã hội, chính trị hay văn chương... Qua một vấn đề muôn thủa nhất của loài người ông đã chỉ rõ sự sụp đổ các giá trị, sự suy thoái không thể cứu vãn của con người, sự thao túng của nhà nước toàn trị... Vì vậy, tính dục trong tiểu thuyết của Kundera được đặt trong mối tương quan với cá nhân, xã hội và văn chương.
Thứ nhất, tính dục và vấn đề bản thể. Cũng như rất nhiều nhà văn khác, tính dục là một vấn đề nổi bật trong tiểu thuyết của Kundera. Từ Wiliam Faulkner, J.M. Coetzee hay Michel Houellebecq đến Haruki Murakami và Elfriede Jelinek... đều xoay quanh vấn đề này. Bởi chính trong đời sống tình dục bản chất con người được bộc lộ rõ nhất. Tuy mỗi châu lục vấn đề bản năng mang một bộ mặt khác nhau và biểu đạt ý nghĩa khác nhau, song tựu chung lại vẫn là một vấn đề cơ bản của xã hội hiện đại. Không phải các nhà văn muốn ngợi ca cái tự do của con người  trong thời đại ngày nay đã thoát khỏi mọi áp chế ràng buộc của chế độ phong kiến hay những quy định gắt gao của giáo hội; mà ngược lại, khi sợi dây cương tỏa của pháp chế, quy định đã bị đứt thì con người lại chạy từ thái cực này sang thái cực khác. Chính điều tưởng chừng tự do nhất ấy lại bộc lộ sự lệ thuộc thảm thương của con người hiện đại khi họ tìm niềm vui, sự giải thoát ở tình dục. Tình dục càng tự do bao nhiêu thì giá trị của nó càng thấp đi bấy nhiêu. Và, đó chính là điều các nhà văn phát hiện ra mặt trái của thời hiện đại... Con người cheo leo giữa hai cực: một bên là những phát minh vĩ đại của khoa học, tốc độ phát triển chóng mặt của kỹ thuật... còn một bên là sự buông thả theo bản năng để rồi tự con người nhận ra những gì vốn được xem là thiêng liêng cao đẹp nhất lại biến thành điều tầm thường ghê tởm nhất. Vị giáo sư, nhà khoa học trong tác phẩm của Coetzee, Houellebecq hay một thương gia thành đạt trong tiểu thuyết của Murakami hoặc những cô gái trong tiểu thuyết của Jelinek... đi tìm tình yêu; nhưng chính cái gọi là tình yêu ấy lại là căn nguyên hủy diệt cuộc đời họ. Mắc kẹt giữa hai cực nên thân phận con người trở nên bi đát với cõi cô đơn bất tận mà không thể tìm ra một hướng đi trong một thế giới phi trung tâm và bất khả nhận thức. Vấn đề tính dục bộc lộ rõ nhất cơn khủng hoảng của tính hiện đại. Tiểu thuyết của Kundera cũng bóc trần thực trạng này khi các nhân vật của ông càng bội thực với tình dục bao nhiêu thì lại càng chết đói tình người bấy nhiêu. Vấn đề tính dục trong tiểu thuyết của Kundera thể hiện cái nhìn của ông về con người mang ý nghĩa sâu sắc. Thứ nhất, hành trình muôn đời của con người là kiếm tìm hạnh phúc, thế nhưng con người đang sống trong một thế giới bất ổn khi địa vị không phải là một đảm bảo chắc chắn, tiền bạc không là cứu cánh, gia đình là sa mạc hoang tàn... thì điều cuối cùng con người tìm đến niềm hạnh phúc trong tình yêu. Vậy mà tình yêu biến thành tình dục nên khi thỏa mãn khoái cảm cá nhân trong chốc lát thì dư âm còn lại chỉ là một nỗi chán chường vô vị. Các nhân vật Tomas (Đời nhẹ khôn kham) hay Jaromil (Cuộc sống không ở đây) và Jan Mark (Bản nguyên)... mãi mãi không hiểu tình yêu là gì. Họ tìm đến các cô gái như một thú vui, mà còn tệ hơn là có khi họ chẳng có chút niềm vui nào ngoài nỗi khinh bỉ, vậy mà họ vẫn âu yếm, vuốt ve người yêu như một tình nhân tuyệt vời nhất. Vì thế Tezera (Đời nhẹ khôn kham) đớn đau, thất vọng khi cô từng mơ ước, hy vọng vào tình yêu với bao điều đẹp đẽ, với niềm tin và nỗi khao khát mãnh liệt. Tình dục trong đời sống hiện đại đã tách ra khỏi tình yêu; bởi  tính dục chống lại tình yêu; sự lạ thường của người khác như là điều kiện, và chỉ là đòi hỏi thỏa mãn;  Kundera chỉ ra tính nước đôi của tính dục: các khía cạnh kích thích cùng lúc gây kinh tởm của nó; sự vô nghĩa kinh khủng của nó mà chẳng hề làm giảm quyền lực đáng sợ của nó. Thứ hai, con người trong xã hội hiện đại đánh mất bản thể. Cuộc truy tìm cái tôi trở thành không thể vì chính điều cá nhân nhất, riêng tư nhất, bản ngã nhất lại không thuộc về mình. Ngay trong đời sống  tình dục họ không hiểu nổi mình, không nhận ra mình và cuối cùng họ ghê tởm chính mình. Cuộc truy tìm bản thể trở nên bi đát khi biến thành cuộc săn tìm khoái lạc. Nhưng trớ trêu thay, tất cả các nhân vật đều nhận ra một kết quả phũ phàng trong cuộc săn tìm đó: Nhân vật trong tiểu thuyết của Murakami sau những cuộc ân ái điên loạn là sự chấp chới, vô vọng; giáo sư David trong tiểu thuyết của Coetzee nhìn con chó mà liên tưởng đến bản thân; cô gái chơi dương cầm trong tiểu thuyết của Jelinek tùng xẻo da thịt mình để ngồi nhìn từng dòng máu chảy mang theo sự thất vọng vì bất lực khi khoái cảm không đến; còn nhân vật Vincent trong tiểu thuyết của Kundera lại cay đắng nhận ra mình chỉ là một dương vật số nhiều... Các nhà văn đều gửi một thông điệp chung nhức nhối, bộc lộ nỗi hoài nghi về sự tồn tại cá nhân. Về điều này Kundera nhận xét: “Sự phát triển của khoa học đẩy con người vào con đường hầm của các bộ môn riêng biệt. Càng đi tới trong sự hiểu biết của mình, con người càng mất đi cái nhìn về chính mình, và như vậy bị rơi vào cái mà Heidegger, môn đệ của Husserl, gọi một cách thật đẹp và gần như thần diệu là sự quên mất con người”(1).
Nhìn nhận của Kundera phản ánh thực trạng thân phận con người trong thế kỷ XX. Đó là khi khoa học chiếm vị trí thống lĩnh và việc vận dụng tối đa các phương pháp khoa học sẽ tạo ra một sự tôn trọng đối với kinh nghiệm. Và nghệ thuật đặc thù sẽ bị quên lãng. Lí trí không những chỉ huy hoạt động khoa học và kỹ thuật mà còn cai quản cả con người cũng như cai quản cả sự vật. Sản phẩm và công trình của xã hội hiện đại được tạo ra bởi sự chiến thắng lý trí, khoa học kỹ thuật có thể đem lại nhu cầu ham muốn cá nhân. Song, con người mất đi cái nhìn về chính mình và cái chết đầu tiên là chủ thể. Lực lượng kỹ thuật tạo ra sản phẩm cho xã hội và điều khiển con người chối bỏ bàn tay Thượng Đế. Việc bác bỏ mọi thần khải và mọi nguyên lý thánh thần tạo ra một sự trống không chỉ được chứa bằng ý tưởng xã hội... Nhưng chưa đủ, sự biến động của lịch sử đã đẩy con người vào bước đường cùng. Theo Kundera, lịch sử mang bộ mặt ác quỷ và nắm bắt được những nghịch lý cuối kết của Thời Hiện Đại. Dự báo về khả năng biến mất của nhân loại mà Hegel và Husserl đề cập tới đã khởi đầu bằng cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất và từ năm 1945 loài người sống dưới vầng mặt trời đen của Hirosima. Sợi dây gắn con người cá nhân với cái phổ quát: Thượng Đế, lý trí, lịch sử. Thế nhưng, Thượng đế đã chết, lý trí đã trở thành công cụ và lịch sử bị chi phối bởi các nhà nước độc đoán cùng với thảm họa hủy diệt. Con người bị chối bỏ, bị quên lãng. Con người đành quay về với cái thú cá nhân song càng đi tìm bản thể họ lại càng lạc hướng, càng kiếm tìm khoái lạc họ lại càng thất vọng.
Thứ hai, tính dục và những vấn đề xã hội. Bàn về tính dục trong tác phẩm của Kundera, Svetlana Zherlaimova nhận xét: Trong tiểu thuyết của Kundera có nhiều yếu tố nhục dục. Một số nhà điểm sách có xu hướng cho đó là sự chiều theo thị hướng của độc giả đại chúng. Còn bản thân tác giả thì nhất quyết cho rằng nhục dục là một thành phần tất yếu của sự suy xét triết học đối với thế giới. K. Hvatik, chuyên gia về Kundera, đồng ý với cách đặt vấn đề như vậy khi viết về cuốn Đời nhẹ khôn kham: “Đề tài tình yêu trong tiểu thuyết của Kundera trở thành tấm gương phê phán thời đại cuối thế kỷ, thời đại của sự hoài nghi và sự lừa dối tập thể, của sự thao túng con người và tư tưởng”(2).
Từ nhận định trên ta thấy vấn đề mà Kundera đặt ra không chỉ dừng lại ở việc phản ánh thực trạng Thời Hiện Đại mà còn mang ý nghĩa triết học. Thực ra khi chúng tôi bàn đến mối quan hệ giữa tính dục và bản thể cũng như qua đó thể hiện cái nhìn của ông về con người đã bao hàm ý nghĩa triết học. Tuy nhiên, để làm vấn đề rõ hơn chúng tôi xem xét ở hai khía cạnh: con người với tư cách cá nhân và con người trong mối liên hệ với lịch sử, xã hội... Vậy, khi xem xét những vấn đề mang ý nghĩa xã hội thì tính dục trở thành một biểu tượng ẩn dụ để phản ánh thời đại. Trong tiểu thuyết của Kundera xuất hiện nhiều cảnh làm tình tập thể và con người bị lột truồng một cách tàn nhẫn hoặc việc ái ân riêng tư phải được phơi ra trước camera hay trước ánh mắt soi mói của rất nhiều người... Ở mỗi nội dung là một khía cạnh được đặt ra phê phán áp lực của  nhà nước toàn trị. Tính chất tập thể được đề cao đến mức ngay cả những gì kín đáo nhất vốn thuộc về cá nhân cũng trở thành vấn đề chung. Ở hoàn cảnh xã hội nào cái tôi cá nhân cũng bị đè bẹp thê thảm. Nếu đó là một xã hội chuyên chế thì việc chăn gối cũng được kiểm tra kỹ càng, nhân vật Jaromil bị mẹ “chăm sóc” cẩn thận đến mức từng hành động, mọi suy nghĩ, phút giây cảm xúc riêng tư đều được kiểm soát gắt gao; còn Tezera và nhiều nhân vật khác trong tiểu thuyết của Kundera khi làm tình lúc nào cũng được “chụp mũ”, cái mũ không phải là một công cụ trong trò chơi tình ái mà trở thành nỗi ám ảnh về sự quy kết hay giám sát. Còn nếu đó là một xã hội tự do thì thay vì những con mắt của các tổ chức xã hội rình rập hay của Chúa phán xét thì lại là những ống kính camera. Con người bị phơi ra trước ống kính tội nghiệp, đáng thương vô vọng như bị người tình lột truồng ra giữa nơi công cộng hay đang phút ái ân chợt nhận ra có ngàn vạn đôi mắt đang mục kích mình. Song song với cảnh phải làm tình giữa đám đông, trong tiểu thuyết của Kundera, là hình ảnh những người phụ nữ luôn phải lấy tay ôm lấy thân hình mình đang bị phanh phui, bêu diếu... họ không còn nơi bấu víu, nương náu bởi tình thế ấy là tình thế yếu đuối nhất, khốn khổ nhất, bi đát nhất của một con người... Từ vấn đề tình dục, Kundera không chỉ phản ánh hiện thực mà còn bộc lộ cái nhìn hoài nghi hiện thực. Đó là sự phản tỉnh của nhà văn về một thế giới hỗn loạn và phi lý. Mất hết đức tin vào đấng tối cao và sự tan rã của các nguyên lý thần thánh, con người tìm vào tình yêu, song giữa cõi tình ấy họ lại hoang mang cực độ. Tình dục không còn là sự hòa hợp giữa tâm hồn và thể xác nữa mà trờ thành công việc của một chiếc máy có tên bản năng, các cặp tình nhân trong giây phút “ yêu nhau” dường như đang rơi vào tận cùng của nỗi cô đơn vì mỗi người hiện hữu một thế giới riêng biệt, có khi đối lập nhau. Ví như khi Tomas làm tình với Tezera thì anh chỉ nghĩ đến mùi của cơ thể khác, những thân xác các phụ nữ mà anh đã ngủ chung còn cô thì cứ tưởng tượng ra bao điều lãng mạn khác. Cũng như Agnés khi nằm bên chồng chỉ day dứt với bao nỗi riêng tư còn chồng cô thì chỉ toan tính đến công việc... Mượn vấn đề tính dục, Kudera đã khái quát nên một vấn đề tư tưởng: điều tưởng là tự do thì thực chất lại không hề có tự do, cái tưởng là thiêng liêng nhất té ra lại tầm thường và bẩn thỉu nhất, niềm hạnh phúc hòa hợp nhất giữa con người với con người thực chất là nỗi cô đơn thẳm sâu và cay đắng nhất, giây phút gọi là người nhất thì cũng là lúc đánh mất người nhất. Đó  là nhân sinh quan hiện đại: nhân sinh quan hư vô. Điều này ảnh hưởng từ triết thuyết của Heidegger khi bàn về sự tồn hữu của con người. Hay nói một cách khác, Kundera đã trở thành một triết gia qua tiểu thuyết cũng như mong muốn của ông suy xét triết học đối với thế giới bằng tác phẩm văn chương.
Tính dục trong tiểu thuyết của Kundera không chỉ bộc lộ cái nhìn của ông về con người, về xã hội mà còn thể hiện quan niệm của ông về văn chương. Bởi lẽ  Kundera là người luôn khẳng định vai trò, giá trị của tiểu thuyết. Mặc dù ông có nhiều bài bàn luận đến tiểu thuyết nhưng ông không đồng tình với ý kiến cho ông là một nhà lý luận. Với Kundera, những vấn đề lý luận không có sức mạnh bằng chính tác phẩm tiểu thuyết. Chính vì thế, ông luôn đan cài lý luận qua các biểu tượng ẩn dụ dựa trên tính đa nghĩa của văn bản nghệ thuật. Vả lại, chúng ta cũng thấy rằng: sức nặng của những tác phẩm lớn chính là ở phần chìm của tảng băng trôi. Không có phần chìm ấy làm sao có được một Murakami, một Coetzee hay một Jelinek... Riêng Kundera lại sử dụng phần chìm ấy để tạo thêm một vấn đề nữa: quan niệm văn chương.
Sử dụng vấn đề tính dục trong tiểu thuyết, Kundera còn đặt ra tinh thần của tiểu thuyết hiện đại. Đối với ông, điều cốt lõi để tạo nên một tiểu thuyết chân chính là tiểu thuyết phải thể hiện đúng tinh thần của nó. Một trong những yếu tố tạo nên tinh thần tiểu thuyết đó là Hài hước. Cũng như quan niệm của Bakhtin, Kundera khẳng định: “Tiểu thuyết sinh ra không phải từ tinh thần lý thuyết mà từ tinh thần hài hước”(3) “đó là một phát minh gắn liền với sự ra đời của tiểu thuyết”(4). Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở việc nêu mục đích của những tiểu thuyết ở thời kỳ đầu, Kundera còn chỉ ra sự vận động của tinh thần hài hước trong tiểu thuyết.
Nhưng trước hết, chúng ta cần phần biệt giữa tiếng cười và tính hài hước. Nếu như tiếng cười xuất hiện trong tác phẩm được thể hiện qua những tình huống, hành động để tạo cho người đọc vui vẻ, thoải mái hoặc mang ý nghĩa phê phán đả kích thì, với Kundera: “cái hài thì ác hơn: nó tàn nhẫn phát lộ cho ta cái vô nghĩa của mọi thứ”(5). Vậy hài hước thể hiện trong tiểu thuyết không phải chỉ là những vấn đề vui nhộn, gây cười mà đó còn là sự tra vấn, khiêu khích để đưa tới nhận thức. Từ quan niệm đó, Kundera đã phân tích tính hài hước thể hiện trong tiểu thuyết cùng với sự phát triển của nó: Đối với Rabelais, cái vui với cái hài còn là một. Đến thế kỷ XVIII, cái hài hước của Sterne và của Diderot là một kỷ niệm êm đềm và buồn nhớ về niềm vui kiểu Rabelais. Sang thế kỷ XIX, Gogol là một nhà hài hước buồn. Ông bảo: “Nếu ta nhìn chăm chú và thật lâu một câu chuyện buồn cười, nó càng lúc càng trở nên buồn hơn”. Châu Âu đã nhìn câu chuyện buồn cười của sự tồn tại của chính mình trong một thời gian dài cho đến nỗi, sang thế kỷ XX, thiên sử vui của Rabelais đã chuyển thành vở hài kịch tuyệt vọng của Ionesco, là người đã nói rằng: “Từ cái ghê rợn đến cái hài có bao nhiêu đâu(6).
Một quan niệm mới mẻ và xác đáng của Kundera khi bàn về cái hài như sau: “Những thiên tài chân chính của cái hài không phải là những người làm cho ta cười nhiều hơn cả, mà là những người làm phát lộ một miền chưa được biết đến của cái hài”. Vậy, miền đất tồn tại của cái hài trong xã hội hiện đại là gì? Kundera khẳng định: “Cái hài chỉ có thể tồn tại ở nơi người ta vạch ra được ranh giới giữa cái quan trọng và không quan trọng. Nhưng ranh giới này hiện nay trở nên không tách bạch được”(7). Đặt trong mối quan hệ với bản thể và tinh thần nước đôi của tiểu thuyết, theo Kundera, tính hài hước diễn tả được sự phức tạp nhập nhằng của thực tại. Cái hài trong Thời Hiện Đại không phải là tiếng cười cũng không phải là sự chế giễu, châm biếm mà đưa chúng vào bên trong, vào tận gan ruột của chuyện đùa, vào đến chỗ ghê tởm của cái hài. Đọc tiểu thuyết của Kundera chúng ta không bắt gặp những tình huống gây cười hay ngôn ngữ tục tĩu cũng như cách viết phóng túng phù hợp với tinh thần hài hước như trong tác phẩm của Rabelais hay Grass mà nhà tiểu thuyết đã phát lộ một miền chưa được khai phá của cái hài. Đó là cái hài gắn với dục tính. Vì vậy, tác giả miêu tả hành vi dục tính như một phương tiện bộc lộ một ý nghĩa vượt qua câu chuyện, hướng tới một sự thật mang tính con người sâu sắc. Tính hài hước vượt qua những vấn đề được đặt ra có tác dụng đạt đến một giá trị nào đó vượt lên trên nó và cả một ý nghĩa ở bên ngoài tiểu thuyết. Từ những vấn đề đã trình bày chúng ta có thể khái quát tính hài hước trong tiểu thuyết của Kundera như sau:
Miêu tả quan hệ tình dục = tinh thần hài hước = cái nhập nhằng của dục tính trong xã hội đương thời.
Tất cả các nhân vật Paul, Vincent, Santal, Tomas trong tác phẩm của Kundera sống trong đời sống tình dục mà không thể hiểu nổi mình, họ đã bị đẩy vĩnh viễn ra khỏi giới hạn tình yêu. Đó là tính chất nhập nhằng khó phân định giữa ý thức và vô thức, giữa tình yêu và bản năng... Những sự việc đó bản thân nó không gây cười, nó trở thành thảm kịch. Tính nước đôi của hành động và cảm xúc phủ định tất cả đức tin, lòng trung thành và những tình cảm cao đẹp. Điều tưởng chừng thiêng liêng, tốt đẹp, gần gũi nhất giữa con người với con người bỗng biến thành trò hề, vô nghĩa và ghê tởm. Trộn lẫn những vấn đề trái ngược, chỉ ra một ranh giới không thể xác định của các vấn đề; tiểu thuyết của Kundera đi vào khai thác cốt lõi của bản ngã. Bởi vì tính dục là mảnh đất hoang dã, nơi con người không còn hóa trang, nơi con người thể hiện rõ nhất bản chất của mình. Cái hài nằm ở ranh giới giữa cái quan trọng và không quan trọng cũng như hiện nay không thể xác định được ranh giới ấy, vậy tình dục thể hiện rõ nhất cái hài của tiểu thuyết. Bởi vì, khi đặt ra câu hỏi: tình dục có quan trọng không? Câu trả lời: rất quan trọng! Nhưng tình dục có tầm thường không? Câu trả lời: Quá tầm thường. Cả hai mặt trái ngược đó cứ song hành một cách hiển nhiên. Nếu không quan trọng sao nó trở thành vấn đề được quan tâm nhất, lo lắng nhiều nhất? Nếu nó quan trọng thì tại sao họ ăn nằm bừa bãi với bất kỳ ai và bất cứ nơi nào? Tận cùng của cái hài tạo ra nỗi bi thảm về thân phận con người trong Thời Hiện Đại, con người chỉ biết dựa vào tình dục để biết mình còn hiện hữu; nhưng chính lúc ấy họ thấy mình đang chết dần, chết mòn, cái chết của giá trị làm người.
Như vậy, Kundera đã thông qua tác phẩm của mình để thể hiện tinh thần của tiểu thuyết và tinh thần thời đại. Điều sâu sắc hơn cả là từ những vấn đề xưa như trái đất đó ông đã nói được những vấn đề nóng bỏng nhất, mới mẻ nhất của thời đại. Freud đã rất đúng khi cho rằng tính dục là thước đo văn minh nhân loại và nhân cách con người. Qua tiểu thuyết của các nhà văn lớn và tiểu thuyết của Kundera chúng ta chắc chắn sẽ có sự phản tỉnh về văn minh và nhân cách con người trong  xã hội hiện nay.
Sử dụng yếu tố nhục dục trong tác phẩm, Kundera minh định cái hiền minh của sự lưỡng lự, tính phức tạp của cõi người trong một tình thế hiện sinh phổ quát nhất. Nhà văn như đặt ra câu hỏi: Điều còn lại trong quá trình tha hóa của con người là gì? Phải chăng là tình dục?!
__________
(1), (3), (4), (5), (6)  Kundera. M: Tiểu luận. Nxb. Văn hóa Thông tin, H, 2001, tr.10; 167; 178; 136; 124.
(2) Vietnamnet.vn.văn hóa/chuyên đề 2005/11/5/514440, tr.6.
(7)  Kundera. M: Đời nhẹ khôn kham. Nxb. Văn học, H, 2002, tr.451.
http://vienvanhoc.org.vn/news/nghiencuulyluan/762/tinh-duc-trong-tieu-thuyet-cua-kundera.aspx

19.Hiện tượng nhân vật nữ tu tập Phật giáo trong truyện cổ dân gian Việt Nam và một số nước khác ở Đông Nam Á lục địa

Quan sát nhóm truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và một số nước khác ở Đông Nam Á lục địa, chúng tôi nhận thấy hình tượng nhân vật nữ tu tập theo đạo Phật là một trong những hiện tượng đáng quan tâm. Thông qua nghiên cứu so sánh nhóm nhân vật này trong truyện cổ dân gian Việt Nam và một số nước như Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma, chúng ta có thể thu được những kết quả khoa học thiết thực trên các bình diện văn học, văn hoá và tôn giáo.
        Hiện tại, Phật giáo đã trở thành một thành tố tâm hồn của người Việt Nam, văn học Phật giáo không tồn tại độc lập, không hình thành một dòng riêng mà hoà vào nguồn chung của văn hoá, văn nghệ dân tộc. Từ những thập kỷ 60-70 của thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu văn hoá-văn học dân gian như Nguyễn Đổng Chi, Cao Huy Đỉnh, Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên… đã đề cập khá nhiều về vấn đề ảnh hưởng của Phật giáo trong truyện cổ dân gian nước nhà thông qua các công trình: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (1957-1982), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện “Tấm Cám” (1963), Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ (1964), Văn học dân gian Việt Nam (1972-1973), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1974),… Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, trên cơ sở kế thừa những thành quả quý báu của những nhà nghiên cứu đi trước kết hợp với những lý thuyết khoa học tiên tiến, lực lượng nghiên cứu ngữ văn, văn hoá và tôn giáo khá hùng hậu đã đi tiếp những bước khơi sâu hơn, đề xuất những đường hướng mới mẻ hơn trong việc tiếp cận đối tượng qua nhiều sách và bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành: Phật giáo với văn học Việt Nam (1992) của Nguyễn Duy Hinh; Cảm quan Phật giáo trong truyện cổ tích Việt Nam (1994) của Nguyễn Hữu Sơn - Lại Phi Hùng; Thử phân tích vài biểu hiện của đặc điểm nhân ái trong truyện cổ tích Việt Nam (1996) của Nguyễn Hải Triều; Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif (2001) của Nguyễn Tấn Đắc; Phật Việt Nam dân tộc Việt Nam (2003) của Giác Dũng; Đặc điểm nhân vật truyện cổ và việc “hiện đại hoá truyện cổ dân gian” (2004) của Lê Tiến Dũng; Truyện cổ dân gian Việt Nam về Phật giáo nhìn từ góc độ loại hình (2005) của Đỗ Văn Đăng… Nhìn chung, các chuyên gia đầu ngành văn học dân gian Việt Nam chủ yếu nhìn nhận trên đại thể bản chất tư tưởng Phật giáo trong truyện cổ dân gian Việt Nam cũng như quá trình nhân dân ta khẳng định bản sắc dân tộc qua sự tiếp biến, bản địa hoá tôn giáo ngoại lai. Đặc biệt, khi nói đến truyện cổ dân gian Việt Nam mang màu sắc Phật giáo, các nhà nghiên cứu thường đề cập nhiều nhất về vấn đề nhân vật. Trong đó, đáng lưu ý là hình tượng nhân vật Bụt. Các tác giả thống nhất nhận định Bụt thuộc loại nhân vật trợ thủ, đóng vai trò phân biệt đúng - sai, phải - trái, tốt - xấu, hay giúp đỡ người lành, là sự hoá thân, sự hiện thực hoá cái thiêng liêng của sự sống, cái đẹp và cái thiện. Quan sát nhóm truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và một số nước khác ở Đông Nam Á lục địa(1), chúng tôi nhận thấy hình tượng nhân vật nữ tu tập theo đạo Phật là một trong những hiện tượng đáng quan tâm. Thông qua nghiên cứu so sánh nhóm nhân vật này trong truyện cổ dân gian Việt Nam và một số nước như Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma, chúng ta có thể thu được những kết quả khoa học thiết thực trên các bình diện văn học, văn hoá và tôn giáo.
1. Hiện tượng những nhân vật nữ thực hành giáo lý nhà Phật được kể như những tấm gương mộ đạo đáng ngợi ca trong truyện cổ dân gian một số nước ở Đông Nam Á lục địa theo Phật giáo Tiểu thừa (Phật giáo dòng Theravada)
Xét ở khía cạnh hướng Phật, sùng đạo và tu tập tại gia theo tôn chỉ của đức Phật, chúng ta thấy các nhân vật nữ trong truyện cổ dân gian ở các nước Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma góp mặt khá đông đảo với những ấn tượng khó quên. Một người phụ nữ nghèo hèn, dốt nát đi viếng chùa nhưng không biết lấy một câu niệm Phật, bèn hỏi một cô gái quỳ bên cạnh. Cô gái xấu nết xui chị ta cứ việc nói “đi đến, đi đến” là được. Người đàn bà đốn củi nghe thế tưởng thật luôn miệng niệm “đi đến, đi đến”. Thần rắn trấn giữ cửa chùa cảm động sự thành tâm ấy bèn tặng cho chị ta nhiều châu báu quý (truyện Lợi ích của việc lần tràng hạt - Myanma). Một người mẹ già yếu bị con trai nghe lời vợ trói vào một gốc cây giữa rừng. Lũ cọp đến định ăn thịt bà cụ. Thần cây me can chúng và ngoái mũi thử xem bà cụ là người thế nào. Bị thần cây ngoái mũi, bà cụ hắt hơi và liên tục kêu “Bồ tát, Bồ tát”. Thấy vậy, thần cây sai lũ cọp cởi trói và tặng bà cụ một hũ vàng (truyện Thần cây ngoái mũi - Myanma). Nàng Visakha là một tín nữ Phật giáo thuần thành. Nàng đã giúp người bố chồng tham lam, bần tiện, tàn nhẫn thấm nhuần giáo lý của đức Phật và xin thọ giáo bậc Thế Tôn (truyện Nàng Visakha – Campuchia). Nàng Phi kool Thong (Công chúa Sen vàng) là một phần thưởng mà Trời Phật dành cho đức vua và hoàng hậu nhân từ, tích nhiều công đức. Từ nhỏ, công chúa không hề cắn móng tay hay co chân đạp lên đầu. Đặc biệt, nàng luôn chắp tay trước ngực. Phi kool Thong lớn lên xinh đẹp tuyệt trần, mỗi lời nói, mỗi bước đi của nàng đều tỏa ra những bông sen vàng bay khắp nơi xung quanh. Nhờ tấm lòng thuần hậu, coi trọng Phật pháp mà nàng được nữ thần biển cả giúp đỡ, vượt qua hoạn nạn, sống hạnh phúc bên một vì vua trẻ (truyện Công chúa Sen vàng – Thái Lan). Tiểu thư Thuđamma Sari ở Mađari (Myanma), con quan tể tướng, là người uyên bác, tinh thông luật lệ, thuộc làu kinh điển. Nàng nhớ rất rõ và hiểu biết tất cả ý nghĩa tinh thần của mười điều luật dành riêng cho hoàng tử, nhớ rõ năm điều luật Jilax trong kinh Phật. Tất cả những sách vở triết học và luân lý cũng không hề xa lạ với nàng. Tiếng tăm lừng lẫy của nàng ai cũng biết và mọi người dù có địa vị quan trọng đến đâu, dù ở bất cứ đâu trên thế gian này cũng đến nhờ nàng phân xử hộ những vụ khó khăn, phức tạp. Chỉ bằng một câu chuyện, tiểu thư Thuđamma Sari đã tìm ra thủ phạm lấy cắp túi vàng trong khi trước đó các quan toà cùng triều thần trong nước đều bó tay, bí lối (truyện Bốn chàng Bà la môn hay Bốn thầy tu và túi vàng)… Như vậy, mặc dù chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hoá Ấn nhưng cách đánh giá và nhìn nhận vị trí và vai trò người phụ nữ của nhân dân các nước Đông Nam Á lục địa nói trên có nhiều khác biệt so với xứ sở Phật Đà. Như chúng ta biết, tại điều 148, bộ luật Manu của Ấn Độ ghi rõ: phụ nữ khi còn bé phải theo cha, còn trẻ phải theo chồng, chồng chết phải theo con(2). Mặc dù trong luật Pàli, luật Tứ phần và luật Ngũ phần, Đức Phật từng khẳng định tỳ kheo ni có khả năng chứng quả A La Hán và trong kinh Thiện Sanh, bậc Thế Tôn cũng từng dạy rằng chồng phải thương yêu, kính trọng, chu cấp cho vợ nhằm mục đích khẳng định cái nhìn công bằng của Phật giáo đối với người phụ nữ. Tuy nhiên, qua hơn năm trăm câu chuyện kể về các kiếp sinh của đức Phật (tức Bổn sinh kinhJataka), chúng ta thấy, có rất nhiều truyện xuất hiện những nữ nhân với bản chất xấu xa, đầy rắc rối và hệ luỵ, nếu không phải là những kẻ phản trắc, gian tham thì xét từ giác độ tự nhiên của giống loài, họ cũng thuộc về những đối tượng nam giới nên tránh càng xa càng tốt mới có thể tinh tấn trên con đường giác ngộ Phật pháp. Thêm nữa, qua những dẫn chứng nêu ở trên, cùng với những nhân vật nữ khác như hình ảnh cô gái ngoan hiền, nết na trong các truyện Cô gái hiếu thảo của Miến Điện, Nàng Tèng On của Lào hay hình ảnh người mẹ đau khổ trong truyện Con cá vàng của Thái Lan, rồi người vợ tuyệt vời trong truyện Người vợ đức hạnh của Campuchia, đến hình ảnh những bậc mẫu nghi thiên hạ đúng mực như hoàng hậu Maha Maya trong truyện cùng tên, hoàng hậu vợ đức vua Sanuray trong truyện Công chúa sen vàng của Thái Lan… có thể thấy một cái nhìn đầy trân trọng đối với người phụ nữ. Có thể nói, mặc dù chịu ảnh hưởng đặc biệt sâu đậm của tư tưởng Phật giáo chính thống từ hệ thống thiết chế nhà nước đến các giềng mối gia đình và quan hệ xã hội nhưng nhân dân các dân tộc Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma vẫn dành cho nữ giới một tình cảm yêu thương, kính trọng, một vị trí khá quan trọng trong đời sống xã hội. Trong cuộc gặp gỡ giữa đạo lý dân gian với tinh thần tôn giáo, những nét đẹp truyền thống của dân tộc bao giờ cũng được bảo lưu. Trước những giới hạn chật chội, khắt khe của những thuyết lý chính trị và tôn giáo, nhân dân bao giờ cũng cố gắng nới lỏng những trói buộc, khai mở một cái nhìn phóng khoáng, thuận tình, hợp lý trên cơ sở đạo lý và nhân nghĩa ở đời. Với mô hình chính trị - xã hội - văn hoá - tôn giáo mô phỏng gần như toàn bộ từ Ấn Độ, việc dành cho người phụ nữ một sự nhìn nhận tương đối khách quan ở các quốc gia Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma là điều rất đáng quan tâm.
2. Hiện tượng những nhân vật nữ tu hành đắc đạo trong truyện cổ dân gian Việt Nam là một nét hết sức độc đáo so với truyện cổ dân gian của các nước khác ở Đông Nam Á lục địa
Nếu xét ở góc độ tu tập chính thống, xuất gia đầu Phật, quy y tam bảo, trai giới thanh tịnh ở cửa chùa thì các nhân vật sư nữ gần như hoàn toàn vắng bóng trong truyện cổ dân gian các dân tộc Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma. Trong khi đó, người dân Việt Nam thường truyền tụng những câu chuyện về những sư nữ tu thành chánh quả như Thị Kính, Man Nương, Công chúa Ba… Có thể nói, nhân vật nữ tu theo đạo Phật và đạt đến quả hạnh cao nhất là một hiện tượng độc đáo trong truyện cổ dân gian Việt Nam. So với truyện cổ dân gian của Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma, điểm khác biệt lớn ấy không chỉ thể hiện trên bề mặt cơ cấu về giới mà còn thể hiện ở chiều sâu đặc tính của nhân vật. Những công chúa Sen vàng hay nàng Visakha, tiểu thư Thuđamma Sari chỉ được miêu tả như những người mến mộ Phật pháp, giữ gìn giới luật, thường xuyên đi chùa cúng dường, lễ bái, sống đức hạnh, được mọi người yêu mến chứ chưa phải là người dấn thân vào đường tu, trở thành sư nữ như Thị Kính (truyện Quan Âm Thị Kính), Man Nương (truyện Man Nương), ni cô Lắm (truyện Sự tích đèo Phật Tử) hay công chúa Ba (truyện Quan Âm tái thế). Hơn nữa, những nhân vật nữ xuất gia tu hành trong truyện cổ dân gian Việt Nam không chỉ xuất hiện với thân phận những sư nữ bình thường mà phần lớn đều trở thành Phật Mẫu, Bồ tát Quan Âm, những nhân vật được tôn kính nhất trong Phật điện dân gian. Thị Kính mắc hai nỗi oan đau đớn và nghiệt ngã nhưng vẫn âm thầm chịu đựng, dốc lòng từ bi làm điều phước hạnh cảm động đến đức Phật, sau khi chết được Phật tổ phong làm Phật Bà Quan Âm. Phật Mẫu Man Nương vốn là một cô gái mồ côi cha mẹ, lại ngọng nghịu từ nhỏ nhưng có tâm hướng Phật, tu học ở chùa, vì âm dương cảm động mà thụ thai với sư Đồ Lê, bị miệng thế chê cười vẫn nhẫn nhục chịu đựng, hạ sinh đứa bé chính là hiện thân tứ pháp Phật của dân tộc Việt: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Ni sư Lắm vượt đường sá xa xôi đi tìm đất Phật, trải qua khổ ải vẫn giữ được chánh niệm nên đắc đạo trở thành Phật bà Quan Âm. Công chúa Ba từ bỏ cung vàng điện ngọc, lên chùa tu đạo, khi biết tin vua cha bị bệnh phong khó lòng qua khỏi, đã tự móc mắt và cắt chân tay mình chữa bệnh cho cha rồi hoá về Niết Bàn… Như vậy, tất cả những nhân vật nữ kể trên đều bước lên đài sen cao quý, trở thành vị Phật được kính ngưỡng và yêu mến nhất trong tâm hồn mỗi người dân Việt. Vượt ra ngoài tính chất linh thiêng của Phật giáo, Phật bà Quan Âm trở thành chỗ dựa tinh thần hết sức gần gũi đối với nhân dân. Hình ảnh Phật Quan Âm mang tính nữ trong những câu chuyện cổ của dân tộc Việt gần với hình ảnh người mẹ hơn là một vị Bồ Tát hoá độ chúng sinh theo ý nghĩa tôn giáo. Trong truyền thống văn hoá Việt, người phụ nữ giữ một vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Mặc dù chịu sự kiềm toả nặng nề của văn hoá Nho giáo phương Bắc nhưng dường như trong tâm hồn người Việt Nam luôn luôn dào dạt chảy một nguồn tình cảm đầy trân trọng và yêu mến đối với nữ giới, một phần do tâm thức Mẹ hình thành và in khắc sâu đậm từ trong tư duy nguyên thuỷ, một phần vì vai trò của người phụ nữ sớm hình thành trong lịch sử khởi nguyên của quốc gia, dân tộc cũng như trong đời sống gia đình và vẫn tiếp tục duy trì, phát huy qua các thời đại… Từ thơ ca dân gian đến các truyện tích, nhân dân ta luôn luôn dành sự ưu ái, thấu hiểu, bênh vực và đề cao vai trò người phụ nữ.
Hiện tượng nói trên có vẻ mâu thuẫn với vấn đề nhìn nhận thân phận người phụ nữ của nhân dân các nước Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma được chúng tôi đặt ra ngay từ phần đầu của bài viết. Tuy nhiên, đây chính là hai mặt vừa mâu thuẫn vừa thống nhất trong truyện cổ dân gian mang màu sắc tôn giáo nói chung và truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo nói riêng: xu hướng thiêng liêng hoáxu hướng thế tục hoá, nhằm thực thi song song chức năng tôn giáochức năng phi tôn giáo. Điểm quan trọng đặc biệt cần chú ý là các quốc gia Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma có khuynh hướng lấy Phật giáo tập hợp quần chúng, thu phục nhân tâm. Vai trò chính trị của Phật giáo ở các nước Đông Nam Á theo Phật giáo dòng Theravada đặc biệt quan trọng. Nó thể hiện cụ thể trên mối quan hệ hai chiều giữa nhà nước và tổ chức Phật giáo. Hiện tượng Phật giáo gắn bó mật thiết với chính trị biểu hiện qua việc thần thánh hoá các quốc vương ở các nước này rõ hơn rất nhiều so với ở Việt Nam. Phật giáo được các dân tộc theo Phật giáo Tiểu thừa tiếp nhận một cách tự nhiên và có ảnh hưởng lớn lao cả trong đời sống của người dân cũng như thiết chế nhà nước và được xem là quốc giáo, không có tình trạng đối lập giữa văn hoá dân gian và văn hoá kẻ thống trị ngoại bang. Ở các quốc gia này, thanh niên được coi là người trưởng thành và được mọi người kính trọng nếu họ tu học ở nhà chùa ít nhất từ 6 tháng đến một năm. Sangha là cầu nối giữa nhà nước và quần chúng. Tăng đoàn đảm nhiệm chức năng giáo dục… Do chịu ảnh hưởng Phật giáo từ gốc, theo quan niệm Phật giáo chính thống của Ấn Độ, nhân dân các nước Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma dù có quan tâm đến thân phận người phụ nữ vẫn chỉ dành cho họ một vị trí khá khiêm tốn trong tăng giới nên, phải chăng, việc Phật hoá hình tượng nhân vật nữ là một “cấm kỵ”? Mặc dù giữa đạo và đời có một khoảng nào đấy nhưng ở các nước Đông Nam Á theo đạo Phật Tiểu thừa thì người phụ nữ vẫn khó vượt qua thân phận đã được ấn định từ trong văn hoá mẫu gốc (Ấn Độ) để có thể bước lên toà sen, bước lên Phật điện như những Thị Kính, Man Nương, công chúa Ba của dân tộc Việt. Hơn nữa, văn học Ấn cũng phủ một ảnh hưởng bao trùm và xuyên suốt lên các nền văn học của những quốc gia này. Trong Tuyển tập văn học Campuchia, ở phần giới thiệu bộ phận văn học truyền thống, Vũ Tuyết Loan phân tích quá trình Phật hoá văn học Campuchia cũng như xu hướng Jataka hoá truyện cổ Campuchia sâu đậm đến mức: “[…] Văn học Campuchia thời kỳ này (thế kỷ XVI, XVII) nhiều lúc chỉ làm việc minh hoạ đơn giản cho giáo lý nhà chùa, bởi lẽ quan niệm nghiệp căn (Karma) của Phật giáo chi phối hầu hết các tình tiết cốt truyện”(3). Lưu Đức Trung, từ những năm 1989 đến 1999 đã chỉ ra những ảnh hưởng của Jataka vào văn học Lào, Thái Lan, Campuchia: “[…] Jataka vào Campuchia cuối thời kì Ăngco, ngày càng trở thành nguồn đề tài quan trọng của văn học. Tư tưởng Phật giáo trong Jataka có ảnh hưởng sâu đậm trong các tác phẩm văn học của Campuchia, xu hướng Jataka hoá ngày càng rõ nét trong truyện cổ, ngụ ngôn. Các nhân vật phần nhiều là hiện thân của đức Phật. Lối kết thúc truyện cũng giống như lối kết thúc trong Jataka, Jataka đến với Lào với cái tên Xattakhăm, phần nhiều truyện tiền kiếp của đức Phật trở thành nguồn chất liệu trong sáng tác của văn học Lào…”(4). Đó là lí do tại sao mặc dù giữa tư tưởng Phật giáo chính thống với tư tưởng nhân dân ở Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma có một độ chênh nhất định song vẫn không đủ tạo ra một “cuộc cách mạng” thay đổi hoàn toàn thân phận của người phụ nữ.
3. Một hiện tượng có vẻ nghịch lí là các nhân vật nữ trong truyện cổ dân gian các nước Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma được miêu tả như những Phật tử thuần thành trong khi các sư nữ trong truyện của người Việt lại ít được chăm chút về sinh hoạt tu tập.
Tính hướng chuẩn thể hiện khá rõ nét trong truyện cổ dân gian các nước Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma. Sinh hoạt tu tập của các nhân vật nữ trong truyện cổ dân gian của các nước này luôn được miêu tả chi tiết và được nhìn nhận như một chuẩn mực của đạo đức thế tục. Nàng Visakha  luôn thực hành đúng những lời dạy của đức Phật. Nàng rất coi trọng việc đi viếng chùa, cúng dường, lễ bái và bố thí. Nàng không những dẫn dắt bố chồng từ bóng tối ra ánh sáng mà còn là một Phật tử rất ngoan đạo. Nàng cúng dường cho nhà chùa rất nhiều. Nàng dùng số tiền rất lớn xây chùa và sắm sửa đồ dùng trong chùa, sau đó mời đức Phật về ngự (truyện Nàng Visakha – Campuchia). Dù là một công nương quyền quý nhưng hàng ngày công chúa Sen vàng vẫn thường đi lễ chùa với dân chúng như bao người bình thường khác. Nàng cũng thường xuyên bố thí cho người nghèo khổ, bệnh tật và dâng cúng thức ăn cho nữ thần biển cả (Công chúa Sen vàng – Thái Lan)… Cô gái trong truyện Vợ chồng chim sẻ của Myanma được miêu tả là một người mộ đạo, cung kính trước ba ngôi báu của Phật giáo - một  mẫu hình lý tưởng truyền thống của thanh niên Myanma. Nhờ lòng thành tâm hướng Phật, thường xuyên cúng dường, lui tới cửa chùa lễ bái chư Phật mà nàng tái hợp với người chồng ở kiếp trước…Truyện Maha Maya của Thái Lan kể về nàng Maha Maya Lakhana, con gái vua Préas Ankana của xứ Tevalongka, là một công chúa tu đạo. Công chúa rất coi trọng việc bố thí nên được các thần ban cho một giỏ gạo không bao giờ cạn. Người bệnh từ khắp mọi nơi đến để nhận sự ban phước lành và chữa bệnh từ công chúa… Nàng được quốc vương Sihatanu xứ Kobeula-Bhosu xin cưới cho hoàng tử Suddhodana, về sau hạ sinh hoàng tử Gautama - hiện thân đại kiếp cuối cùng của đức Phật… Trên đây chỉ là một vài dẫn chứng về việc miêu tả sinh hoạt tu tập của nhân vật nữ trong truyện cổ dân gian một số nước Đông Nam Á lục địa. Trong nguồn truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của các nước này, sinh hoạt tu tập luôn đóng một vai trò quan trọng trong cấu trúc miêu tả của tác phẩm. Bàng bạc trong các truyện như: truyện Chàng Ro-thi-sen, truyện Cây cỏ may, truyện Sự tích ngôi đền Bantay Chmar, truyện Một kiếp luân hồi, Truyện Hoàng tử Vésandâr thành Phật, truyện Hình thỏ trên mặt trăng, truyện Sự tích ngày lễ Phchum ben (Campuchia), truyện Than Kho, truyện Pho tượng Phật bằng ngọc bích, truyện Khun Charng Khun Phaen (Thái Lan), truyện Sự tích nhật thực nguyệt thực, truyện Ba ông Khún và quả bầu kỳ lạ, truyện Vesandar, truyện Ba đoá hoa ngọc (Lào)… chúng ta đều thấy các nhân vật thực hành giáo lý hết sức hoan hỷ.
Phật giáo có một bề dày lịch sử phát triển thuận lợi và liên tục ở các quốc gia theo dòng Theravada, đến nỗi dường như việc tu tập theo lời dạy của đức Phật trở thành nếp sống thường nhật của mỗi người dân. Giữ gìn ngũ giới, cúng dường, bố thí, xây chùa tháp, đúc tượng Phật,…là những công việc tạo phúc đức không chỉ được coi như một nghĩa vụ mà trở thành nhu cầu, niềm hạnh phúc của mọi Phật tử. Sinh hoạt tu tập thường nhật của nhân dân đã in dấu sâu đậm lên truyện cổ. Trong bức tranh chung của sinh hoạt thực hành tôn giáo ấy, việc bố thí, cúng dường là một mảng màu đậm đà và bền bỉ, vừa là thước đo đạo hạnh của Phật chúng, vừa là chuẩn mực đạo đức và tiêu chí đánh giá nhân cách mỗi người dân. Việc mô tả vấn đề tu tập trong truyện cổ của các dân tộc này hết sức đậm đặc, phản ánh đúng thực tế văn hoá Phật giáo của họ. Bố thí là tiêu chí số một và xuyên suốt trong mọi biểu hiện lập công đức, là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của nhân dân các nước theo Phật giáo. Đây là một hành động điển hình nhất của lòng từ bi, một trong hai hạnh cao nhất của Phật tử. Ở các nước theo Phật giáo Nam tông: Sri Lanka, Miến Điện, Lào, Thái Lan, Campuchia…, tu sĩ theo chế độ khất thực hàng ngày gọi là khất sĩ hay tỷ kheo. Việc dâng thức ăn, quần áo cũng như những dụng cụ phục vụ sinh hoạt tu tập cho sư là một hoạt động diễn ra hằng ngày và hết sức quan trọng trong đời sống văn hoá của người dân… Chính vì vậy, việc miêu tả hành động cúng dường, bố thí của các nữ Phật tử trong truyện cổ dân gian các nước này luôn là ưu tiên số một, trở đi trở lại trong phần giới thiệu nhân vật ở rất nhiều tác phẩm. Trong luận án Phó tiến sĩ khoa học triết học, Khlot - Thida nhận định rằng người Campuchia không màng lắm chuyện làm giàu, làm được nhiều của cải mang cúng dường cho chùa càng nhiều càng tốt, càng bố thí và cúng dường nhiều càng tích được nhiều phúc đức(5). Bên cạnh việc bố thí, niệm Phật cũng là một sinh hoạt thường nhật trong đời sống nhân dân các nước Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma. Phật giáo dạy rằng chúng sinh khi cảm thấy tâm không yên ổn, sinh ra sợ hãi thì giữ vững Tám niệm (Bát niệm): niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới, Xã, Thiên,… thì sẽ giữ được tâm thanh tịnh. Trong Phật giáo cũng có khái niệm “Nhất tâm niệm Phật”, nghĩa là khi niệm danh hiệu Phật thì chỉ nghĩ đến Phật. Chuyện tiền thân đức Phật số 212, tiền thân Vattaka, kể về một kiếp của đức Phật là một con chim cun cút non chưa biết bay gặp nạn cháy rừng nhờ nhất tâm niệm công đức của chư Phật đã nhập Niết bàn trong quá khứ đã đẩy lui được ngọn lửa khoảng 16 tầm… Tình huống gây cười xoay quanh nhân vật người phụ nữ làm nghề đốn củi trong truyện Lợi ích của việc lần tràng hạt và nhân vật người mẹ nghèo khổ trong truyện Thần cây ngoáy mũi của Myanma ít nhiều thể hiện tập quán tu tập của nhân dân nước này… Tu tập để đạt đến trí tuệ thù thắng và siêu việt là một trong hai nhiệm vụ quan trọng nhất của người tu theo đạo Phật. Điển hình và xuyên suốt những câu chuyện tiền kiếp của bậc Thế Tôn, song hành với lí tưởng từ bi bác ái là một trí tuệ sáng suốt như ngọn đuốc soi đường cho các hoá thân của Ngài tránh khỏi những hệ luỵ của cuộc đời. Nếu đức Phật thác sinh vào kiếp người thì đó là những chàng thanh niên nhanh trí, người thương gia sáng suốt hay vị đại thần hiền trí… Nếu đức Phật đầu thai vào kiếp vật thì chúng đều là những con vật có trí khôn tuyệt vời như con nai khôn ngoan, con cua thông minh, con khỉ mưu trí… Hiện tượng ngợi ca hai nhân vật nữ huyền thoại, Thuđamma Sari của Myanma và nàng Tăn Tay của Lào, có liên quan mật thiết đến vấn đề này… Như vậy, tập quán sinh sống gắn liền với thực hành giáo lý nhà Phật là một nét son văn hoá của cộng đồng các dân tộc Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma. Do vậy, mặc dù không phải là những sư nữ tu chứng đạt quả hạnh cao trong Phật điện, các nhân vật nữ như nàng Visakha, công chúa Sen vàng, tiểu thư Thuđamma Sari hay vợ người đốn củi… vẫn được ngợi ca như những tấm gương sáng điển hình trong đời sống thế tục.
Truyện của người Việt rất hiếm thấy sự miêu tả sinh hoạt tu tập một cách khá tỉ mỉ và sinh động thể hiện chân tâm của người tu hành. Sinh hoạt tu tập trong truyện cổ dân gian của ta hầu như chỉ được miêu tả đại khái, giống như chính quan niệm đại khái, chỉ cốt giữ lấy cái tinh thần của những tôn giáo mà người dân Việt Nam tiếp thu từ bên ngoài. Ngay ở truyện kể về một nhân vật nhờ công đức lúc sống, sau khi chết được hoá thành Bồ tát, tác giả dân gian vẫn không miêu tả sinh hoạt tu tập của nhân vật một cách tương đối chi tiết và quy củ mà chỉ kể rằng: “[…] Buồn chán cho số phận éo le, một hôm nàng cải trang thành một chàng trai, nhân đêm tối bỏ nhà khăn gói ra đi. Nàng đi mãi, đi mãi, cố tìm một chỗ trú ngụ, một nơi cho thật xa quê hương để xoá bỏ những ký ức đau xót. Sau cùng đến một tỉnh khác, ở đây có chùa Vân, nàng tìm đến xin gọt đầu quy y. Sư cụ không biết là gái bèn nhận cho làm tiểu, đặt hiệu là Kính Tâm. Sự đời đã tắt lửa lòng, từ đấy nàng yên tâm bạn cùng kinh kệ…” (Quan Âm Thị Kính). Truyện Sự tích ông bình vôi  kể về một cô gái con một nhà giàu có. Cô rất đẹp nhưng cũng rất kiêu, vì thế nên đến tuổi lấy chồng vẫn chưa có đám nào vừa ý. Nhưng rồi cô cũng lấy được chồng… Cô ghen chồng làm cho xóm giềng cau mặt vì những lời qua tiếng lại của họ. Cuối cùng hai người không vừa ý nhau và ly dị: “[…] Buồn bực vì chuyện duyên phận, cô bỏ đi tu. Cô xuất gia ở một ngôi chùa cổ trên núi gần hai mươi năm. Những con chim, những con thú rừng hầu như quen thuộc bóng dáng của người sư nữ. Hai mươi năm qua cô vẫn chưa đắc đạo. Một ngày kia cô quyết định sang Tây Trúc một phen để tìm cho ra lẽ…”. Truyện Sự tích chùa Trà Nồng kể về mối tình chàng Ếch với nàng Nồng. Do sự cấm đoán của mẹ cha nên chàng Ếch bỏ làng ra đi. Truyện kể rằng: “Chẳng ngờ, sau khi biết tin chàng bỏ làng ra đi, buồn rầu, nàng Nồng xin cha mẹ cho mình cắt tóc đi tu. Nàng lập một ngôi chùa trong vùng, ngày ngày tụng kinh niệm Phật để giữ trọn lời thề hẹn với người thương của mình. Ở nơi xa, chàng Ếch được tin, liền quay về. Thương và cảm phục người yêu đã giữ tròn lời hứa với mình, chàng liền xuất gia rồi lập chùa thờ Phật tại làng Đa Phước…”. Truyện về Phật bà chùa Hương cũng chỉ nói đến lòng thiết tha hướng Phật của công chúa Ba, không miêu tả rõ hơn những hành động thể hiện sự tu chứng của nhân vật... Như vậy, có thể thấy một sự khác biệt rất lớn trong nội dung miêu tả sinh hoạt tu tập của nhân vật nữ chính trong truyện cổ mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và truyện cổ mang màu sắc Phật giáo ở các nước bạn cùng khu vực. Trong khi nhân vật nữ trong truyện Campuchia, Thái Lan, Lào, Myanma phần lớn coi việc tu tập như là một nguyện vọng chân chính với mục đích hướng thiện, tạo lập công đức thì các nhân vật nữ trong truyện cổ người Việt nói trên đi tu vì chán đời, vì hết tìm thấy niềm vui sống đời trần tục. Như vậy chẳng khác nào người dân quan niệm đường tu là con đường đoạn tuyệt với cuộc sống xã hội, lánh xa thế tục, chôn vùi phần đời còn lại. Quan niệm như thế rõ ràng rất “nghịch chuẩn”, rất tương phản với xu hướng “hướng chuẩn” trong thái độ và động cơ tu hành của nhân dân các nước cùng khu vực. Đặc biệt, ở hai truyện: Sự tích đèo Phật tửSự tích ông bình vôi, việc nhân vật nữ cất công đi tìm đất Phật để mau thành chánh quả phản ánh tâm lý thực dụng đồng thời thể hiện một cách nhìn hết sức sai lệch về bản chất của mục đích cũng như con đường tu hành chân chính. Hình phạt bi thảm dành cho người sư nữ kiêu căng và đố kỵ trong truyện Sự tích ông bình vôi thể hiện cái nhìn nghiêm khắc và thẳng thừng đối với những người tu hành phạm giới hạnh Phật giáo, nhất là vi phạm đạo đức thế tục: Người sư nữ độc ác dùng mẹo lừa lấy mạng hai mẹ con cùng tìm đường sang đất Phật đã nhận lấy cái kết cục thảm thương: rơi từ trên cây cao xuống tan xác, hoá kiếp thành bình vôi để cho người đời móc ruột… Những đặc điểm vừa nêu rất sát hợp với những nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi từ những thập niên 70-80 của thế kỷ trước. Trong công trình Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tác giả đưa ra hai khái quát khoa học đáng lưu ý: một là “hiện tượng khai thác đề tài tình duyên để chuyển tải ít nhiều tư tưởng có liên quan đến đạo Phật”; hai là “tuy loại truyện mang chủ đề tôn giáo chiếm số lượng ít, người Việt lại có khá nhiều truyện dường như là để cảnh giới người tu hành”(6). Do xuất phát từ thực tế văn hoá Phật giáo dân tộc, người Việt Nam có những hiểu biết cũng như cái nhìn về việc tu hành rất khác so với những nước theo đạo Phật Theravada ở Đông Nam Á. Hiện tượng này xuất phát từ tập quán và quan niệm sống của nhân dân. Nhân dân ta không coi việc tu tập là một lẽ sống. Điều dễ nhận thấy là ngay trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, người bình dân Việt Nam thể hiện rất rõ tâm tư khao khát cuộc sống trần tục, nhiều khi coi nó như một đối trọng với việc chay tịnh ở cửa chùa:
Ai lên Hương Tích chùa Tiên,
Gặp cô sư bác anh khuyên đôi lời.
Đem thân làm kiếp con người,
Tu sao cho trọn nước đời mà tu.
Hơn nữa, người dân xứ ta không thích gò bó. Với niềm ham sống, ham dấn thân trải nghiệm mọi buồn - vui, sướng - khổ trong cuộc đời, người ta coi việc tu hành là một sự trói buộc:
Đã đành cắt tóc đi tu,
Một ngày cửa Phật, mười thu cửa trần.
Đối với người Việt, thiết thực nhất là ăn ở hiền lành, sống đạo đức, lành thiện:
- Một câu nói ngay bằng làm chay cả tháng,
- Anh tu cho bạc tóc mai,
Sao bằng em lượm cành gai giữa đường.
- Tu chùa chẳng bằng tu nhà,
Ăn ở thật thà mới thật là tu.
Đặc biệt, người Việt quan niệm đạo làm người trước tiên phải giữ tròn chữ hiếu. Nếu không làm được điều đó thì đừng học đòi cảnh giới tu trì cao siêu, thoát tục:
- Lên chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền.
- Chuối chát măng chua, bốn mùa anh chịu khổ,
Em tu hành anh chỉ chỗ em tu.
Kìa trông hai vị Phật sanh,
Cha già mẹ yếu em bỏ đành đi tu?…
Từ trong nếp nghĩ, nhân dân ta đặt lẽ phải và đạo lí trong cách ứng xử, ăn ở lên trên mọi nhu cầu thoát tục, mọi quan điểm giáo điều. Người ta quan niệm đã có tâm lành thiện, sống nhân nghĩa đạo đức thì không nhất thiết phải gọt tóc vào chùa. Đã xuống tóc quy y, muối dưa kinh kệ thì tuyệt đối giữ cho tròn vẹn đạo hạnh. Quan điểm đen - trắng phân minh, thẳng thừng đối với việc tu hành tất yếu dẫn đến cái nhìn nghiêm khắc đối với những người xuất gia tu đạo. Suy cho cùng, cách nhìn đó cũng thể hiện mong muốn giữ vững chánh đạo, không chấp nhận sự pha tạp, nhiễu nhương làm mất uy nghiêm nơi cửa Phật.
Về vấn đề đức tin của người Việt đối với đạo Phật, từ cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, Le Royer, một linh mục người Pháp đã nhận xét: “[…] Dân chúng đàng Ngoài thông minh lịch sự và thuần hậu. Đem họ về với chúa Kitô không là việc khó, và họ không gắn bó lắm với chùa chiền, cũng không nể trọng sư sãi của các tà thần lắm…”(7). Vào đầu thế kỷ XX, sử gia Trần Trọng Kim cũng đề cập đến bản tính người Việt trong việc tiếp nhận các tôn giáo: “[…] Hay tin ma quỷ, sùng sự lễ bái nhưng không nhiệt tín tôn giáo nào cả…”(8). Có thể coi đây là nét độc đáo của tính cách người Việt trong quá trình cọ xát và tiếp biến văn hoá ngoại lai.
Có thể nói, tinh thần Phật giáo Đại thừa (Phật giáo dòng Mahayana) kết hợp với lối tư duy mềm dẻo, thiết thực định hình trong suốt tiến trình lịch sử dân tộc đã quy định nên ở truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của người Việt đặc tính thế tục đậm đặc hơn rất nhiều so với nhóm truyện cùng loại ở các nước bạn cùng khu vực. Trong đó, đặc biệt nổi lên những khía cạnh độc đáo của văn hoá ứng xử của dân tộc qua việc đề cao vị trí người phụ nữ trong Phật điện dân gian cùng với cái nhìn lệch chuẩn về vấn đề tu hành cũng như thái độ khắt khe đối với những người nguyện dấn thân vào cửa Phật nhưng lại có những biểu hiện thối thất đạo hạnh. Trong khi đó, truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của các quốc gia Đông Nam Á theo dòng chữ Phạn và theo Phật giáo Tiểu thừa lại mang đậm tính tôn giáo. Có thể nói, nhóm truyện này vẽ nên một bức tranh độc đáo, sinh động thể hiện bản sắc văn hoá Phật giáo đậm đà, trong đó từ vua quan đến thứ dân đều là những Phật tử nhiệt thành, tăng giới rất được tôn kính và sinh hoạt tu tập cũng như làm những việc lành thiện tích công đức đã trở thành nếp sống và nhu cầu tinh thần không thể thiếu. Tinh thần Phật giáo cũng như thành kiến xa xưa của xã hội Ấn trong cách nhìn nhận thân phận người phụ nữ vẫn có sức chi phối rất lớn đến nội dung truyện cổ các dân tộc này.
Các khía cạnh đối sánh cho thấy xu hướng “hướng chuẩn” trong truyện cổ dân gian các quốc gia theo Phật giáo Theravada luôn có sự khác biệt, ít nhiều đối lập với xu hướng “phi chuẩn”, “nghịch chuẩn” trong truyện cổ dân gian Việt Nam. Cần thấy rằng sự đối lập ấy, về cơ bản, không có ý nghĩa đối kháng mà mang tính chất đa dạng trong chỉnh thể văn hoá khu vực - một sự thống nhất trong đa dạng1
____________
(1) Nguồn truyện phục vụ nghiên cứu đề tài chủ yếu được rút từ các tuyển tập sau đây:
- Nguyễn Đổng Chi: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Quyển I và II. Nxb. Giáo dục, H, 2000.
- Ngô Văn Doanh: Kho tàng truyện cổ thế giới, Tập 1, - Châu Á. Nxb. Văn hoá - Thông tin, H, 1994.
- Ngô Văn Doanh: Truyện cổ Đông Nam Á - Campuchia. Nxb. Văn hoá - Thông tin, H, 1995.
- Ngô Văn Doanh: Truyện cổ Đông Nam Á - Lào. Nxb. Văn hoá - Thông tin, H, 1995.
- Ngô Văn Doanh: Truyện cổ Đông Nam Á - Mianma. Nxb. Văn hoá - Thông tin, H, 1995.
- Ngô Văn Doanh: Truyện cổ Đông Nam Á - Thái Lan. Nxb. Văn hoá - Thông tin, H, 1995.
- Lệ Như Thích Trung Hậu: Những truyện cổ Việt Nam mang màu sắc Phật giáo. Nxb. Tôn giáo, H, 2004...
(2) Theo Giác Dũng: Phật Việt Nam dân tộc Việt Nam. Nxb. Tôn giáo, H, 2003, tr.35.
(3) Vũ Tuyết Loan: Tuyển tập văn học Campuchia. Nxb. Khoa học xã hội, H, 2003, tr.19.
(4) Lưu Đức Trung: Văn học Đông Nam Á. Nxb. Giáo dục, H, 1999, tr.12-13.
(5) Khlot - Thida: Bước đầu vận dụng quan điểm khoa học về tôn giáo để tìm hiểu vai trò Phật giáo ở Campuchia, (Luận án Phó tiến sĩ khoa học triết học, mã số 05.0.02), Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1995, tr.126.
(6) Nguyễn Đổng Chi: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (Quyển II, Tập IV-V). Nxb. Giáo dục, H, 2000, tr.1637.
(7) Dẫn theo Nguyễn Tấn Đắc: Văn hoá Đông Nam Á. Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2005, tr.261.
(8) Trần Trọng Kim: Việt Nam sử  lược, Quyển I. Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr.7.
http://vienvanhoc.org.vn/news/nghiencuulyluan/773/hien-tuong-nhan-vat-nu-tu-tap-phat-giao-trong-truyen-co-dan-gian-viet-nam-va-mot-so-nuoc-khac-o-dong-nam-a-luc-dia.aspx

18.Đọc lại Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng (nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của nhà văn)

Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) là một trong số những nhà văn hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Làm nên tên tuổi sáng giá của ông, bên cạnh và cùng với một khối lượng đồ sộ những tác phẩm thuộc nhiều thể loại: kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ…, trong số đó có những tác phẩm xứng đáng để đời, còn phải kể tới hàng ngàn trang nhật ký được tác giả cần mẫn, thầm lặng ghi chép trong ba mươi năm, bắt đầu ngày 2-11-1930 tới ngày 21-6-1960, trước khi vĩnh viễn từ giã cuộc đời vào ngày 25-7-1960.
        Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) là một trong số những nhà văn hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Làm nên tên tuổi sáng giá của ông, bên cạnh và cùng với một khối lượng đồ sộ những tác phẩm thuộc nhiều thể loại: kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ…, trong số đó có những tác phẩm xứng đáng để đời, còn phải kể tới hàng ngàn trang nhật ký được tác giả cần mẫn, thầm lặng ghi chép trong ba mươi năm, bắt đầu ngày 2-11-1930 tới ngày 21-6-1960, trước khi vĩnh viễn từ giã cuộc đời vào ngày 25-7-1960.
Năm 2006, Nhà xuất bản Thanh niên, với sự phối hợp của gia đình nhà văn, đã công bố trọn bộ Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, gồm 3 tập, với hơn 1700 trang, khổ 14,5 x 20,5 mà trước đó một số phần đã được đăng trên một số tờ báo, tạp chí và một nửa số trang trong tổng số 713 trang của tập 5 thuộc bộ sách Nguyễn Huy Tưởng, toàn tập, gồm 5 tập, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996. Việc công bố trọn bộ Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng giúp người đọc có tư liệu để nhìn rõ, nhìn kỹ và sâu hơn sự nghiệp văn học của ông trên cả những thành công và hẫng hụt ở tư cách một nghệ sĩ, và rộng ra, có thể cả những văn nghệ sĩ cùng thời, cùng thế hệ với ông, bao quát một thời kỳ dài, trước, trong Cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với vô vàn những thăng trầm, biến thiên của lịch sử, của thời cuộc. Qua hơn 1700 trang nhật ký, Nguyễn Huy Tưởng ghi lại những thao thức và trăn trở, chiêm nghiệm và suy ngẫm của ông về thực trạng xã hội và con người, văn chương và nghề văn mà ông là người trong cuộc. Bài viết dưới đây nhằm tìm hiểu một vài khía cạnh trong nhiều khía cạnh được “phản quang”, lưu giữ qua nhật ký của ông.
1. Lựa chọn thể loại và cách viết
Đối với một nhà văn, lộ trình đến văn chương có thể coi là một cuộc tìm mình, tìm đường trầy trật, khổ ải, không mấy suôn sẻ. Ý thức được những đòi hỏi khắt khe của đời sống, của Con người viết hoa, từ năm mười tám tuổi, ông đã ghi lời mở đầu cho những dòng nhật ký đầu tiên, có thể coi đó là lời tự răn và cũng là quan điểm sống của tác giả: “Người ta sở dĩ có nhiều tội lỗi là vì không chịu xét công việc của mình hàng ngày”. “Công việc của mình hàng ngày”, xét theo nhiều nghĩa, nếu với một nghệ sĩ, bao hàm cả lao động nghệ thuật. Ngay từ khi bắt đầu tập viết văn, Nguyễn Huy Tưởng đã có ý thức tìm cho mình một “lối đi riêng”. Trong Nhật ký ngày 26-10-1933, ông viết sau nhiều trăn trở, trải nghiệm: “Ta có xem của người ta chỉ xem lấy văn chương, còn thì phải giữ vững lấy tinh thần của sách ta, chớ nên bị sách người tiêm nhiễm”. Ít lâu sau, trong Nhật ký ngày 24-11-1933, ý thức đó lại được Nguyễn Huy Tưởng thể hiện: “Tôi đang chép nhật ký và suy xét mình, và tự tìm lấy một quan niệm nhân sinh. Tôi tự nghĩ: Sao ta lại không có một tư tưởng gì thế? Vậy những công trình ngươi định làm là những đồ chơi bằng giấy bồi ư? Ngươi có một quan niệm: Ngươi thích kịch, ngươi thích cổ, ngươi thích Cái Đẹp, ngươi muốn tán dương các anh hùng, ngươi thích thì ngươi làm, sao ngươi còn đắn đo”.
Dấn thân vào nghề văn như đã ghi trong Nhật ký ngày 19-12-1930 qua cuộc đối thoại với bạn của mình: “Phận sự một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi”, Nguyễn Huy Tưởng sớm tự ý thức được sở trường, sở đoản của mình qua sự lựa chọn và cân nhắc giữa các thể loại. Trước khi trở thành một nhà viết kịch hàng đầu, một nhà tiểu thuyết lịch sử xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại với nhiều tác phẩm đạt đến đỉnh cao về giá trị tư tưởng và nghệ thuật, mà Vũ Như Tô (1944), Sống mãi với Thủ đô (1961) là hai trong số nhiều ví dụ tiêu biểu, ông đã từng làm thơ. Nhưng, Nguyễn Huy Tưởng không trở thành nhà thơ, mặc dù ngay từ năm 1933, ông đã viết một chùm 6 bài thơ đăng trên tạp chí Nam phong, số 191. Đó là các bài Vịnh Lê Thái Tổ, Vịnh Lê Thánh Tôn, Quan công bình trúc, Mẹ ru con ngủ ngày, Đi đường gặp giai nhân hé cửa nhìn ra, Thu cảm(1).  Nguyễn Huy Tưởng dự định tập hợp các bài thơ đã và sẽ làm in thành tập Nhất điểm linh đài. Một số bài trong đó đã được công bố trên tạp chí Tri tân vào những năm 1942-1943(2). Điều đó chứng tỏ năng khiếu thơ ca ở Nguyễn Huy Tưởng bộc lộ từ rất sớm, hai mươi mốt tuổi đã có thơ đăng báo, cũng có nghĩa là Nguyễn Huy Tưởng đến với văn chương trước hết là đến với thơ chứ không phải là đến với những thể loại khác. Ngay từ năm 1932, nghĩa là khi mới hai mươi tuổi, Nguyễn Huy Tưởng đã có những suy nghĩ thấu đáo về đặc trưng của thơ (“Thơ phải gọn gàng. Một câu thơ là tóm lại mười câu văn. Câu văn cũng như hòn đá, mà thơ là cái hòn đá giũa mài chỉ còn lại cái tinh hoa sáng sủa”- Nhật ký ngày 1-12-1932), tác dụng của thơ (“Thơ mà làm cho người ta sinh hoạt được du khoái, chấn loát được tinh thần, mở mang cuộc đời được rộng rãi, thơ ấy mới là thơ chính đáng” - Nhật ký ngày 21-3-1932), tính dân tộc trong thơ (“Nhà thi hào của một dân tộc nào phải diễn tả được cái hồn thơ riêng của dân tộc ấy một cách rực rỡ hùng hồn” - Nhật ký ngày 21-3-1932). Ông tôn vinh Virgile (70-19 TCN). Ông coi Victor Hugo (1802-1885), Voltaire (1694-1778), Corneille (1606-1684), Baudelaire (1821-1867) là “những bậc kỳ tài trong thiên hạ”. Ông say đắm Ly tao của Khuất Nguyên và những bài thơ Đường tuyệt thú. 
Nguyễn Huy Tưởng từng có những giây phút hào hứng sáng tạo thơ ca. Ông ghi trong Nhật ký ngày 22-5-1941, rằng: “Bài ca chính thức mình làm hôm 21, kể cũng thú vị,
Nào trời non nước?/ Thờ ơ vườn Chu/ Tìm cành trông hướng/ Đường Nam tít mù/ Ôi non sông tre xanh/ Lớp mây mù không thấy nhà/ Ôi Văn Lang xa xăm/ Chí ta bền với sơn hà/ Non quê cha thiêng liêng/ Không bao giờ lòng quên.
Kể bài này, thực có tính cách thơ, hay thực”. Nhật ký ngày 18-1-1942: “Vui đi ta ơi. Việc ta làm dở từ 1939 nay đã thành. Trưa hôm nay tôi làm xong bài Đống Đa nhan đề là Xuân tráng sĩ. Lòng tôi bồng bột, tôi vui sướng như điên. Bài ca dài 80 câu và một điệp khúc 4 câu. Nó đã sáng tác trong bốn buổi: đêm 15, 16, 17 và ngày 18. Đáng ăn mừng, vì tôi vẫn ôm mối hận là không sao làm nổi được công việc bỏ dở từ 1939, từ cuối 38 thì đúng hơn”. Tuy nhiên, Nguyễn Huy Tưởng sớm nhận ra, thơ chỉ là sở đoản của mình. “Làm bài thơ về Lê Lợi, thấy kém. Buồn man mác. Thơ của mình không có gì mới mẻ cả. Nhưng cũng vì bài thơ không hợp ý ấy nên nhất định viết kịch Vũ Như Tô” (Nhật ký 22-5-1942). Thực ra, ngay từ năm 1939, Nguyễn Huy Tưởng đã “nghiệm thấy một cách đau đớn” rằng bây giờ ông “làm thơ chậm lắm và khó nữa” (Nhật ký ngày 22-1).
Đọc lại Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng kết hợp thực tế sáng tác của nhà văn, ta có thể thấy cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ XX, Nguyễn Huy Tưởng đã bắt đầu làm một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong việc chọn lựa thể loại. Ông dứt khoát và đặt trọng tâm đầu tư cho kịch và tiểu thuyết, với ý thức trở thành một tiểu thuyết gia, một kịch gia. Và đây là một sự chọn lựa đúng do đòi hỏi của nghiệp viết, bởi vì ngay từ đầu, ông đã nung nấu thể hiện đề tài lịch sử, một đề tài cần đến những hình thức, khuôn mẫu thể loại phù hợp. Từ đây về sau ông công bố hàng loạt tác phẩm xuất sắc: Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, An Tư, Bắc Sơn, Sống mãi với Thủ đô. Nói cho công bằng, nếu Nguyễn Huy Tưởng tìm đến những thể loại đó thì cũng chính những hình thức thể loại đó đã làm nên nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng.
Cho dù có tài năng, sẵn nhiệt tình sáng tạo, đầy ắp vốn sống nhưng nhà văn cũng sẽ lúng túng nếu không có một “thuật viết” riêng, phù hợp với tạng văn của mình. Nhật ký của nhà văn ngày 13-8-1939 khẳng định: “Tôi cần phải tả những cái hùng tráng, vĩ đại, với một lời văn gọn ghẽ, gợi ý và nhất là bóng bẩy”. Nguyễn Huy Tưởng cho rằng: “Phải theo Baudelaire văn chương cần lãnh đạm như cẩm thạch” (Nhật ký ngày 15-1-1942). Ông xác định thiên hướng của ngòi bút: “Cần phải viết truyện gần như thực, sát sự thực. Cần phải có sự sống tràn trề”. Ông “ghét tất cả những truyện ly kỳ, và thích lấy những tính tình dục vọng làm động cơ cho kết cục. Những lối “tuồng” không phù hợp nữa. Phải diệt trừ tất cả cái gì là sáo, là phóng đại, là kêu gào, là anh hùng theo lối Lê Văn Trương. Hãy đi đến những cái gì là tự nhiên, là chân thật, là giản dị” (Nhật ký ngày 4 và 5-12-1942). Ông còn tự dặn mình: “Làm tiểu thuyết, soạn một vở kịch, hay viết một bài thơ, công việc ấy cũng như làm một bài tính đố. Chỉ có một đường đưa ta đến “Giả nhời”, và nếu có nhiều đường, thì chỉ có đường giản dị nhất là nên theo” (Nhật ký ngày 7-12-1938). Nguyễn Huy Tưởng kiên trì với sự lựa chọn ấy. So với đương thời, sự lựa chọn của Nguyễn Huy Tưởng không hẳn là thời thượng. Bên cạnh những vần thơ rạo rực, rất Tây của Xuân Diệu, những vẻ trầm mặc rất Á Đông của thơ Huy Cận, hay những áng văn xuôi mượt mà của Tự lực văn đoàn, những câu văn giản dị của Nguyễn Huy Tưởng liệu có sức thu hút, hấp dẫn độc giả? Đó là một thách thức không nhỏ đối với ông. Nguyễn Huy Tưởng đã dũng cảm thử bút. Ông biết, sức sống lâu dài của một nghiệp văn được quyết định bởi chiều sâu tư tưởng, tầm triết lý của văn bản và “lối riêng” trong cách nhìn hiện thực, trong cách nhà văn “dẫn đường” người đọc khám phá chiều sâu bí ẩn của thế giới xung quanh bằng những hình ảnh, con chữ. Sau này trò chuyện với những người viết văn trẻ, Nguyễn Huy Tưởng tâm sự: “Trước hết chúng ta cần khẳng định với nhau rằng, trong văn học, sự sống, nhiệt tình và tài năng là chính, kinh nghiệm là phụ, và chúng ta tránh mọi thứ kinh nghiệm, mọi sự hướng dẫn làm cho một người viết trẻ rập khuôn theo một nhà văn nào. Chúng ta kỵ tất cả những cái gì làm mất cái phong cách của từng người viết”(3). Nói tới hoàn cảnh đã đưa ông đến với nghề văn, Nguyễn Huy Tưởng lý giải: Mới đầu “chưa có khuynh hướng viết văn” mà “muốn hoạt động chính trị và xã hội hơn”, nhưng lớn lên trong không khí của một gia đình nhà nho, ông “cũng thích văn chương “phú lạc”. Lớn lên, đi học, ông ham đọc sách, và thiên về những tác phẩm cổ điển, đặc biệt những tác phẩm ngợi ca con người, ngợi ca Tổ quốc. Ông “ghét những thứ văn chương trống rỗng, ghét nhất là văn chương Ngày nay, Phong hoá, Tiểu thuyết thứ bảy” vì một vài cuốn sách mà ông xem “không thấy một chút gì là ưu thời mẫn thế”(4). Điều này giúp ta hiểu vì sao Nguyễn Huy Tưởng lại thiên về đề tài lịch sử, như ông đã từng ghi trong nhật ký cũng như trải nghiệm qua sáng tác. Và, những tác phẩm xuất sắc của nhà văn này dường như cũng là những tác phẩm khai thác đề tài lịch sử “ngợi ca con người, ngợi ca Tổ quốc”. Nguyễn Huy Tưởng khiêm tốn cho rằng, bước vào làng văn, ông chỉ là “một kẻ ăn mò”. Tuy nhiên, hành trình sáng tác và nhật ký của ông lại cho thấy, đây là một quá trình sáng tạo tự giác, có ý thức. Là một người sớm ưu thời, mẫn thế, Nguyễn Huy Tưởng thiết tha với những trang sử của dân tộc, với những anh hùng đã làm rạng danh non sông, đất nước. Ông tự hào rằng “sử Việt Nam đầy những phong công mỹ tích, đầy những cái đẹp, cái hay mà chưa ai khai thác cả” (Nhật ký ngày 22-10-1938). Ông muốn viết kịch, viết tiểu thuyết để truyền cái tinh thần của ông cha đến với ngàn đời: “Dù viết cái gì cũng không nên bỏ tinh thần Việt Nam”. Những trang viết đầu tiên khó nhọc, chậm, vật vã nhưng không hề nản. Ông để tâm tìm hiểu tiểu thuyết. Sau kịch, tiểu thuyết là thể loại được ông đặc biệt chú ý. Tiểu thuyết là hình thức phù hợp và thích ứng để Nguyễn Huy Tưởng gửi tâm tình, quan niệm về cuộc đời như ông đã từng ghi trong Nhật ký ngày 6-9-1949 và nhiều trang nhật ký khác nữa mà chúng tôi không kể ra hết. Trong số những nhà văn Nguyễn Huy Tưởng biết và đọc, ông khâm phục Lép Tônstôi, đại văn hào Nga, ông dành sự ngưỡng mộ đặc biệt đối với Racine, thi sĩ, kịch gia Pháp. Ông khao khát trở thành một Lép Tônstôi, một Racine của Việt Nam, nghĩa là khao khát trở thành một nhà viết tiểu thuyết, một nhà viết kịch tầm cỡ. Ông dự định “kết cấu một truyện dài khổng lồ về xã hội Việt Nam thế kỷ XX. Loại  La gueree et la paix (Chiến tranh và hoà bình) của Tônstôi” (Nhật ký ngày 2-5-1945) và “miên man nghĩ một vở kịch vĩ đại” (Nhật ký ngày 6-5-1945). Đồng hành cùng cuộc kháng chiến gian khổ, tận mắt chứng kiến những hy sinh to lớn, cũng như sức mạnh quật khởi của dân tộc, nhân dân, Nguyễn Huy Tưởng thiết tha muốn viết và nóng viết những tác phẩm xứng tầm với kháng chiến. Ông lắng nghe những lời góp ý chân thành của những người bạn nghệ sĩ, rồi tự ngẫm nghĩ cái “tạng” riêng của mình “thiên về những truyện có tính cách lyrico- épique (sử thi trữ tình) (…) Thích nhiều những truyện có tính cách trữ tình, thân mật, có chiến đấu, nhưng cũng có nhiều tình yêu tình bạn và sôi nổi huyết khí thanh niên” (Nhật ký ngày 5-9-1950). Quả đúng như ông  tiên liệu, sau này, nhiều người khẳng định sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, đặc biệt là kịch và tiểu thuyết, giàu tính sử thi. Nguyễn Huy Tưởng “thiên về ca ngợi, thiên về cái hùng tráng, huy hoàng, thiên về cái cao cả. Bắc Sơn, Những người ở lại, Sống mãi với Thủ đô đều là những tác phẩm đầy chất tráng ca”(5). Nguyễn Huy Tưởng “giỏi viết về cái vĩ mô”(6). “So với tiểu thuyết và kịch lịch sử đương thời, các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã vượt trội hẳn lên”(7).
2. Thao thức về những vấn đề văn học                                 
 Ngay từ những năm 50, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhu cầu đổi mới văn học, cụ thể là đổi mới cách nghĩ, cách viết đã bộc lộ ở Nguyễn Huy Tưởng. Nhật ký ngày 29-3-1955 có ghi: “Xem Banie du Foyer (Cấm cửa), phim Ý, thấy cần chú ý tình cảm. Nói mãi đấu tranh, sáo và mệt”. Trải qua chín năm sống và viết trong hoàn cảnh gian khổ, ác liệt, đối mặt với gian khổ, Nguyễn Huy Tưởng có nhiều tác phẩm về đề tài kháng chiến được đánh giá cao như Ký sự Cao Lạng, Những người ở lại và hàng loạt vở kịch ngắn: Người vợ, Khiêng thuyền, Anh sơ đầu quân…, nhưng chính ông lại tự phê bình quyết liệt với những tác phẩm ấy, những tác phẩm mà ông coi là “phục vụ kịp thời nhất” của mình, sớm nhận ra những bất cập trong sáng tác của chính mình cũng như của nền văn học kháng chiến. Nhật ký ngày 21-1-1956, 21-3-1956, 8-6-1956 của ông nói đến quá trình tự kiểm điểm này bằng một thái độ trung thực, thẳng thắn. Tự đánh giá lại Truyện anh Lục, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký ngày 21-3-1956: “Hoàn thành tập 3 Truyện anh Lục. Gọi là xong. Khá hơn lần trước nhưng vẫn rối rắm. Vẫn một chiều, thiếu sâu sắc, thiếu cái sinh động của con người, với những đấu tranh nội tâm, những ảnh hưởng khách quan của xã hội”. Kiểm điểm lại văn học mười năm kháng chiến (1945-1954), Nguyễn Huy Tưởng không né tránh khi nhận xét: “Tác phẩm văn học không được là bao. Mà cũng chỉ là kể việc, không có tư tưởng, không có vấn đề, không có bài học gì cho tâm hồn. Mỗi nhà văn phải có một thế giới quan, trong ấy sống những nhân vật của mình. Quan niệm phục vụ kịp thời, nó đã lãng phí bao nhiêu tài năng, dẫn đến biết bao những tác phẩm vô giá trị, những nghệ sĩ cơ hội. Thậm chí cá tính của một người nghệ sĩ không còn. Một thứ nghệ thuật chung chung, giống nhau, không có khía nhìn, khía cảm, khía suy nghĩ của người tác giả. Công thức lạ lùng. Phải vứt những chữ kịp thời tai hại kia đi. Để cho nghệ sĩ có thì giờ mà suy nghĩ, mơ mộng, đuổi theo những đề tài của mình, phát triển cái cá tính của mình, nêu những vấn đề của cuộc sống”. Những dòng nhật ký trên đây được ông viết ngày 8-6-1956, nghĩa là khi hào quang chiến thắng vẫn còn tươi rói, khi vô số các giải thưởng với những thứ hạng nhất, nhì, ba…cho tác giả này, tác phẩm kia vừa mới được trao và nhận. Không ngần ngại “bắt mạch kê đơn” cho những non kém của văn học nước nhà trong chín năm kháng chiến, ông cho rằng, chính cái quan niệm “phục vụ kịp thời” đã tạo ra “một thứ nghệ thuật chung chung, giống nhau”. Nguyễn Huy Tưởng quyết liệt phê phán quan niệm “phục vụ kịp thời” vì đấy là quan niệm “tai hại” (Nhật ký ngày 1-6-1956). Năm 1960, thực trạng này được Nguyễn Huy Tưởng nhắc lại lần nữa trong nhật ký ngày 20- 4, và lần này xem ra còn quyết liệt hơn: “Nhìn trước nhìn sau, thấy văn học ta nghèo nàn, khô khan, không có xương máu, mà lo”.
Nguyễn Huy Tưởng mong muốn đổi mới lý luận, đổi mới cách nhận thức của văn nghệ sĩ, của một nền văn học trước yêu cầu của cuộc sống. Ông cho rằng: “Phải thay đổi đường lối tuyên truyền. Phải mạnh dạn nhìn vào cái xấu. Vấn đề là biểu hiện cái xấu như thế nào, đến mức độ nào (…) Phải dũng cảm mà phê bình xã hội. Tự hào, phải có cái tự hào của người cầm bút” (Nhật ký ngày 5-7-1956). Nhật ký ngày 7-7-1956 cũng nhấn mạnh: “Đời sống còn giả tạo. Còn đầy rẫy khuyết điểm. Ngay cái quan niệm về nghệ thuật (…) Vấn đề chính là vạch những cái xấu, phải thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nâng niu, tôn trọng con người”. Những trang nhật ký được ghi vào các ngày 21, 22-4-1956; 7-5-1957 cho thấy nhà văn suy tư với ý hướng chuyển cách viết vốn “thiên về ca ngợi” những vấn đề mang tính sử thi, vĩ đại của đời sống, như ông tự nhận trong thiên tuỳ bút Một ngày chủ nhật, sang những đề tài bình dị, đời thường: “Phải đi vào cuộc sống bình thường”, “cuộc đời bình thường mà vĩ đại”, “phải đưa vào tác phẩm tiếng nói bình dị của cuộc sống, chân lý thông thường của cuộc sống”. Đọc lại những trang nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng ghi vào thời gian này, ta bắt gặp những từ “bình thường”, “thông thường”, “giản dị” , “bình dị”, được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần như một tín hiệu có ý nghĩa cho một quan niệm nghệ thuật mà ông tự nhắc nhở để thực hiện. Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng còn cho thấy ông nhận ra sự cần thiết phải chú ý tới chức năng giải trí (cố nhiên lành mạnh) của văn học đối với quần chúng nhân dân trong hoàn cảnh cuộc đời đang dần trở lại nhịp sống bình thường. Ông mong mỏi “lấy lại cái thơ, cái đẹp, cái tự nhiên mà cán bộ đã làm mất. Phải làm cho cuộc đời có cái vui thú” (Nhật ký 2-10-1956). Theo ông, “văn nghệ có phải chỉ cổ động tuyên truyền giáo dục đâu. Nó làm được nhiệm vụ giải trí cũng là tốt rồi. Sau những khó khăn, lo nghĩ, được đẹp mắt, vui tai, thoáng đãng tâm hồn”. Văn học, theo ông, “đừng nặng về giáo dục mà nhẹ phần giải trí” (Nhật ký ngày 2-7-1956). Đây là điều đâu dễ nói. Và, nói đâu dễ được chấp nhận trong bối cảnh xã hội và tư duy lý luận văn nghệ đương thời. Do sự tác động của thời cuộc, vào những năm 50, 60 và hàng chục năm tiếp theo của thế kỷ XX, trước yêu cầu và mục tiêu phục vụ nhiệm vụ chính trị, chức năng giáo dục, cải tạo con người của văn nghệ luôn luôn được đặt lên hàng đầu, lên hàng số một trong tương quan với chức năng nhận thức và thẩm mỹ là hai trong số ba chức năng (và dường như chỉ là ba) của văn nghệ được giới lý luận và sáng tác nói tới lúc bấy giờ. Chức năng giải trí của văn học nghệ thuật hầu như không được đề cập, nếu có, cũng chỉ ở khía cạnh cảnh giới, phê phán, phòng ngừa những biểu hiện sa đà, những cách nghĩ “lệch lạc”.
Qua nhật ký, ta còn thấy, Nguyễn Huy Tưởng không ít lần trăn trở, đặt lại và nhìn lại nhiều vấn đề của văn hoá, văn nghệ đương thời, trong đó có vấn đề văn nghệ phục vụ chính trị; vấn đề đối tượng phản ánh và phục vụ của văn nghệ cách mạng. Nhật ký ngày 21-5-1956 ghi: “Văn nghệ không phải chỉ có vấn đề đối tượng công nông”. Ông cũng đặt ra hướng tiếp cận mới về đối tượng “trung tâm” của văn học thời kỳ này. Trong khi “người ta kỵ không được nói những cái xấu của công nhân, nông dân, hình như chế giễu những người ấy là động đến cả chế độ”, ông đặt vấn đề theo hướng phản biện: “Nhưng sao lại không được? Họ là những cậu ấm, cô chiêu mới không được đả động ư? Không? Không thể dối trá được. Không thể che đậy được. Không thể vì cách mạng mà nuông chiều, gượng nhẹ được. Vấn đề là xây dựng con người” (Nhật ký ngày 7-3-1957). Ngay từ những ngày đầu hoà bình lập lại, qua nhật ký của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã có những suy nghĩ táo bạo về mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Nếu bài viết Văn nghệ và chính trị của một nhà nghiên cứu văn học công bố năm 1987 trên tuần báo Văn nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam từng làm xôn xao dư luận một thời thì có lẽ người ta sẽ càng cảm phục và chia sẻ cùng Nguyễn Huy Tưởng, nếu biết từ năm 1957, có nghĩa là trước đó 30 năm, ông đã suy nghĩ về vấn đề này khá sâu: “Văn nghệ có cần phải phục vụ không? Sao lại gò ép vào việc ấy? Thân với bạn, làm thơ tiễn bạn: Có phục vụ chính sách mà sao bây giờ truyền tụng? Ai truyền tụng những câu về chính sách? Nên suy nghĩ nhiều về vấn đề này” (Nhật ký ngày 2-2-1957). Ba năm sau, năm 1960, vấn đề “văn nghệ phục vụ…” được Nguyễn Huy Tưởng đặt ra lần nữa, trong nhật ký ngày 20-4: “Văn học phục tùng chính trị. Văn học phục vụ chiến đấu. Ta đồng ý với tấm lòng chân thành của ta. Vấn đề chỉ là yêu cầu một sự hiểu biết về văn học, về tính chất của văn học”. Từ đó, nhà văn mong muốn một sự thay đổi, không chỉ ở nếp nghĩ, cách nhìn mà còn là thể hiện ở tác phẩm của mỗi nhà văn. “Ngẫm nghĩ về cái công thức của thời đại”, Nguyễn Huy Tưởng cho rằng “thời đại nào cũng có những cái công thức của nó. Vấn đề của nhà văn là phải phá cái công thức, và chống lại cái một chiều, hiu hiu, cái nhạt nhẽo của con người” (Nhật ký ngày 15-1-1957). Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng từ 1956 đến 1960 cũng đã ghi lại nhiều dự định của nhà văn theo những ý hướng trên. Tiếc rằng, nhà văn đã ra đi quá sớm, không kịp thực hiện niềm khát khao sáng tạo và đổi mới kia. Chúng tôi nghĩ vào cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 thế kỷ XX, nhiều văn nghệ sĩ đến sau ông hoặc kế tiếp ông đã thể hiện xuất sắc tư tưởng đổi mới văn học trên cả hai khu vực lý luận phê bình và sáng tác mà vào những năm 50, 60 ông đã tiên đoán và dự cảm. Khảo sát nhật ký Nguyễn Huy Tưởng trong những năm 1955-1960 có thể nhận thấy nhiều mối ưu tư, bận lòng của chính tác giả trước thực trạng “nghèo nàn, khô khan” của văn học nước nhà như ông đã cảm và nghĩ. Ông quan ngại trước tình trạng con người sự vụ, con người công chức lấn át con người nghệ sĩ, một trong những nguyên nhân làm nghèo sự sáng tạo. “Người nghệ sĩ phải có tự hào. Nhưng thật ra, lúc này, họ có khác gì một công chức. Họ dốt về mọi phương diện. Văn hoá thấp kém. Họ sáng tạo cái gì (…) đóng góp cái gì. Anh nêu được vấn đề gì khi anh chẳng tìm thấy vấn đề gì nêu cả (…) Như thế là nghệ sĩ không? Hay chỉ là công chức?” (Nhật ký ngày 17-5-1956). Rồi đây khi nghĩ về những nhà văn, nhà thơ sớm trăn trở đổi mới văn học Việt Nam, không thể không nghĩ đến, nhắc đến Nguyễn Huy Tưởng. Nói vậy không phải là chủ quan theo kiểu “nói lấy được” mà có căn cứ. “Căn cứ” ở chỗ những vấn đề: Chức năng của văn nghệ, trong đó có chức năng giải trí; Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị; Vấn đề đánh giá thành tựu và hạn chế của văn nghệ cách mạng Việt Nam 1945-1975, trong đó, văn học 1945-1954 là một chặng; Vấn đề văn học phản ánh hiện thực… là những vấn đề lý luận và thực tiễn được tranh luận sôi nổi, thậm chí quyết liệt vào thời đầu Đổi mới cũng là những vấn đề mà ba chục hoặc hơn ba chục năm trước Nguyễn Huy Tưởng trăn trở, thao thức và ghi lại không thiếu và sót trong nhật ký của ông. Nếu có khác chăng là vào cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX, bầu khí quyển chính trị- xã hội chưa thuận và chưa hợp cho nhiều người trong đó có Nguyễn Huy Tưởng được công khai bộc lộ ý kiến của mình. Cho nên, với hình thức nhật ký, Nguyễn Huy Tưởng đã thực hiện một cuộc độc thoại, mà thực chất là đối thoại: đối thoại với chính mình, với mọi người về những vấn đề văn học. 
Tóm lại, năm mươi năm sau ngày Nguyễn Huy Tưởng ra đi vĩnh viễn, đồng nghĩa với 50 năm những dòng nhật ký cuối cùng của ông đóng lại, công chúng yêu văn học hiện nay vẫn tìm thấy ở đó những mối quan tâm suy nghĩ dường như chưa hề cũ, không bị cũ, nghĩa là còn rất mới, rất thời sự của một nghệ sĩ trung thực, thường ưu tư về những vấn đề văn hoá, văn nghệ dân tộc. Nếu coi sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng là mạch nổi, thì nhật ký mà sinh thời ông chưa có điều kiện công bố là mạch chìm, mạch ngầm. Vì vậy, để hiểu mạch nổi cũng cần biết mạch ngầm, mạch chìm chứ sao. Xét trên phương diện văn bản học, hơn 1700 trang nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng còn là một tư liệu quý cho nhiều bộ môn như sử học, văn hóa học, xã hội học1     
___________
(1) Xin xem:
- Nguyễn Khắc Xuyên: Mục lục phân tích Tạp chí Nam phong, Nxb. Thuận Hoá, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2002, tr.275.
- Nguyễn Huy Tưởng: “Thơ là hòn đá giũa mài chỉ còn lại cái tinh hoa sáng sủa”, Tạp chí Thơ, số 1-2006, tr.75-82
(2) Xin xem: Thơ Mới 1932-1945 –Tác giả và tác phẩm, Nxb. Hội Nhà văn, H, 2001, tr.1017, 1019, 1021.
(3) Nguyễn Huy Tưởng: Toàn tập, tập 2, Nxb. Văn học, H, 1996, tr.883.
(4)  Nguyễn Huy Tưởng: Toàn tập, tập 2, Sđd, tr.884.
(5), (6) Xin xem: Nguyễn Huy Tưởng - Về tác gia và tác phẩm, Nxb. Giáo dục, H, 2003, tr.191.
(7) Xin xem: Nguyễn Huy Tưởng - Về tác gia và tác phẩm, Nxb. Giáo dục, H, 2003, tr.211.
http://vienvanhoc.org.vn/news/tapchi/786/doc-lai-nhat-ky-nguyen-huy-tuong-nhan-ky-niem-50-nam-ngay-mat-cua-nha-van.aspx