Đủ - được, thiếu - dễ nghe, thừa - không sai
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020
đã xác định: “Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện
các ngành nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát
triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn”. Đây là định
hướng chiến lược hoàn chỉnh, đồng thời cũng là quan điểm chỉ đạo rõ ràng
đối với sự nghiệp phát triển kinh tế biển Việt Nam từ trước tới nay.
Quy hoạch tổng thể cảng biển Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020
cũng đã được lập và phê duyệt hơn 8 năm qua (1999). Quy hoạch tổng thể
của chính phủ nhằm mở rộng và cải thiện cơ sở hạ tầng thương mại cảng
biển quốc gia vào năm 2009 đã dự kiến dành từ 46-56 tỷ USD cho phát
triển một số cơ sở hạ tầng trị giá nhiều tỷ USD.
Tuy nhiên, theo bài báo trên, với tổng
số lên tới 320 cảng biển quy mô các loại, hệ thống cảng của Việt Nam
phát triển quá nhanh nhưng lãng phí, quy hoạch thiếu hợp lý và vẫn không
đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế. Tờ báo dẫn lời một nhà quan sát rằng, “Việt
Nam phải nâng công suất hệ thống cảng biển lên gấp 2 lần so với hiện
nay và 4 lần vào năm 2020, tương đương với việc phải xây thêm 15-20 km
bến cảng mới cũng như cần khoảng 60.000 tỷ đồng để đầu tư thì mới đáp
ứng nhu cầu tăng trưởng. Nhưng nan giải ở chỗ, phải giải quyết được sự
phân bố không đồng đều giữa các vùng. Các cảng phía Bắc chiếm 25-30%
khối lượng nên công suất vẫn còn thừa. Các cảng miền Trung chiếm 13%,
đang ở tình trạng thiếu hàng hóa, chỉ sử dụng một phần công suất, còn
các cảng phía Nam chiếm 57%, riêng container đến 90%, hiện đang ở tình
trạng quá tải”.
Khả năng cạnh tranh về dịch vụ cảng
biển Việt Nam cũng kém xa so với khu vực và quốc tế: “Việt Nam hiện chỉ
thu 32 USD trên một đơn vị vận tải TEU (tương đương container 20 feet),
trong khi mức phí này là 55 USD ở Thái Lan, 76 USD ở Trung Quốc, 117 USD
ở Singapore. Rẻ như thế, nhưng Việt Nam vẫn rất vất vả để thu hút khách
quốc tế". Tại một số cụm cảng nước sâu, kể cả ở những nơi đã có nỗ lực
mở nhiều tuyến đường biển trực tiếp đi Mỹ, EU… tình trạng “ngồi chơi xơi
nước” đã diễn ra. Chất lượng dịch vụ hậu cần kém, lạc hậu, sự đầu tư
dàn trải thiếu chiều sâu, công nghệ bốc xếp đơn giản, năng suất xếp dỡ
kém và hạ tầng giao thông thiếu kết nối, không đáp ứng đủ nhu cầu… khiến
nhiều cảng và đội tàu container mới chỉ làm dịch vụ trung chuyển cho
các cảng trong khu vực, mặc dù công suất thiết kế trên lý thuyết "không
thua kém" đối thủ.
Những số liệu trên cho thấy sự tương
phản giữa quy hoạch vĩ mô và thực tế. Ai cũng biết, cảng biển là kết cấu
hạ tầng quan trọng của kinh tế hàng hải, nó phải đi trước một bước để
thúc đẩy các ngành kinh tế biển khác phát triển. Thời gian qua, việc này
đã diễn ra không như ý muốn. Có người nói rằng do thiếu vốn đầu tư,
cũng có quan điểm cho là do tư duy hạn hẹp. Nhưng sự thật hiển nhiên là
tuy đã có chừng ấy cảng biển được phương tiện thông tin đại chúng giới
thiệu là “tầm cỡ khu vực, thế giới”... song chưa có cảng nào có thể tiếp
nhận tàu container sức chở 3000TEUs, trong khi các cảng Thái Lan,
Singapore, Thượng Hải… đang chuẩn bị đón các tàu 14.500 TEUs.
Chuẩn bệnh quy hoạch
Nhiều người lại cho rằng, đây là hậu
quả của một tầm nhìn hạn hẹp trong quy hoạch hệ thống cảng biển Việt
Nam. Tuy nhiên, ngẫm cho cùng thì chẳng có riêng gì vấn đề cảng biển.
Quy hoạch manh mún và tầm nhìn thiển
cận là nguyên nhân chính khiến một số công trình tiền tỷ ở Thủ đô vừa
xây xong có nguy cơ phá bỏ. Gần đây, dư luận bất ngờ khi thông tin 3 cây
cầu vượt trị giá gần 5.000 tỷ đồng vừa đưa vào sử dụng hơn 5 năm đang
có nguy cơ phải phá bỏ. Tuy nhiên PGS. TS. Bùi Xuân Cậy - Trưởng khoa
Công trình, Đại học Giao thông Vận tải lại chẳng lấy làm ngạc nhiên. Ông
cho rằng, không chỉ ba cầu vượt mà nhiều công trình tiền tỷ khác ở Thủ
đô, nếu vẫn giữ cách quy hoạch và tầm nhìn như vậy thì nguy cơ sẽ còn
phải đập bỏ nhiều.
Tuy đã phát triển hàng chục năm, nhưng
giao thông Thủ đô vẫn chưa có quy hoạch phát triển chi tiết, Quy hoạch
phát triển Giao thông vận tải Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn 2050 vẫn đang
phải điều chỉnh và chờ phê duyệt. Do chưa có quy hoạch chi tiết nên các
công trình giao thông phát triển manh mún, công trình làm trước, quy
hoạch, phê duyệt sau. Thấy chỗ nào ùn tắc thì tổ chức phân luồng, xây
cầu vượt mà không nhìn rộng xem nguyên nhân sâu xa là gì. Ùn tắc ở Hà
Nội hiện nay có các nguyên nhân chính, do mặt đường hạn hẹp; đầu tư,
triển khai chưa đúng mức; Thủ đô vẫn chưa có được những công trình giao
thông (đường vành đai, đường sắt đô thị, tàu điện ngầm…) đúng tầm; và
một nguyên nhân sâu xa hơn là để dân cư tập trung quá đông vào khu vực
nội thành.
Còn một thực tế khác, các dự án khi đã
được phê duyệt lại chưa được đầu tư đúng mức, nên nhiều dự án quan
trọng cần làm ngay thì vẫn nằm yên trên giấy, như dự án đường sắt đô
thị… Và thay vì đầu tư, dồn sức cho các dự án trọng điểm này hoàn thành
thì cơ quan có trách nhiệm lại vẽ nhiều dự án khác, vừa tốn tiền của vừa
không mang lại hiệu quả giao thông cao.
Trở lại câu chuyện về 3 cây cầu vượt,
lý do mà tuổi đời của nó có thể đạt kỷ lục ngắn ngủi nhất thế giới là do
nó chỉ là giải pháp tình thế, giải quyết các nút ùn tắc giao thông
trong lúc giao thông Thủ đô phát triển chưa ổn định và chưa có quy hoạch
rõ ràng. Bởi vậy khi có các quy hoạch mới, được cho là phù hợp hơn, thì
phương án phá bỏ 3 cây cầu vượt Ngã Tư Vọng, Ngã Tư Sở và Mai Dịch được
đầu tư nhiều nghìn tỷ đồng đã được tính tới.
Cũng lại giao thông, nhưng tại TP. Hồ
Chí Minh kẹt đường và ngập nước đã trở thành vấn nạn. Nhiều người thắc
mắc, những lời cảnh báo đã được nói đến cách đây cả chục năm. Tuy nhiên,
hết năm này qua năm khác vẫn chẳng có biện pháp, giải pháp nào khả thi,
nếu chưa muốn nói là đã thực hiện nhiều chủ trương ngược lại. Đến nay,
nhiều nguyên nhân bị đổ lỗi, nhưng có nguyên nhân giao thông không chịu
đi một bước thì ít được nhắc tới. Nguyên Phó chủ tịch Hội nhà báo - Đinh
Phong bức xúc đưa ý kiến: "Thành phố đã không dám nhìn thẳng nguyên
nhân. Phải nói thẳng với nhau rằng tầm nhìn của chúng ta kém, quản lý đô
thị, quản lý giao thông kém. Nên bây giờ nước đến chân... không nhảy
nổi”.
Thiếu tầm hay thiếu tiền?
Cuối cùng mọi sai sót đều được đổ lỗi
cho cái nghèo. Thiếu tiền để tính toán những thứ to tát hơn, để đầu tư
những thứ có tầm hơn, nên phải rách đâu vá đấy thôi. Có thật vậy không?
Khi nhiều nghìn tỷ đồng lần lượt đội nón ra đi, vì những lý do chẳng
biết nói là gì.
Chẳng hạn, mới đây, người ta nói đến
số phận khoảng 750 dự án tại Thủ đô đang "nằm trên thớt" để chờ xem liệu
có phù hợp với Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030 và tầm nhìn
đến năm 2050 mới được phê duyệt hay không, mặc dù những dự án này đã
từng được phê duyệt. Đây là con số không nhỏ một lần nữa lại nói lên
tính chất "chồng chéo trong quy hoạch” .
Tất nhiên, không phải 100% dự án sẽ bị
đình hoãn, chuyển đổi mục đích. Nhưng hệ lụy của nó tất yếu là sự lãng
phí về tiền của khi các chủ đầu tư đã bỏ tiền vào đó rồi lại phải ngậm
ngùi nhìn các dự án bị đình hoãn, nếu không muốn nói là bị phá hủy. Có
lẽ, số phận của 750 dự án nói trên không phải là trường hợp hy hữu khi
trước đó, hàng loạt các scandal tốn kém như giãn dân phố cổ, phá bỏ nhà
siêu mỏng, siêu méo, các khu biệt thự bỏ hoang... đã và vẫn đang diễn
ra.
Gs. Nguyễn Mại – Nguyên Phó Chủ nhiệm
Ủy ban nhà nước về hợp tác đầu tư đưa ra một con số khá ấn tượng: Ước
tính mỗi năm Việt Nam đầu tư 6 tỷ USD cho xây dựng các dự án– một con số
đáng kể để chúng ta sẽ không có một dự án tới 10 năm không hoàn thiện
như dự án khu công nghệ cao Hòa Lạc; có dự án xây dựng nhiều năm sau mới
thông đường như dự án cầu Vĩnh Tuy; đấy là còn chưa kể năm nào cũng như
năm nào, đến hẹn lại... đào lên lấp xuống vỉa hè, các tuyến đường không
chỉ gây lãng phí về tiền.
Vi mô hơn, thực trạng quy hoạch các
khu công nghiệp, khu chế xuất cũng không mấy sáng sủa. Trong gần 20 năm
qua, cả nước đã hình thành một hệ thống trên 130 khu công nghiệp, khu
chế xuất, chiếm 26.517 ha diện tích đất tự nhiên, song nhiều khu công
nghiệp, khu chế xuất tuy được hình thành nhưng để "cỏ mọc", gây nên tình
trạng lãng phí quỹ đất, nhất là đất nông nghiệp. Nhiều quy hoạch
"treo", treo hàng chục năm trời, trong khi người dân thiếu đất canh tác.
Các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có sự kết hợp hài hòa giữa quy
hoạch ngành với quy hoạch lãnh thổ, nên không tận dụng được lợi thế so
sánh, đôi khi còn cạnh tranh gay gắt, xung đột lợi ích ngay trong nội
bộ.
Những giải pháp bị bỏ quên
Rõ ràng, quy hoạch là tiền đề cho mọi
sự phát triển đúng hướng. Thông thường, quy hoạch của chúng ta chỉ giới
hạn đến 20 năm, nên khó tránh khỏi bị phá vỡ chỉ vài năm sau khi được
duyệt. Tuy nhiên nếu những quy hoạch mới cũng chỉ đến 2020, định hướng
đến 2030 thì chắc không có gì thay đổi lớn, vì hoạt động của một cảng
biển có thể đến hàng trăm năm hoặc lâu hơn. Cảng Rotterdam của Hà Lan
hình thành từ 1860 đến nay đã 147 năm mà vẫn còn sầm uất, hiện đại và là
cảng lớn nhất Châu Âu.
Trong thời gian này, khu vực châu Á -
Thái Bình Dương sẽ đầu tư khoảng 246 tỷ USD cho vận tải biển, trong đó
60% dành cho cảng biển và đội tàu. Mức tăng trưởng của các cảng biển lớn
trên thế giới tuy cao, nhất là ở Trung Quốc, nhưng do được quy hoạch
khoa học và đồng bộ với tầm nhìn chiến lược rộng và xa, nên xác suất dự
báo tăng trưởng không lớn so với thực tế. Đây chính là sự khác biệt với
quy hoạch của Việt Nam.
Quy hoạch không phải là phép cộng cơ
học của những kế hoạch ngắn hạn. Chất lượng quy hoạch gắn với tầm nhìn
hoạch định chính sách kinh tế - xã hội và gắn với các dự báo. Thiếu tầm
nhìn xa, thiếu tính dự báo, các quy hoạch sẽ rời rạc, chắp vá, thiếu
liên kết, kém bền vững, không hiệu quả, gây lãng phí về cơ hội, về tài
nguyên, đất đai, vốn đầu tư, nguồn nhân lực… Lý thuyết là thế, nhưng
trên thực tế có làm được như vậy hay không, làm có hiệu quả không lại là
cả một vấn đề. Thủ đô cũng đã loay hoay tìm lời giải cho bài toán quy
hoạch từ nhiều chục năm về trước và cũng đã điều chỉnh quy hoạch nhiều
lần, thế nhưng chỉ chuyện quy hoạch nào cần làm trước, quy hoạch nào là
tiền đề... đã là cả câu chuyện dài.
Quy hoạch kiến trúc nhìn ở một khía
cạnh nào đó có thể xem là "nghệ thuật sắp đặt" phát triển kinh tế - xã
hội tương lai. Ví như, nếu ngành giáo dục - đào tạo không thật sự bắt
tay vào quy hoạch cho ngành mình, chỉ ra được việc cần có bao nhiêu
trường học, lượng học sinh ra sao, ngành y tế không làm rõ việc cần có
bao nhiêu bệnh viện, quy mô thế nào, rồi ngành công thương không định
hình được bao nhiêu khu công nghiệp, bao nhiêu siêu thị cho tương lai?…,
chắc chắn Sở Quy hoạch - Kiến trúc và cơ quan làm quy hoạch cũng phải
bó tay! "Tô xanh, vẽ đỏ" cho một đồ án quy hoạch không khó với một nhân
viên đồ bản, nhưng giải bài toán tổng thể cho quy hoạch không thể là đơn
giản bôi đỏ, vẽ xanh.
Nếu không có thay đổi về tư duy và
cách làm quy hoạch thì không thể giải quyết những bùng nhùng của đô thị
hiện nay. Quy hoạch không phải việc của riêng ai. Chứng bệnh nan y của
đô thị cần được chữa từ tâm bệnh, từ nhận thức của mỗi ngành về công tác
quy hoạch; từ việc triển khai xây dựng và tổ chức thực hiện; từ sự phối
hợp giữa các ngành, các cấp, các địa phương trong việc xây dựng và quản
lý quy hoạch… Chữa được căn bệnh này, chắc chắn chúng ta sẽ không phải
"gọt chân cho vừa giày". Ngoài ra, theo Gs. Nguyễn Mại, bất cứ một vấn
đề gì cũng cần phải có phản biện xã hội. "Giá như trước khi bịt ngã tư,
giá như trước khi ngầm hóa các đường điện trên cao... thành phố lắng
nghe ý kiến phản biện thì đâu có chuyện bịt ngã tư xong lại mở, mở xong
lại bịt...”.
Nguyễn Lê
|