Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2011

9.Ý nghĩa thực chất việc Mỹ chuyển trọng tâm sang châu Á-Thái Bình Dương

NCBĐ-Sau Hội nghị APEC ở Hololulu, Hội nghị cấp cao Đông Á ở Bali cũng như sau bài phát biểu của Tổng thống Mỹ Barack Obama tại Quốc hội Ôxtrâylia, việc Mỹ chuyển trọng tâm chính sách ngoại giao sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương lập tức trở thành chủ đề nóng bỏng của dư luận. Dưới đây là những phân tích của đai sứ Hứa Thông Mỹ, từng là đại diện của Xinhgapo tại Liên hợp quốc, về vấn đề cũng như phản ứng của các nước trong khu vực đối với sự thay đổi này. 

Vấn đề thứ nhất: Rốt cuộc, Mỹ đã đưa ra kiến nghị gì? 
Kiến nghị của Mỹ bao gồm 7 luận điểm sau: 
Thứ nhất, Mỹ là cường quốc Thái Bình Dương hoặc cường quốc trong khu vực, không phải là thế lực bên ngoài. Do đó, Mỹ có nghĩa vụ lâu dài đối với khu vực, cũng sẽ lưu lại khu vực. Thứ hai, Mỹ chú trọng đến châu Á-Thái Bình Dương hơn các khu vực khác. Việc này xuất phát từ nhận thức được rằng trong thế kỷ 21, các nền kinh tế có sức sống nhất thế giới nằm ở châu Á-Thái Bình Dương và thực lực kinh tế đang dần chuyển dịch từ phương Tây sang phương Đông. Đồng thời, chỉ trong trường hợp kinh tế Mỹ kết nối được với các nền kinh tế châu Á-Thái Bình Dương thì Chính quyền Obama mới có thể thực hiện được mục tiêu kép là tăng xuất khẩu và tạo việc làm. Thứ ba, sau khi rút quân khỏi Irắc và giảm quân ở Ápganixtan, Mỹ sẽ tăng cường ảnh hưởng của quân Mỹ tại châu Á-Thái Bình Dương. Gần đây, việc Mỹ quyết định cử thêm 250 binh sĩ thuộc lực lượng lính thủy đánh bộ tới đóng tại Darwin (Bắc Ôxtrâylia), nâng số quân đóng tại đây lên 2.500 người càng cho thấy dụng ý đó. Thứ tư, Mỹ sẽ tăng cường mối quan hệ kinh tế với khu vực châu Á-Thái Bình Dương về mậu dịch, đầu tư và thương mại. Mấy năm gần đây, Mỹ đã để rơi một góc thị phần tại đây vào tay Liên minh châu Âu (EU) và Trung Quốc. Ví dụ: Trước đây, Mỹ luôn là đối tác mậu dịch lớn thứ hai của ASEAN và các nước thành viên tổ chức này, nhưng hiện nay đã tụt xuống vị trí thứ ba hoặc thứ tư. Tuy nhiên, trên phương diện số lượng hiệp định tự do thương mại song phương hoặc đa phương ký kết với các nước châu Á, Mỹ chỉ đứng sau Trung Quốc, dẫn trước EU. Thứ năm, Mỹ sẽ thổi sức sống mới vào quan hệ với các nước đồng minh Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia và Philíppin. Thứ sáu, Mỹ sẽ sử dụng Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) làm công cụ chủ yếu để giảm bớt rào cản thương mại và đầu tư, thúc đẩy tương tác kinh tế lẫn nhau tại châu Á-Thái Bình Dương. Thứ bảy, Mỹ đã nâng tầm quan trọng của ASEAN. Gần đây, Tổng thống Obama đã tổ chức Hội nghị thượng đỉnh thường niên lần thứ ba với nguyên thủ các nước ASEAN tại Bali. Việc Obama mong muốn tiếp xúc với Mianma và khuyến khích Mianma tiến lên trên con đường dân chủ là sự thay đổi mới mà mọi người mắt thấy tai nghe. 
Vấn đề thứ hai: Chính sách của Mỹ là nhằm vào Trung Quốc? 
Giới truyền thông vốn thích những chủ đề có tính tranh cãi. Do đó, việc rất nhiều phóng viên và bình luận viên lý giải chính sách của Mỹ là nhằm vào Trung Quốc không có gì bất ngờ. Những lời nói ngày càng chống Trung Quốc đến từ Chính phủ và Quốc hội Mỹ càng làm tăng thêm độ tin cậy của quan điểm này. Kỳ thực, những lời nói đó là nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cử tri trước cuộc tổng tuyển cử tại Mỹ diễn ra vào tháng 11/2012. Tôi tin rằng quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc không phải là “trò chơi được mất ngang nhau”. Trung Quốc trỗi dậy không có nghĩa là Mỹ đi xuống. Tương tự, tôi không cho rằng Trung Quốc coi việc Mỹ thực hiện chính sách “trở lại châu Á” là gây tổn hại tới lợi ích của Trung Quốc. Châu Á và khu vực châu Á-Thái Bình Dương đủ lớn để dung nạp một Trung Quốc đang trỗi dậy và một nước Mỹ phục hưng. 
Trung Quốc trỗi dậy là không thể ngăn chặn 
Tổng thống Obama đã nhiều lần khẳng định kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy không phải là chính sách của Mỹ. Ở đây, tôi xin nhấn mạnh thêm rằng cho dù dưới bất cứ chính quyền nào, Mỹ sẽ không thành công trong việc kiềm chế hoặc gây trở ngại đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Theo tôi, xu thế trỗi dậy của Trung Quốc là không thể ngăn chặn được. Một số người bạn Trung Quốc của tôi ngờ rằng Mỹ đang thử xây dựng một liên minh chống Trung Quốc, bao gồm các đồng minh và những nước dân chủ khác. Tôi không cho rằng đây là chính sách của Tổng thống Obama, nhưng tôi thừa nhận có một số người Mỹ muốn làm như vậy. Tuy nhiên, dù chính quyền tương lai của Mỹ muốn làm như vậy, họ cũng sẽ không thành công. Lấy ASEAN làm ví dụ, họ vĩnh viễn sẽ không gia nhập một liên minh như vậy. ASEAN không sợ một Trung Quốc ngày một phồn vinh, lớn mạnh và có sức ảnh hưởng. ASEAN đã thu được nhiều lợi ích từ sự phồn vinh của Trung Quốc, cũng kiên quyết duy trì quan hệ hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc. Nhưng ASEAN cũng biểu thị một cách rõ ràng với Trung Quốc rằng chính sách láng giềng thân thiện và phát triển hòa bình của họ đang được khảo nghiệm tại Biển Đông. 
Khi ở Mỹ, tôi thường được hỏi rằng ASEAN có ủng hộ Trung Quốc không. Khi ở Trung Quốc, tôi lại thường được hỏi rằng ASEAN có ủng hộ Mỹ không. Mỗi lần như vậy, tôi đều trả lời: Điều quan trọng nhất của ASEAN là ủng hộ ASEAN. Kỳ thực, trong đại gia đình ASEAN, một số thành viên tương đối thân cận với Mỹ, một số thành viên khác lại tương đối thân cận với Trung Quốc. Nhưng với vai trò của một tổ chức khu vực, ASEAN sẽ giữ thái độ trung lập, không ủng hộ cường quốc này chống lại cường quốc kia. Mục tiêu của ASEAN là giao lưu với tất cả những nước có lợi ích liên quan, đưa những nước này vào một khung hợp tác để thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực. Đây chính là nguyên nhân khiến ASEAN mời Mỹ và Nga tham dự Hội nghị cấp cao Đông Á, cũng là nguyên nhân thúc đẩy ASEAN xây dựng quan hệ đối tác đối thoại với các cường quốc chủ yếu của khu vực, gồm Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia, Niu Dilân và EU.
Tôi cũng không cho rằng Ấn Độ sẽ gia nhập liên minh chống Trung Quốc do Mỹ làm chủ đạo. Giữa Ấn Độ và Trung Quốc tồn tại một số bất đồng, hai bên cũng thiếu sự tin tưởng lẫn nhau, nhưng vẫn có rất nhiều lợi ích chung. Giống như Thủ tướng Ấn Độ M. Singh thường nói: Thế giới đủ rộng để dung nạp một Trung Quốc và một Ấn Độ đang trỗi dậy. Tôi tin rằng Ấn Độ sẽ tuân thủ di nguyện của Nehru, tìm kiếm con đường của mình trong thế giới. 
Vấn đề thứ ba: TPP có phải là công cụ Mỹ dùng để chống lại Hiệp định Tự do thương mại ASEAN+3 hay không? 
Bắc Kinh có một nhìn nhận thế này: TPP được Mỹ thiết kế nhằm chống lại Hiệp định Tự do Thương mại ASEAN+3. Đây là một quan điểm sai lầm. Trước tiên, TPP không phải do người Mỹ khởi xướng. Năm 1994, khi nhóm họp tại Bogor, các nhà lãnh đạo APEC đã đưa ra tầm nhìn về tự do thương mại và đầu tư tại khu vực Thái Bình Dương. Theo đó, tầm nhìn này được hoàn thành trong các nền kinh tế phát triển vào năm 2010 và các nền kinh tế đang phát triển vào năm 2020. Sau đó, Ủy ban tư vấn doanh nghiệp APEC đã thuyết phục lãnh đạo các nước thành viên chấp nhận mục tiêu xây dựng Khu vực mậu dịch tự do châu Á-Thái Bình Dương (FTAAP). Năm 2002, ba nền kinh tế nhỏ của APEC là Chilê, Niu Dilân và Xinhgapo bắt đầu đàm phán về TPP, coi đó là phương pháp thực tế để đạt được mục tiêu FTAAP. Sau này, Brunây cũng tham gia đàm phán về TPP. Phải tới năm 2008, Mỹ mới tham gia đàm phán về TPP. Bên cạnh đó phải thấy rằng TPP là một hiệp định mở, chỉ cần tự nguyện và có thể đạt đến trình độ mà TPP yêu cầu, bất cứ nền kinh tế thành viên APEC nào cũng đều có thể đề nghị được tham gia. TPP quy định sự tham gia của một nền kinh tế mới cần phải được sự nhất trí của tất cả các thành viên hiện hữu. Năm 2004, khi mới bắt đầu, TPP chỉ có 4 thành viên, hiện nay có 9 đối tác tham gia đàm phán. Tại Hội nghị APEC ở Hololulu , Canađa , Nhật Bản và Mêhicô đã bày tỏ mong muốn gia nhập TPP. Tôi hy vọng Trung Quốc cũng sẽ xem xét việc gia nhập TPP. Trung Quốc không cần đợi tới khi nhận được lời mời. Khi nhận được sự ủng hộ của 21 nền kinh tế thành viên APEC, TPP sẽ trở thành FTAAP, tầm nhìn và mục tiêu Bogor sẽ thành hiện thực. FTAAP sẽ là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới. Thứ ba, Trung Quốc không nên nghĩ rằng Hiệp định thương mại tự do ASEAN+3, Hiệp định thương mại tự do ASEAN+6 và TPP sẽ bài trừ lẫn nhau. Xinhgapo cho rằng chúng sẽ bổ sung cho nhau. Chúng tôi tin rằng tự do thương mại và đầu tư đem lại lợi ích cho tất cả các nước. Do đó, chúng tôi ủng hộ tất cả những chương trình thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư, cho dù nó là song phương, khu vực, liên khu vực hay mang tính toàn cầu. Trên thực tế, một số cạnh tranh có thể giúp đẩy mạnh tự do hóa kinh tế. 
Kết luận 
Trước tiên, tôi cho rằng vai trò của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương là tích cực. Mỹ đã hỗ trợ gìn giữ hòa bình và ổn định cũng như có vai trò trong sự phát triển về kinh tế, xã hội và chính trị của các nước trong khu vực. Do vậy, tôi hoan nghênh chính quyền của Tổng thống Obama chuyển trọng tâm tới châu Á-Thái Bình Dương. Vì Tổng thống Mỹ không thể làm quá hai nhiệm kỳ, nên ông Obama cần tìm kiếm biện pháp nhằm chế độ hóa sự chuyển dịch mang tính quy phạm này trong chính sách của Mỹ. Thứ hai, sự phồn vinh của Trung Quốc đã mang tới sự tốt đẹp cho khu vực. Khi thực lực và sức ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng tăng, thế giới sẽ kỳ vọng Trung Quốc có trách nhiệm lớn hơn đối với cộng đồng quốc tế. Tôi cũng hi vọng Trung Quốc tiếp tục chính sách láng giềng thân thiện và nghiêm túc tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế. Thứ ba, ASEAN không hy vọng nhìn thấy một cuộc Chiến tranh Lạnh mới giữa Mỹ và Trung Quốc. Hai nước dù vẫn tồn tại những bất đồng lớn, nhưng cũng có rất nhiều lợi ích chung. Vì vậy, cách làm thông minh là khi nhất trí về lợi ích thì tiến hành hợp tác với nhau, khi không nhất trí về lợi ích thì cạnh tranh với nhau. Mỹ và Trung Quốc nên xử lý bất đồng bằng biện pháp mang tính xây dựng. Việc coi nhau là địch thủ, tiến hành cạnh tranh theo kiểu trò chơi được mất ngang nhau không phải là lựa chọn sáng suốt. 
Báo Liên hợp Buổi sáng (Xinhgapo) ngày 5/12
Viết Tuấn (gt)