Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2011

1.Biển Đông: Sự trỗi dậy của Trung Quốc và tác động đối với hợp tác an ninh

NCBĐ-Những tuyên bố và hành động nhằm khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đang gây căng thẳng giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng Đông Nam Á. Mỹ, Nhật Bản và Úc cũng thể hiện sự quan ngại đối với an ninh của các tuyến đường thông thương trên biển tại Biển Đông. Bài tham luận[1] sẽ phân tích những thách thức trên biển này và xem xét những hệ lụy đối với hợp tác an ninh giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng bao gồm Nhật Bản và Mỹ.

GS. Koichi Sato (giữa)
GS. Koichi Sato (giữa)

Tháng 3 năm 2010[2], các nhà ngoại giao Trung Quốc đã thông báo với quan chức chính quyền Obama rằng Trung Quốc (Cộng hòa nhân dân - CHND Trung Hoa) sẽ không dung thứ cho bất cứ hành động can thiệp nào tại Biển Đông, nơi mà hiện nay Trung Quốc coi là một phần “lợi ích cốt lõi” thuộc chủ quyền Trung Quốc. Lực lượng Hải quân Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (viết tắt tiếng Anh: PLA, viết tắt tiếng Việt: QĐGPND – chú thích: người dịch) và các cơ quan an ninh hàng hải Trung Quốc đã bắt đầu triển khai tàu chiến và tàu tuần tra tại Biển Đông. Căng thẳng giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng Đông Nam Á đang leo thang. Mỹ, Nhật Bản và Úc cũng thể hiện sự quan ngại đối với an ninh của các tuyến đường thông thương trên biển (viết tắt – tA: SLOC) tại Biển Đông. Cũng có ý kiến cho rằng Hải quân Trung Quốc đang có kế hoạch phát triển tàu sân bay. Bài tham luận này sẽ phân tích những thách thức trên biển này và xem xét những hệ lụy đối với hợp tác an ninh giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng bao gồm Nhật Bản và Mỹ.
Khái quát về xung đột tại Biển Đông
Biển Đông có bốn nhóm đảo, gồm quần đảo Đông Sa (tiếng Anh: Pratas); quần đảo Hoàng Sa; bãi Trung Sa và quần đảo Trường Sa (xem Hình 1). Đài Loan đã chiếm đóng quần đảo Đông Sa vào năm 1946, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa sau vụ đụng độ trên biển giữa Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa vào năm 1974. Tất cả đảo đá tại bãi Trung Sa đều là bãi chìm, trừ hai đá thuộc bãi Scarborough do quân đội Phi-lip-pin chiếm đóng.
Trọng tâm chính là các tranh chấp lãnh thổ tại quần đảo Trường Sa. Theo nhiều nguồn tư liệu của Trung Quốc, diện tích biển quanh quần đảo Trường Sa rộng khoảng 800 nghìn cây số vuông, chiếm khoảng 38% tổng diện tích Biển Đông. Khu vực này bao gồm 230 đảo, đá chìm và đảo nhỏ[3]. Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam đều đưa ra yêu sách đối tất cả các đảo, đá chìm, đảo nhỏ; trong khi đó Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a và Bru-nây chỉ đưa ra yêu sách với một số đảo và đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa. Bốn bên đưa ra yêu sách, như Bru-nây, Ma-lai-sia, Phi-líp-pin và Việt Nam là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (viết tắt: ASEAN).
 
Hình 1: Đường đứt đoạn chữ U và các đảo tại Biển Đông
Vùng biển bao quanh quần đảo Trường Sa được đánh giá là giàu có về nguồn lợi dầu mỏ và hải sản. Đó là lý do chính khiến tất cả các bên yêu sách khẳng định quyền chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có bên nào thành công trong việc tìm kiếm dầu mỏ. Các chuyên gia Nhật Bản cũng tỏ ra bi quan đối với việc sản xuất dầu mỏ và khí đốt tại vùng biển bao quanh quần đảo Trường Sa[4]. Đúng là có một số mỏ dầu hoặc mỏ khí đốt tự nhiên đã được tìm thấy tại Biển Đông, nhưng các mỏ này nằm tại những khu vực trũng địa chất thuộc các vùng duyên hải Việt Nam, Sabah và Sarawak của Ma-lai-sia và quần đảo Natuna của In-đô-nê-sia. Không có một mỏ dầu khí nào được tìm thấy quanh quần đảo Trường Sa, bởi quần đảo này nằm ở vùng biển giữa và sâu của Biển Đông.
Về nguồn lợi hải sản tại Biển Đông, bao gồm vùng biển bao quanh quần đảo Trường Sa, các thống kê mới đây cho thấy có khoảng 11,5 tỷ tấn cá được đánh bắt vào năm 2001 (trong đó, Trung Quốc: 3,4 triệu tấn; In-đô-nê-sia: 2,9 triệu tấn; Thái Lan: 1,9 triệu tấn; Việt Nam: 1,5 triệu tấn, Phi-líp-pin: 0,9 triệu tấn, Ma-lai-sia: 0,7 triệu tấn) [5]. Các thông kê cũng cho thấy Trung Quốc đánh bắt 5 triệu tấn hải sản vào năm 1989. Điều đó cho thấy khả năng đánh bắt cá tại Biển Đông đang giảm xuống[6].
Về tình hình chiếm đóng hiện nay tại quần đảo Trường Sa (cụ thể là sự có mặt của quân đội tại đây), Đài Loan đã chiếm đóng vào năm 1947, Phi-lip-pin vào năm 1956, Việt Nam Cộng hòa vào năm 1974 và Trung Quốc vào năm 1988[7]. Chính phủ Trung Quốc khẳng định chủ quyền của họ trên toàn bộ quần đảo Trường Sa vào tháng 8/1951 mặc dù Hải quân Trung Quốc là bên có mặt muộn nhất trong nhóm các bên yêu sách tại quần đảo này. Tàu khu trục Giang Đông (Jiangdong) của Hải quân Trung Quốc đã tấn công các tàu chở lính của Việt Nam tại vùng biển quanh bãi Gạc Ma của quần đảo Trường Sa vào tháng 3/1988, làm chìm hai tàu của Việt Nam và làm hư hại một tàu khác[8].
Hải quân Trung Quốc đã dựng cột mốc lãnh thổ tại Đá Gaven vào tháng 7/1992 và Bộ trưởng ngoại giao các nước ASEAN đã thể hiện sự quan ngại của họ tuy nhiên họ không nhắc đến Trung Quốc trong Tuyên bố về Biển Đông[9]. Hải quân Trung Quốc cũng xây dựng một số đồn bốt quân sự cho lính đóng quân trên bãi đá ngầm Vành Khăn mà cả Việt Nam và Phi-líp-pin cũng yêu sách chủ quyền, vào tháng 2/1995 và sau đó họ đã mở rộng những cơ sở này vào tháng 10/1998[10]. Bộ trưởng ngoại giao của các nước ASEAN đã công bố Tuyên bố về bãi Vành Khăn vào tháng 3/1995[11],. Các quốc gia ASEAN đã không hài lòng với Trung Quốc vì sự thống trị quân sự của nước này ở Biển Đông. Kể từ đó, các quốc gia ASEAN sử dụng ngoại giao hội nghị[12] để giải quyết xung đột Biển Đông một cách hòa bình.
Các nhà lãnh đạo ASEAN bắt đầu tìm kiếm các cách thức giải quyết hòa bình cho xung đột Biển Đông tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF - diễn đàn này bắt đầu từ năm 1994) và tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc (khởi động từ năm 1997). Họ đã lên kế hoạch cho Bộ quy tắc ứng xử khu vực tại Biển Đông (viết tắt – COC) để ngăn chặn các yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông[13]. Các nước ASEAN đã đàm phán với Trung Quốc trong nhiều năm và cuối cùng các bên cũng đi tới ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên tại Biển Đông (viết tắt: DOC) tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc vào ngày 4/11/2002[14].
 Về tình hình chiếm đóng các đảo, đá tại quần đảo Trường Sa, một học giả người Phi –líp-pin cho biết “Trung Quốc chiếm 7, Đài Loan chiếm 1, Việt Nam 21, Ma-lai-si-a chiếm 5 và Phi-líp-pin chiếm 9, tổng cộng là 43 đảo bị chiếm đóng”. Tuy nhiên, hải quân Trung Quốc khẳng định Việt Nam đang chiếm 29 đảo, đá. Một học giả người Trung Quốc cho biết “Trung Quốc chiếm 6 đảo, đá” [15]. Trung Quốc đã vạch ra đường đứt đoạn hình chữ U tại Biển Đông (xem hình 1), và giới ngoại giao Trung Quốc gọi đường chữ U đứt đoạn là ranh giới của các vùng nước lịch sử của Trung Quốc một cách mơ hồ. Ngoài ra, luật lãnh hải của Trung Quốc đã đưa ra yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ các đảo tại Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa[16].
Yêu sách của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa rất yếu vì nó không xuất phát từ yếu tố cư trú lịch sử của người dân Trung Quốc. Yêu sách của bốn nước ASEAN cũng thiếu tính thuyết phục với cùng một lý do. Một học giả Nhật Bản có uy tín nhận định rằng không có bên yêu sách nào có thể đưa ra bằng chứng rõ ràng về việc chiếm cứ hữu hiệu tại quần đảo Trường Sa vào giai đoạn lịch sử cận đại. Mỗi bên đưa ra yêu sách đều có quyền tham gia vào đàm phán giải quyết vấn đề lãnh thổ[17].
Đọc toàn bộ bản dịch tại đây
Giáo sư. Koichi Sato, College of Liberal Arts, Đại học J. F. Oberlin, Tô-ky-ô, Nhật Bản

Bản gốc tiếng Anh: “South China Sea: China’s Rise and Implications for Security Cooperation”
Bài tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc tế lần thứ ba: Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia đồng tổ chức tại Hà Nội từ 4-5/11/2011.
 [1] Một số phần trong bài tham luận này được đăng trên bài viết của chính tác giả, Koichi Sato, “China’s ‘Frontiers’: Issues Concerning Territorial Claims at Sea - Security Implications in the East China Sea and the South China Sea-”, đây là bài tham luận được trình bày tại chương trình Global COE của Trung tâm nghiên cứu Sla-vơ, Đại học Hokkaido ( http://src-h.slav.hokudai.ac.jp/ ). Tác giả muốn dành những lời cám ơn đặc biệt tới Trung tâm nghiên cứu Sla-vơ vì đã hỗ trợ tác giả trong việc nghiên cứu các vấn đề biên giới biển. Những quan điểm trong tham luận này chỉ mang tính chất cá nhân, không đại diện cho bất cứ tổ chức nào.
[2] New York Times, 23 tháng 4 năm 2010. “Lợi ích cốt lõi của Trung Quốc” trong vấn đề lãnh thổ bao gồm Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương.
[3] Ji Guoxing, The Spratlys Disputes and Prospects for Settlement, Institute of Strategic and International Studies (ISIS) Malaysia, 1992, tr. 1.
[4] Akira Ishi và Kazuhiko Fuji, Sekai Wo Ugokasu Sekiyu Senryaku [Chiến lược dầu mỏ thế giới], Chikuma Publishing, 2003, tr. 136-140. Bộ Tài nguyên Đất đai của Trung Quốc đã tuyên bố một cách lạc quan rằng Biển Đông có thể có khoảng 23-40 tỷ tấn dầu mỏ (tương đương với 168 – 220 tỷ thùng dầu) và hơn 2000 nghìn tỷ khối (tcf) khí đốt tự nhiên. Tuy nhiên, một cuộc thăm dò địa chấn của Mỹ vào năm 1993/4 cho rằng chỉ có 28 tỷ thùng dầu, Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ cho rằng chỉ có khoảng 7 tỷ thùng dầu. Theo nguồn của Ralf Emmers, Geopolitics and Maritime Territorial Disputes in the South China Sea: From Competition to Collaboration? Joshua Ho, ed., Realising Safe and Secure Seas for All, Select Publishing, 2009, tr. 147.
[5] Guo Wenlu and Huang Shuolin, Nanhai Zhengduan Yu Nanhai Yuye Ziyuan Quyu Hezuo Guanli Yanjiu [Nghiên cứu xung đột biển Đông và Quản lý hợp tác các nguồn thủy sản ở biển Đông], Haijun Chubanshe, Beijing, 2007, tr. 91-104.
[6] Shigeo Hiramatsu, Chugoku No kaiyo Senryaku [Chiến lược hải quân Trung Quốc], Keiso Shobo Publishing, 1993, tr. 27.
[7] Tatsuo Urano, Nankai Shoto Kokusai Funso Shi [Lịch sử các cuộc xung đột quốc tế về các đảo ở biển Đông], Tosui Shobo Publishing, 1997, Tokyo, tr. 1106-1175.
[8] Jane’s Defence Weekly, 28 tháng 5 năm 1988, tr. 1072, Shao Yonglin, Haiyang Zhanguoce [Chiến lược chiến tranh hải quân của Trung Quốc], Shiyou Gongyue Chubanshe, 2010, tr. 165. Shao Yonglin là giáo sư tại Học Viện Pháo binh thứ hai và là Đại tá của PLA.
[9] New Straits Times, 10 tháng 7 năm 1992, Tuyên bố về Biển Đông, Hội nghị Bộ trưởng ASEAN, Manila, 22 tháng 7 năm 1992.
[10] Far Eastern Economic Review, 23 February 1995, pp. 14-16, Straits Times, 11 November 1998.
[11] Tuyên bố của Bộ trưởng các nước ASEAN về tình hình mới tại Biển Đông, Hội nghị Bộ trưởng ASEAN, Singapore, 18 tháng 3 năm 1995.
[12] Bộ trưởng các nước ASEAN gọi nguyên tắc hội nghị của họ là “phương cách ASEAN”, mặc dù nguyên tắc của các phiên họp như vậy còn rất mơ hồ. Chính vì thế, tác giả chia “phương cách ASEAN” trong ngoại giao hội nghị thành một bộ nguyên tắc gồm 6 đặc điểm. Thứ nhất, quá trình hoạch định chính sách dựa trên đồng thuận; thứ hai, việc duy trì đối thoại được đặt ưu tiên hơn so với giải quyết xung đột thông qua những người tham dự hội nghị; thứ ba, ASEAN cũng tiến hành đàm phán tập thể với các đối tác đối thoại bên ngoài; thứ tư, ASEAN tiến hành các hội nghị tùy theo thay đổi của môi trường quốc tế; thứ năm, ASEAN giữ toàn bộ hoặc một phần quyền tài trợ và chủ trì các cuộc họp; thứ sáu, ASEAN tiến hành các hội nghị không chính thức, bao gồm các cuộc họp trù bị cấp Bộ trưởng. Sáu thành tố của ngoại giao hội nghị kiểu ASEAN tạo thành gói quy tắc mà tác giả gọi là “Cơ chế ASEAN”. Xem Koichi Sato, “The ASEAN Regime: Its Implications for East Asian Cooperation – A Japanese View,” Tamio Nakamura ed., The Dynamics of East Asian Regionalism in Comparative Perspective, Institute of Social Science, University of Tokyo, 2007, tr. 19-30.
[13] Straits Times, 21/7/1999.
[14] Tuyên bố về Ứng xử của các bên tại Biển Đông, Phnom Penh, 4/11/2002.
[15] Rommel C. Banlaoi, Renewed Tensions and Continuing Maritime Security Dilemma in the South China Sea: A Philippine Perspective, Tran Truong Thuy ed., The South China Sea: Cooperation for Regional Security and Development, Diplomatic Academy of Vietnam, 2010, tr. 148, Shao, sđd., tr. 202, Li Guojiang, Zhongguo Chugoku To Shuuhen Kokka No Kaijou Kokkyo Mondai [Vấn đề biên giới biển giữa Trung Quốc và các nước láng giềng], Kyokai Kenkyu [Nhìn lại Biên giới Nhật Bản], No. 1, Trung tâm nghiên cứu Sla-vơ, Đại học Hokkaido, tr. 50.
[16] Far Eastern Economic Review, 27 April 1995, p. 28, People’s Daily, 26/02/1992.
[17] Hidekuni Takeshita, Minami Shina Kai Funso No keii To Ryouyuuken Mondai [Lịch sử xung đột biển Đông và các vấn đề lãnh thổ], tập 2, Ajiatorendo, 1992, IV, tr. 91.