22:0' 8/10/2011
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, vượt qua nhiều thách thức, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc với cơ sở bền vững truyền thống, được các nhà lãnh đạo tiền bối đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông trực tiếp kiến lập, dày công vun đắp, đã phát triển nhanh chóng và sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả hai bên.
Quan hệ hợp tác về chính trị, ngoại giao
Tháng 11-1991, Tổng Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc, đánh dấu chính thức bình
thường hóa và mở ra một trang sử mới trong quan hệ giữa hai nước. Kể từ
đó đến nay, lãnh đạo cấp cao hai nước thường xuyên có các chuyến thăm
chính thức và gặp gỡ bên lề hội nghị quốc tế, qua các cuộc gặp cấp cao.
Hai bên luôn nhấn mạnh, tình hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc là tài sản
quý báu của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, cần được hết
sức giữ gìn và không ngừng vun đắp; khẳng định sẽ làm hết sức mình để
đưa quan hệ đó ngày càng sâu sắc hơn, tin cậy hơn, cùng ủng hộ lẫn nhau
trong sự nghiệp đổi mới, cải cách mở cửa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên
thế giới.
Trong chuyến thăm Trung
Quốc của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Lê Khả Phiêu tháng 2-1999, hai nước xác định phương châm 16 chữ thúc
đẩy quan hệ hai nước trong thế kỷ XXI là "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai".
Tháng 12-2000, hai bên ký “Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong
thế kỷ mới”, đề ra những biện pháp cụ thể phát triển quan hệ hai nước
trên tất cả các lĩnh vực. Năm 2002, trong chuyến thăm chính thức Việt
Nam và phát biểu với sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa Giang Trạch Dân nhấn mạnh: “phát triển mối quan
hệ Việt- Trung phải lấy tin tưởng lẫn nhau làm cơ sở, ổn định lâu dài là
tiền đề, láng giềng hữu hảo là sự đảm bảo, hợp tác toàn diện là mấu
chốt, cùng nhau phát triển phồn vinh là mục tiêu”(1). Năm 2005, hai bên thỏa thuận đưa quan hệ hai nước phát triển trên phương châm “bốn tốt”: “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Đặc biệt, tháng 5-2008, trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức
Mạnh, hai bên thống nhất nâng tầm quan hệ thành “quan hệ đối tác và hợp tác chiến lược toàn diện”, đồng thời nhất trí thiết lập đường dây nóng giữa lãnh đạo cấp cao hai nước.
Hai bên duy trì trao
đổi đoàn và thiết lập cơ chế hợp tác, giao lưu giữa các cấp của hai
đảng.Hai đảng đã tổ chức 6 cuộc hội thảo khoa học về lý luận, kinh
nghiệm xây dựng đảng, quản lý nhà nước, về đổi mới, cải cách mở cửa, hội
nhập quốc tế. Giao lưu giữa thế hệ trẻ hai nước tiếp tục được duy trì
hằng năm. Quan hệ giữa các ngành như ngoại giao, an ninh, quốc phòng
tiếp tục được đẩy mạnh. Quan hệ giữa các địa phương hai nước cũng
được tăng cường với nhiều hình thức đa dạng và thiết thực như: trao đổi
đoàn các cấp, ký kết các văn bản hợp tác, cùng nhau tổ chức hội thảo,
triển lãm v.v..
Đối với
các vấn đề quốc tế, quan điểm xuyên suốt của hai nước là tôn trọng tính
đa dạng, lịch sử văn hóa, chế độ xã hội, mô hình phát triển, các vấn đề
nội bộ của các nước cũng như các nền văn minh trên thế giới, phản đối
chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền trong các công việc quốc tế,
cam kết có những đóng góp cho hòa bình, ổn định, phát triển ở châu Á,
thế giới và sự phát triển, phồn vinh, tiến bộ của nhân loại. Hai nước
đều mong muốn thiết lập một trật tự thế giới, công bằng và hợp lý hơn,
mong muốn các nước cùng phát triển, phồn vinh. Sự thống nhất về lý
tưởng, con đường đi đúng đắn, được chứng minh bằng chính thực tiễn hiện
tại là điểm chung vô cùng quan trọng mà hai nước cần thiết phải phát huy
và giữ vững.
Hợp tác về kinh tế
Về thương mại,
kim ngạch thương mại hai nước không ngừng phát triển trong 20 năm qua,
đặc biệt là trong những năm đầu thế kỷ XXI. Trung Quốc liên tục là bạn
hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam. Chỉ số trao đổi thương mại của
hai nước cho thấy mức độ gia tăng không ngừng của hợp tác kinh tế hai
nước và không ngừng vượt qua các kế hoạch và dự báo của hai bên cho mỗi
giai đoạn. Năm 1991, kim ngạch thương mại hai bên chỉ là 32 triệu USD.
Năm 2010, kim ngạch thương mại song phương đã lên tới 27,3 tỉ USD.
Trung Quốc trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Sáu tháng đầu năm
2011, kim ngạch thương mại hai nước đạt 15,7 tỉ USD, chiếm 33,1% tổng
kim ngạch ngoại thương của Việt Nam, dự kiến sẽ vượt 30 tỉ USD trong
năm 2011 và mục tiêu năm 2015 là 50 tỉ USD.
Về đầu tư trực tiếp,
nếu như trong 9 năm kể từ khi bình thường hóa (tháng 11-1991 đến tháng
12-1999), Trung Quốc mới có 76 dự án với tổng số vốn đầu tư theo giấy
phép là 120 triệu USD, thì 10 năm sau, tính đến hết năm 2010, Trung
Quốc đầu tư 743 dự án tại Việt Nam với số vốn đầu tư lên tới
hơn 3 tỉ USD, đứng thứ 11 trong tổng số 92 quốc gia và vùng
lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam.
Về viện trợ phát triển,
các khoản vay ưu đãi mà Trung Quốc dành cho Việt Nam từ năm 1992 đến
năm 2000 chủ yếu tập trung vào việc khôi phục, cải tạo và mở rộng các
nhà máy do Trung Quốc xây dựng trước đây. Từ năm 2000 đến nay, nguồn vốn
vay tín dụng ưu đãi từ Trung Quốc đã tăng lên mạnh mẽ và được hai nước
ưu tiên sử dụng trong các lĩnh vực mà Việt Nam đang cần: điện lực, khai
khóang, luyện kim, phân bón nông nghiệp, hóa chất, cơ khí. Chính phủ
Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam nhiều khoản viện trợ không hòan lại trong
việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh
tế - xã hội ở Trung Quốc; trao đổi các đoàn thanh, thiếu niên...
Bên cạnh đó, các bộ,
ngành của hai nước đã thường xuyên gặp gỡ, trao đổi và điều chỉnh, bổ
sung nội dung các hiệp định trong các lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương
mại nhằm không ngừng hòan thiện hành lang pháp lý cho hợp tác kinh tế và
trao đổi thương mại.
Năm 2010, Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA hay CAFTA) đã chính thức đi vào
hoạt động. Trong cơ chế hợp tác này, quan hệ Việt - Trung giữ vai trò
quan trọng, mang tính trụ cột, Việt Nam với vị trí địa chiến lược ở khu
vực Đông Nam Á được coi là “cầu nối” trực tiếp, chiến lược quan trọng để
Trung Quốc mở rộng và tiếp cận các nước ASEAN dựa trên tuyến đường bộ
và đường biển. Phát huy đầy đủ vị thế đó là nhân tố then chốt của quan
hệ kinh tế hai nước trong giai đoạn mới.
Hợp tác về an ninh, quốc phòng
Hợp tác quốc phòng
Việt Nam - Trung Quốc có những bước tiến mạnh mẽ với việc hai
bên thường xuyên trao đổi đoàn nhằm tạo sự tin cậy, hiểu biết
lẫn nhau. Trong đó, phải kể đến chuyến thăm chính thức Trung
Quốc của Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Phùng
Quang Thanh năm 2010, chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thượng
tướng Lương Quang Liệt, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc dự Hội nghị
Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) cuối năm
2010, và chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thượng tướng Quách
Bá Hùng, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc đầu năm
2011. Trong Đối thoại chiến lược quốc phòng - an ninh lần thứ
hai (tháng 8-2011), hai bên thống nhất tiếp tục đẩy mạnh hợp
tác trên nhiều lĩnh vực, như tăng cường trao đổi đoàn, sớm hoàn
thành đường dây nóng giữa hai bộ quốc phòng.
Hợp tác về giáo dục - đào tạo, văn hóa, thể thao, du lịch
Trong 10 năm trở lại
đây, hợp tác giáo dục - đào tạo hai nước phát triển hết sức mạnh mẽ. Hai
nước đã ký kết nhiều hiệp định quan trọng về hợp tác đào tạo. Hiện số
lưu học sinh Việt Nam tại Trung Quốc là hơn 12.000 người, đứng thứ hai
trong tổng số hơn 60.000 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại nước
ngoài. Số lượng lưu học sinh Trung Quốc, nhất là lưu học sinh các vùng
Quảng Tây, Vân Nam, Quảng Đông, học tập tại Việt Nam cũng ngày càng gia
tăng. Đã có trên 80 trường đại học của Việt Nam có quan hệ với các
trường đại học Trung Quốc một cách thường xuyên, hiệu quả(2).
Hợp tác trên lĩnh vực
văn hóa giữa hai bên cũng đạt được nhiều thành tựu, nhất là giao lưu văn
hóa truyền thống, triển lãm hội họa, xuất bản, báo chí, điện ảnh… Từ
năm 1991 đến nay, Việt Nam đã cử hơn 200 đoàn đại biểu văn hóa sang
Trung Quốc biểu diễn, khảo sát, học hỏi. Trung Quốc cũng cử hàng trăm
đoàn giao lưu văn hóa hữu nghị với Việt Nam.
Về thể dục - thể thao,
kể từ khi “Hiệp định hợp tác du lịch Việt Nam – Trung Quốc” được ký kết
năm 1994, hợp tác du lịch hai nước ngày càng mạnh mẽ. Nếu như năm 1993
chỉ có 17.000 lượt người Trung Quốc sang Việt Nam du lịch (bằng 20%
lượng khách quốc tế đến Việt Nam), thì đến nay, trung bình mỗi tháng có
từ 65.000 đến 90.000 lượt khách du lịch Trung Quốc vào Việt Nam, đứng
đầu về số lượng khách quốc tế. Trung Quốc cũng là thị trường du lịch lớn
nhất của Việt Nam.(3).
Về biên giới lãnh thổ
Sau khi bình thường hóa
quan hệ, năm 1993, hai bên ký “Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải
quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ”, tiến hành đàm phán về biên giới
trên đất liền, phân định Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông.
Về biên giới trên bộ,
hai nước Việt Nam - Trung Quốc có đường biên giới trên bộ dài 1.350
km. Đầu những năm 70 thế kỷ XX, hai bên đã bắt đầu đàm phán phân định
mốc giới. Sau khi bình thường hóa quan hệ, hai bên đã tiến hành đàm phán
thực chất và ký kết “Hiệp định biên giới trên bộ” năm 1999. Tháng
2-2009, sau một quá trình đàm phán phức tạp, khó khăn lâu dài suốt 10
năm, trên cơ sở tôn trọng lịch sử và xét đến hiện tại, hiệp thương thẳng
thắn và lâu dài, hai nước hòan thành việc cắm mốc biên giới trên bộ.
Về Vịnh Bắc Bộ,
năm 2000, hai nước ký “Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa” và “Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ”, có
hiệu lực từ năm 2004. Hiện, các Hiệp định trên được triển khai tương đối
thuận lợi, công tác quản lý đánh bắt và bảo vệ nguồn lợi hải sản dần đi
vào nền nếp. Hai bên cũng thực hiện tốt công tác điều tra liên hợp
nguồn thủy sản và tuần tra chung của hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ.
Mặt khác, hai bên đẩy nhanh việc thực hiện "Thỏa thuận khung về hợp tác
dầu khí trong vùng thỏa thuận tại Vịnh Bắc Bộ", thúc đẩy đàm phán về
phân định khu vực ngoài cửa Vịnh (đã tiến hành 5 vòng đàm phán).
Về vấn đề Biển Đông,
ngay từ khi bình thường hóa quan hệ, hai bên nhất trí thông qua đàm
phán hòa bình để giải quyết các tranh chấp nhằm tìm kiếm giải pháp cơ
bản, lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được, trên cơ sở Công ước của
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử ở Biển
Đông năm 2002 (DOC) ký giữa Trung Quốc và ASEAN.
Hai mươi năm qua kể từ khi bình thường hóa quan hệ
Việt - Trung, mặc dù còn tồn tại những bất đồng, những điểm
khác biệt, song hợp tác và hữu nghị luôn là dòng chủ lưu, mang tính
tất yếu trong sự phát triển quan hệ hai nước, phù hợp với nguyện
vọng và lợi ích của hai đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới ngày nay./. ---------------------------------------------------
(1) Báo Nhân dân, ngày 29-02-2002
(2) Tổng hợp từ: www.vnemba.org.cn
(3) Tổng hợp số liệu từ website của Tổng cục Du lịch: www.vietnamtourism.gov.vn