Theo Thủ tướng Nga V. Pu-tin, ngày 01-01-2012, một đề án liên kết quan
trọng mang tên “Không gian kinh tế thống nhất” giữa Nga, Bê-la-rút và
Ca-dắc-xtan sẽ chính thức khởi động. Đề án này là cột mốc lịch sử không
chỉ đối với ba nước mà còn đối với tất cả các quốc gia trong không gian
hậu Xô-viết. Quá trình dẫn tới sự kiện không đơn giản và khá quanh co
này được khởi đầu cách đây 20 năm, kể từ khi thành lập Cộng đồng các
quốc gia độc lập (SNG). Khi đó, ba nước, Nga, Bê-la-rút và Ca-dắc-xtan,
đã tìm ra một mô hình thích hợp để có thể gìn giữ các giá trị của mối
liên kết kinh tế, văn minh và các mối quan hệ khác giữa ba quốc gia để
tiếp tục phát triển.
Hiện nay, có thể có nhiều cách đánh giá khác nhau về hiệu quả của sự hợp
tác trong SNG, nhưng khó có thể phủ nhận cơ chế không thể thay thế của
cộng đồng này trong việc cho phép xây dựng quan điểm thống nhất về những
vấn đề then chốt giữa các nước trong khu vực và đem lại lợi ích cụ thể
cho tất cả các nước thành viên. Ngoài ra, chính kinh nghiệm của SNG cũng
cho phép tạo ra sự liên kết ở nhiều cấp, với tốc độ khác nhau trong
không gian hậu Xô-viết, tạo ra các khuôn khổ hợp tác cần thiết giữa Liên
bang Nga với Bê-ra-rút, Tổ chức Hiệp ước an ninh tập thể, Cộng đồng
kinh tế Á-Âu, Liên minh thuế quan và “Không gian kinh tế thống nhất”.
Một điểm đáng chú ý là trong thời kỳ xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính
thế giới (năm 2008), khi mà các quốc gia buộc phải tìm nguồn lực mới để
tăng trưởng kinh tế thì các nước trong khu vực đã tìm được cách tiếp cận
khách quan để đổi mới các nguyên tắc đối tác trong SNG cũng như trong
các liên kết khu vực khác. Các nước đã tập trung trước hết vào sự phát
triển các mối quan hệ thương mại và kinh tế. Thực chất là biến sự liên
kết thành một đề án có sức thu hút đối với các công dân và các doanh
nghiệp, ổn định và lâu dài, không phụ thuộc vào động thái chính trị. Kể
từ ngày 01-6-2011, trên biên giới ba nước Nga, Bê-la-rút và Ca-dắc-xtan
đã bãi bỏ sự kiểm soát đối với hoạt động di chuyển hàng hóa; hoàn tất
việc xây dựng một khu vực có chế độ thuế quan thống nhất nhằm thực hiện
những sáng kiến kinh doanh đầy tham vọng. Hiện nay, từ Liên minh thuế
quan, các nước đã tiến tới “Không gian kinh tế thống nhất”, tạo ra một
thị trường rộng lớn với hơn 165 triệu người tiêu dùng dựa trên hệ thống
luật pháp thống nhất, tạo điều kiện tự do di chuyển vốn, dịch vụ và lực
lượng lao động.
Một vấn đề có tầm quan trọng về mặt nguyên tắc là “Không gian kinh tế
thống nhất” sẽ dựa trên các hoạt động phối hợp trong các lĩnh vực then
chốt về mặt thể chế như kinh tế vĩ mô, bảo đảm các quy tắc cạnh tranh,
bảo đảm kỹ thuật và hỗ trợ nông nghiệp, giao thông vận tải và thuế đối
với các công ty độc quyền. Tiếp đến, trên cơ sở chính sách kiều dân và
xuất, nhập cảnh thống nhất sẽ bãi bỏ chế độ kiểm soát biên giới giữa các
nước trong khu vực, có tiếp thu kinh nghiệm của các nước EU, tạo điều
kiện mới về chất để tăng cường sự hợp tác giữa các khu vực gần biên
giới, gia tăng khối lượng hàng hóa tiêu dùng cá nhân miễn thuế hải quan,
bãi bỏ mọi khó khăn về nhập cư, các biện pháp kiểm soát hải quan phức
tạp, tốn kém... tạo điều kiện để công dân có thể lựa chọn nơi sinh sống,
học tập và lao động. Ngoài ra, các doanh nghiệp đã có những khả năng
mới nhằm tạo ra thị trường năng động cùng các tiêu chuẩn và yêu cầu
thống nhất đối với hàng hóa và dịch vụ, mà phần lớn đều thống nhất với
các nước châu Âu. Đây là vấn đề quan trọng vì hiện nay tất cả các nước
đều chuyển sang tiêu chuẩn kỹ thuật hiện đại và do đó chính sách phối
hợp sẽ loại bỏ được sự giãn cách về công nghệ và sự cách biệt tiêu chuẩn
về sản phẩm.
Các nước châu Âu cần tới 40 năm để đi từ Liên minh than và thép của châu
Âu tới một Liên minh châu Âu (EU) đầy đủ. Quá trình trưởng thành Liên
minh thuế quan và “Không gian kinh tế thống nhất” diễn ra năng động hơn
và nhanh hơn vì được kế thừa kinh nghiệm của EU và các liên kết khu vực
khác, trên cơ sở phát huy thế mạnh và loại bỏ các hạn chế, tránh sai lầm
và bãi bỏ các rào cản có tính chất quan liêu.
Đặc điểm quan trọng có tính nguyên tắc của Liên minh thuế quan và “Không
gian kinh tế thống nhất” nói chung là trong không gian này đã có khoảng
40 quyền quy định và sắp tới con số này sẽ lên tới trên 100, trong đó
có quyền thông qua nhiều quyết định về chính sách cạnh tranh, về tiêu
chuẩn kỹ thuật, về tài trợ. Chỉ có thể giải quyết những vấn đề phức tạp
như vậy thông qua việc xây dựng một cơ chế có đầy đủ quyền hạn và hoạt
động thường trực vừa có tính chuyên nghiệp, vừa gọn nhẹ và có hiệu quả.
Việc xây dựng Liên minh thuế quan và Cộng đồng kinh tế thống nhất tạo cơ
sở xây dựng Liên minh kinh tế Á-Âu trong tương lai trên cơ sở từng bước
mở rộng số thành viên tham gia.
Nhận định về tương lai của Đề án Liên minh kinh tế thống nhất Á-Âu, hay
Liên minh Á-Âu, Thủ tướng Nga V.Pu-tin nhấn mạnh 4 nội dung quan trọng.
Một là, đây không phải là một dạng phục hồi nhà nước
Liên Xô mà là sự liên kết chặt chẽ trên cơ sở kinh tế, chính trị và các
giá trị mới đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Các nước đề xuất mô hình
một liên minh mạnh có khả năng trở thành một trong các cực của thế giới
hiện đại và đóng vai trò như mối liên kết có hiệu quả giữa châu Âu với
khu vực châu Á Thái Bình Dương đang phát triển năng động. Việc phối hợp
tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, vốn, tiềm năng con người mạnh cho
phép Liên minh Á-Âu có khả năng cạnh tranh trong cuộc chạy đua về công
nghiệp và công nghệ, thu hút các nhà đầu tư, tạo việc làm mới và các nền
sản xuất tiên tiến. Cùng với các quốc gia đóng vai trò then chốt khác
cũng như các cơ chế khu vực như Mỹ, EU, Trung Quốc, Diễn đàn kinh tế
châu Á-Thái Bình Dương sẽ tạo ra sự ổn định cho sự phát triển toàn cầu.
Hai là, Liên minh Á-Âu sẽ là một trung tâm của các quá
trình liên kết trong tương lai, từng bước liên kết các cơ chế hiện có
như Liên minh thuế quan và "Không gian kinh tế thống nhất".
Ba là, sẽ là một sai lầm khi đối nghịch Liên minh Á-Âu
và SNG vì mỗi một cơ chế này đều có một vị trí và vai trò riêng trong
không gian hậu Xô-viết. Nga cùng với các đối tác khác sẽ hoàn thiện các
thể chế của SNG và mở rộng nội dung hoạt động trong lĩnh vực năng lượng,
giao thông vận tải, công nghệ cao và phát triển xã hội. Có nhiều triển
vọng lớn trong sự hợp tác nhân đạo thuộc các lĩnh vực khoa học, văn hóa,
giáo dục, điều phối thị trường lao động, tạo môi trường văn minh cho sự
di chuyển lực lượng lao động. Về phương diện này, các nước SNG được kế
thừa di sản từ Liên Xô trước đây như kết cấu hạ tầng và sự chuyên môn
hóa sản xuất, ngôn ngữ chung và không gian khoa học văn hóa. Ngoài ra,
cơ sở kinh tế của SNG là chế độ thương mại tự do đến mức tối đa. Theo
sáng kiến của Nga, trong khuôn khổ chức năng Chủ tịch trong SNG năm
2010, các nước đã xây dựng dự thảo Đề án Hiệp định mới về khu vực thương
mại tự do dựa trên các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới nhằm
bãi bỏ mọi rào cản khác nhau.
Bốn là, Liên minh Á-Âu là một đề án mở có thể kết nạp
các đối tác khác, trước hết là các nước SNG, sẽ được xây dựng trên các
nguyên tắc liên kết thống nhất như là một phần không tách rời của châu
Âu lớn dựa trên các giá trị thống nhất về tự do, dân chủ và các quy luật
thị trường. Ngay từ năm 2003, Nga và EU đã thống nhất thỏa thuận xây
dựng một không gian kinh tế chung từ Li-xbon đến Vla-đi-vô-xtốc như xây
dựng chính sách phối hợp trong lĩnh vực công nghiệp, công nghệ, năng
lượng, giáo dục và khoa học, bãi bỏ hàng rào xuất nhập cảnh. Một hệ
thống đối tác cân bằng và hơp lý về mặt kinh tế giữa Liên minh Á-Âu và
EU sẽ tạo điều kiện thực tế để thay đổi cơ cấu địa chính trị - địa kinh
tế của toàn bộ châu lục này và sẽ có hiệu quả tích cực trên phạm vi toàn
cầu.
Thủ tướng Nga V.Pu-tin cho rằng, cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính
thế giới mang tính chất cơ cấu bắt đầu từ năm 2008 xuất phát từ nguyên
nhân căn bản là sự mất cân đối mang tính toàn cầu tích tụ lại trong
nhiều năm. Do đó quá trình soạn thảo các mô hình phát triển toàn cầu sau
khủng hoảng sẽ rất phức tạp. Thí dụ, vòng đàm phán Đô-ha hiện đang rơi
vào bế tắc, trong nội bộ Tổ chức Thương mại thế giới đang có những khó
khăn khách quan, các nguyên tắc tự do thương mại và thị trường mở cũng
đang trải qua cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Lối thoát ở đây có thể là
phải nghiên cứu soạn thảo cách tiếp cận chung bên trong phạm vi các cơ
chế khu vực hiện có như EU, NAFTA, Diễn đàn kinh tế châu Á-Thái Bình
Dương, ASEAN và nhiều tổ chức khác, sau đó mới tiến hành đối thoại giữa
các cơ chế. Chính từ những “viên gạch liên kết” đó mới có thể xây dựng
một nền kinh tế thế giới ổn định hơn.
Hiện nay, Liên minh thuế quan giữa Nga, Bê-la-rút và Ca-dắc-xtan đã bắt
đầu các cuộc đàm phán về việc xây dựng khu vực tự do thương mại với Hiệp
hội Thương mại tự do châu Âu. Tại Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái
Bình Dương diễn ra ở Vla-đi-vô-xtốc (Nga) năm 2012 sẽ đề cập đến các
vấn đề tự do hóa thương mại và bãi bỏ rào cản hợp tác kinh tế. Nga sẽ đề
xuất quan điểm chung phối hợp của tất cả các thành viên tham gia Liên
minh thuế quan và “Không gian kinh tế thống nhất”.
Thủ tướng Nga V.Pu-tin nhận định, Đề án Liên kết Á-Âu sẽ có bước phát
triển với chất lượng mới, mở ra triển vọng to lớn cho sự phát triển kinh
tế, tạo ra khả năng cạnh tranh mới, cho phép các nước trong khu vực
tham gia vào nền kinh tế toàn cầu và hệ thống thương mại toàn cầu, đồng
thời tham gia thực tế vào quá trình soạn thảo và quyết định về quy tắc
cuộc chơi trong tương lai. Việc xây dựng Liên minh Á-Âu và sự liên kết
có hiệu quả sẽ là con đường cho phép các thành viên tham gia có được vị
trí xứng đáng trong một thế giới phức tạp của thế kỷ XXI. Chỉ có bằng
cách hợp tác cùng nhau, các quốc gia trong liên minh này mới có thể trở
thành những quốc gia dẫn đầu sự tăng trưởng toàn cầu, sự tiến bộ của nền
văn minh cũng như sự phát triển thịnh vượng./.