Lịch
sử Ấn Độ được ghi chép sớm nhất giờ đây nằm ở phế tích, vùng phía tây
đất nước, ở nơi khi xưa là thung lũng màu mỡ của người Indu. Vào khoảng
năm 3000 TCN, khu đô thị tại Mohenjodaro và Harappa (ngày nay, cả hai
đều ở Pakistan) thuộc nền Văn minh Thung lũng Indus. Cho đến ngày nay,
tàn tích của những thành phố này chỉ rõ sự hiện hữu của người dân có mức
độ phát triển cao, thể hiện ở các khu dân cư – các khu này cho thấy một
sự hiểu biết tinh tường về thiết kế đô thị, được bố trí theo hình kẻ ô
gồm các con đường lát đá chạy vuông góc với nhau, nhà gạch xây chắc
chắn, kho lúa gạo, nhà tắm công cộng và thậm chí cả hệ thống thoát nước
nữa.
Cư dân của nền văn
hóa chủ yếu là nông nghiệp này cũng sử dụng tiền tệ, tham gia hoạt động
kinh doanh và sử dụng chữ viết. Những con dấu khai quật được cho biết
một số điều về cuộc sống và thời đại của họ. Trên những con dấu được tìm
thấy nhiều nhất thường có hình con trâu, tượng trưng cho nền văn hóa
nông nghiệp; còn trên các con dấu khác có hình nữ thần, cho thấy phụ nữ
được kính trọng.
Một thay đổi lớn diễn
ra cùng với sự xuất hiện của người Aryan vào năm 1500 TCN. Một số nhà
sử học cho họ là quân xâm lược, số khác cho rằng họ là dân di cư đi
thành từng làn sóng kế tiếp nhau. Người ta hiện đang tranh cãi về việc
liệu có phải người Aryan ép buộc cư dân của nền Văn minh Thung lũng
Indus đi về phương nam, hay sự di cư này là do các yếu tố khác gây ra,
như động đất và lũ lụt chẳng hạn. Dù do nguyên nhân nào đi chăng nữa,
thì kết quả là, những người Aryan đầu tiên đã ổn định cuộc sống ở thung
lũng Indus và trở thành xã hội nông nghiệp và lập nên các cộng đồng làng
xã nhỏ ở Punjab.
Về phần mình, người
Aryan cũng có một số đóng góp đáng kể. Họ mang theo kỵ binh và tôn giáo
của họ. Chiến tranh kỵ binh khiến văn hóa Aryan lan nhanh khắp miền bắc
Ấn Độ, gieo mầm các đế chế lớn. Tiếng Phạn – ngôn ngữ của người Aryan –
là cơ sở và nhân tố chung trong nhiều ngôn ngữ Ấn Độ, còn đền thờ các vị
thần, thần thoại và truyền thuyết của người Aryan trở thành nền tảng
của tôn giáo Hindu.
Lối sống định cư này
đã dẫn đến việc hình thành các hệ thống hành chính, hình thức chính phủ
và các mô hình xã hội phức tạp, mà quan trọng nhất trong số đó là sự
hình thành chế độ đẳng cấp. Với mục đích ban đầu là hoạt động như chế độ
phường hội, chế độ đẳng cấp đã chuyển thành chế độ xã hội chính trị
khắt khe dựa vào nguồn gốc. Thời kỳ này cũng chứng kiến sự xuất hiện các
vương quốc và nước cộng hòa, sự kiện hai bộ sử thi Ấn Độ vĩ đại
Ramayana và Mahabharata; cả hai tác phẩm đều được cho là ra đời vào
khoảng thời gian này. Có tính chất phúng dụ và tượng trưng cao, hai bộ
sử thi cung cấp một số bài học hay nhất về sự khôn ngoan, từng trải.
Điều này được thấy đầy đủ trong Bhagwad Gita, một phần của Mahabharata
có lời khuyên dạy của Thần Krishna cho hoàng tử Arjuna nhà Pandava.
Không lấy gì làm ngạc nhiên khi ta tìm thấy các bản văn khác như bốn tập
kinh Vêđa – tất cả cùng giúp biến nền văn hóa thô lậu, thiếu tế nhị và
hiếu chiến thành nền văn minh tao nhã, tinh vi.
Đến thế kỷ thứ 6
trước công nguyên, tinh thần đúng đắn của Ấn Độ giáo bị “kẹt” trong cách
lý giải theo lễ nghi và khắt khe vốn khiến cho các nhà tư tưởng như
Mahavir và Gautama Buddha tìm kiếm và đưa ra các con đường khác – đó là
đạo Giai-na (Mahavir) và đạo Phật (Gautama Buddha). Điểm chung cho cả
hai tôn giáo này là sự nhấn mạnh lòng khoan dung, tự tu tập và phi bạo
lực. Ở những người theo đạo Giai-na, điều này được thể hiện rõ hơn. Tín
đồ Giai-na truyền thống đeo mặt nạ vải và quét sạch đường trước khi đi
để không sinh vật nào bị đau hay bị giẫm bẹp. Phật tử biểu lộ đức tin
này thông qua phương pháp tiếp cận mang tính quan điểm. Đạo Giai-na lan
truyền chủ yếu ở Ấn Độ, thường là các vùng phía tây, còn đạo Phật được
đưa sang các vùng đất khác, bắt đầu từ Sri Lanka rồi lan sang Đông và
Đông Nam Á.
Vua Mauryan – Ashoka
Đại đế (268-231 TCN), cháu hoàng đế Ấn Độ vĩ đại đầu tiên Chandragupta
Mauryan – là người quan trọng nhất trong số những người có trách nhiệm
truyền bá đạo Phật. Vương quốc mà Ashoka thừa kế từ người cha Bindusara,
trải dài gần như toàn bộ tiểu lục địa. Nói về tham vọng hoàng đế thì
Ashoka đã thôn tính thành công một vài vương quốc mà vương quốc cuối
cùng là Kalinga.
Sự kiện đó làm thay
đổi cuộc đời của vị vua này và tiến trình lịch sử Ấn Độ. Mệt mỏi với nỗi
ân hận khi nhìn thấy quá nhiều máu đổ, Ashoka nhận ra tính phù phiếm
của quyền lực thế gian. Ông trở thành Phật tử nhưng không bao giờ ép
buộc tôn giáo của mình cho thần dân. Tuy nhiên, ông không tiếc công sức
tạo điều kiện truyền bá đạo Phật, dù là dưới dạng sắc dụ khắc trên đá
hoặc trụ đá hay cử sứ giả đi các nước.
Hình bốn con sư tử
trên đỉnh trụ đá Ashoka – quốc huy Ấn Độ – được cho là tượng trưng cho
việc truyền bá giáo pháp Phật đi khắp bốn phương.
Đến thế kỷ thứ hai,
miền Bắc Ấn Độ bị chia thành nhiều công quốc nhỏ. Tuy nhiên, ở miền Nam
nổi lên ba vương triều lớn – đó là Cholas, Pandyas và Cherasl; ba vương
triều này đã chiến đấu để giành uy quyền tối cao trong vùng. Chính trong
thời kỳ này, sự giao dịch với các tàu buôn La Mã lần đầu tiên được
thiết lập. Thánh Thomas được cho là đã đến Kerala vào thế kỷ thứ nhất
sau công nguyên và thành lập cộng đồng Cơ đốc giáo ở đó.
Ở miền Bắc, giai đoạn
từ năm 320 đến 480 sau công nguyên chứng kiến sự xuất hiện và phát
triển của đế chế Gupta ở Magadha. Thời kỳ này, còn được gọi là Thời đại
vàng son của Ấn Độ, chứng kiến sự phát triển của các loại hình nghệ
thuật cổ điển. Nghệ thuật, kiến trúc và các công trình điêu khắc đáng
chú ý nhất của thời kỳ này vừa hoàn hảo về kỹ thuật lại vừa sinh động
trong nét mới lạ. Hoạt động nghệ thuật đa dạng và các khuynh hướng tư
tưởng mới có ảnh hưởng rất mạnh. Các luận thuyết uyên bác đề cập đến
nghệ thuật tình yêu – đó là Kamasutra.
Tất cả những thứ này
đều tồn tại trong thời gian ngắn. Quân xâm lược Hun (Hungnô) ở tây bắc
đã làm cho đế chế Gupta sụp đổ nhanh và tiếp theo đó là một thời kỳ bất
ổn về chính trị kéo dài.
Do vậy, trung tâm
phát triển chuyển về phía nam vùng núi Vindhya. Trong vòng 600 năm kể từ
giữa thế kỷ thứ 6, bốn vương quốc lớn – Chalukyas, Cholas, Pallavas và
Pandyas – dính líu vào cuộc xung đột bất phân thắng bại. Thời kỳ này
chứng kiến sự phát triển của nền văn hóa Tamil với phong cách nghệ thuật
và kiến trúc khác biệt (cũng như hệ thống chữ viết khác biệt), và đạt
đến tột đỉnh vào thế kỷ 12 dưới thời Cholas.
Các vương quốc ở phía
nam biểu lộ sự nhân nhượng dân chủ mà về một ý nghĩa nào đó, về cơ bản
là mang tính chất Ấn Độ. Trong suốt thời Cholas, những người đi biển đã
đưa văn hóa Ấn Độ và Ấn Độ giáo vượt biển đến với các nước ở Đông Nam Á;
ở đó, cả hai thứ đều trở nên phổ biến và được người dân ưa thích. Quay
trở lại Ấn Độ, ở Kerala, triều đại nhà Cheras tiếp đón dòng người buôn Ả
Rập tràn đến Ấn Độ khi họ phát hiện ra tuyến đường đến nước này một
cách nhanh nhất, bằng cách sử dụng gió mùa. Nhiều người quyết định định
cư ở Ấn Độ và được phép tự do hành đạo. Hậu duệ của họ là cộng đồng
Moplah hay tín đồ Hồi giáo Malabar. Đặc điểm liên văn hóa này thể hiện
rõ nhất ở quần đảo Lakshadweep ngoài khơi bờ biển Kerala, nơi đạo Hồi
truyền thống được tuân theo một cách nghiêm ngặt y hệt như truyền thống
mẫu hệ phi Hồi giáo du nhập từ đất liền.
Ảnh hưởng của đạo Hồi
ở miền nam được lặp lại ở miền bắc. Bị lôi cuốn bởi những câu chuyện về
vùng đồng bằng màu mỡ ở Punjab và số lượng lớn đền Ấn Độ giáo, vua
Mahmud của vương quốc Ghazni ở Afghanistan tấn công Ấn Độ lần đầu tiên
vào thế kỷ 10 sau công nguyên. Những kẻ tấn công khác ở Trung Á đi theo
Mahmud. Cuối thế kỷ 12, Qutb-ud-din Aibak lập ra triều đại Slave ở
Delhi, tạo dựng trung tâm của vương quốc Hồi giáo Delhi hay sự cai trị
của các vua Thổ Nhĩ Kỹ hoặc Afghan – đó là Khiljis, Tughlaqs, Lodis.
Nhưng bộ tộc Mughals –
bộ tộc Trung Á do Babur lập ra vào thế kỷ 16 – tạo ra ảnh hưởng lâu dài
hơn nhiều. Mặc dù chinh phục Hindustan là tham vọng của Babur, nhưng
Babur chưa bao giờ quan tâm đến việc định cư ở Ấn Độ – vùng đất không có
loại “dưa thung lũng Ferghana” nổi tiếng mà ông rất thích. Nhưng số
phận đã dành cho Babur hướng phát triển khác. Sau trận Panipat đầu tiên
thắng Ibrahim Lodi, Babur tự xưng là người sáng lập triều đại Mughal.
Con trai Babur là
Humayun củng cố nền móng của triều đại Mughal vững chắc hơn, nhưng sự vĩ
đại của triều đại này lại được thừa nhận dưới thời cháu Babur là Akbar
(1562-1605). Sức mạnh trần thế không phải là lý do duy nhất giải thích
tại sao hoàng đế này được gọi là Akbar Đại đế. Ngoài việc sáp nhập các
vùng đất rộng lớn vào đế chế của mình, Akbar còn nỗ lực thực hiện một
trong những thể chế hành chính hiệu quả hơn, được tiếp nối hàng thế kỷ
sau đời ông. Nhưng di sản của Akbar sẽ luôn là việc ông đã cố gắng tạo
ra nền văn hóa bao gồm những điều tốt đẹp nhất của Ấn Độ giáo và Hồi
giáo trong tôn giáo Din-e-llahi của mình. Để thực hiện ý tưởng của mình,
thậm chí ông còn kết hôn với công chúa Ấn Độ, trong khi kiến trúc
Sikandra và thành phố do ông tạo dựng – Fatehpur Sikri ở gần Agra – thì
pha trộn xu hướng Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Văn hóa Mughal đạt đến tột
đỉnh dưới thời cháu Akbar là Shah Jahan – vốn được biết đến là nhà kiến
tạo và bảo trợ nghệ thuật vĩ đại. Shah Jahan dời thủ đô từ Agra đến
Delhi mặc dù ông dành bờ sông Yamuna ở Agra làm nơi yên nghỉ mãi mãi cho
người vợ yêu quí Mumtaz Mahal – đó là Taj Mahal. Là một mẫu hình tuyệt
vời của kiến trúc và công trình bằng đá, giờ đây Taj thu hút cả các
nguyên thủ quốc gia lẫn khách du lịch có cùng cảm quan về cái đẹp và kỳ
quan. Như một tổng thống Mỹ khi đến thăm quan Taj đã nhận xét: “Thế giới
chia thành hai nửa: những người đã nhìn thấy Taj và những người chưa.”
Aurangzeb – hoàng đế
Mughal cuối cùng – mở rộng đế chế sang tận miền nam Ấn Độ, nhưng do thái
độ không khoan dung đối với các tôn giáo khác vốn có ở ông và sự trỗi
dậy của dòng họ Rajput và Maratha đang thách thức đế chế, nên thời kỳ
trị vì của ông là một thời kỳ náo loạn. Đó là khởi đầu cho một sự cáo
chung bởi vì các hoàng đế kế tiếp không thể ngăn chặn được các cuộc nổi
dậy và ngày càng trở nên vô dụng sau khi đế chế Anh nắm quyền ở Ấn Độ.
Thậm chí Hoàng đế Mughal cuối cùng là Bahadur Shah Zafar còn bị quân Anh
trục xuất khỏi Ấn Độ, đưa đến Burma rồi chết trong cô đơn ở đó.
Ảnh hưởng của Hồi
giáo tới văn hóa Ấn Độ thật lớn. Hồi giáo ảnh hưởng lâu bền đến sự phát
triển tất cả các lĩnh vực của nỗ lực của con người, ngôn ngữ, quần áo,
ẩm thực, tất cả các loại hình nghệ thuật, kiến trúc, thiết kế đô thị,
phong tục và giá trị xã hội.
Trong lĩnh vực tôn
giáo, lời răn dạy của hai nhân vật tôn giáo vĩ đại thế kỷ 14-15 – Kabir
và Nanak – phản ánh sự hấp thu cả hai nền văn hóa. Dựa vào tín đồ Hindu
Bhakti (mộ đạo) và tín ngưỡng Hồi giáo Sufi, tinh thần khoan dung của Ấn
Độ giáo và các tư tưởng về bình đẳng của Hồi giáo, họ thực hành một thứ
tôn giáo chủ trương cuộc sống đơn giản và kinh nghiệm thực tiễn. Kabir
nhấn mạnh tính độc nhất của thần thánh trong câu thơ của mình, còn Guru
Nanak lại lập ra đạo Sikh có nhiều người theo ở Punjab.
Làn sóng ảnh hưởng
tiếp theo làm thay đổi tiến trình lịch sử Ấn Độ bắt nguồn từ người châu
Âu mà cuối cùng là người Anh. Những người đi biển vùng tây bắc Âu, Anh,
Pháp, Hà Lan và Bồ Đào Nha đến Ấn Độ vào đầu thế kỷ 17 và thiết lập các
thương điểm dọc bờ biển Ấn Độ. Những người mới đến này nhanh chóng bộc
lộ sự ganh đua lẫn nhau và tìm kiếm sự giúp đỡ của người trị vì địa
phương trong việc chiến đấu cùng phe với họ, củng cố lãnh thổ hay vị trí
kinh doanh của họ. Cuối cùng, việc này biến thành tham vọng chính trị
và họ lợi dụng tình trạng bất hòa giữa những người trị vì Ấn Độ. Người
Anh là kẻ chiến thắng cuối cùng và thiết lập uy quyền chính trị tối cao ở
miền đông Ấn Độ sau trận Plassey năm 1757; đến cuộc chiến tranh độc lập
lần thứ nhất năm 1857 thì người Anh đã thống trị phần lớn tiểu lục địa
này.
Không giống những
người đi trước, người Anh không định cư ở Ấn Độ để thiết lập đế chế địa
phương. Thay vào đó, Ấn Độ giúp thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp non
trẻ ở Anh bằng cách cung cấp nguyên vật liệu thô rẻ, vốn và thị trường
bị khống chế lớn cho công nghiệp Anh. Vùng đất này được tổ chức lại theo
chế độ zamindari (địa chủ) hà khắc nhằm tạo điều kiện thu thuế, đồng
thời ở một số vùng, nông dân bị buộc phải chuyển từ trồng cây lương thực
sang các cây thương phẩm như cây chàm, đay, chè và cà phê. Điều này dẫn
đến nạn đói và các cuộc nổi dậy trên phạm vi lớn.
Một thế kỷ tích tụ
mối bất bình dẫn đến sự kiện thường được gọi là binh biến và ngày nay
gọi là Chiến tranh Độc lập Ấn Độ lần thứ nhất năm 1857. Binh biến mau
chóng gây ra cuộc xung đột tự phát chống lại luật pháp Anh, như Chủ
thuyết Truất quyền của Dalhousie. Các tiểu vương quốc, tầng lớp quý tộc
và nông dân cùng nhau nổi dậy chống lại người Anh. Cuộc nổi dậy bị đàn
áp dã man và năm 1858, Ấn Độ trở thành lệ thuộc vào Anh.
Nhưng mầm mống độc
lập đã được gieo. Từ đó trở đi, thông qua giáo dục và cải cách xã hội
cho đến các cuộc khởi nghĩa vũ trang và phong trào chính trị, khí phách
Ấn Độ luôn sục sôi chống lại xiềng xích bóc lột của Anh. Hệ thống đường
sắt rộng lớn do Anh thiết lập đã làm cho sự thống nhất Ấn Độ trở thành
rõ ràng trong ý niệm, bởi vì cùng với sự đi lại của người dân thì các ý
tưởng và tư tưởng độc lập cũng viên du theo. Do một nhóm người nước
ngoài không thể cai trị được nổi một đất nước to lớn như Ấn Độ, nên
người Anh bắt đầu kiến tạo đội ngũ tinh hoa bản xứ để giúp họ trong
nhiệm vụ này. Những người này – vốn được giáo dục theo truyền thống và
tư tưởng tốt nhất của Anh – đã khắc sâu những quan niệm phương Tây vào
cơ cấu xã hội và trí thức Ấn Độ. Chủ yếu nhờ nỗ lực của lớp trí thức
được Tây hóa này, mà các ý niệm về dân chủ, tự do cá nhân, bình đẳng,
lan truyền đến quần chúng nhân dân Ấn Độ và lên đến cực điểm ở phong
trào tự do. Đây cũng là thời kỳ biến động xã hội lớn lao với sự hiện
diện của Raja Ram Mohan Roy, Bankim Chandra Chatterjee và Vidyasagar –
tất cả đều là người vùng Bengal và lãnh đạo các phong trào cải cách xã
hội to lớn. Năm 1885, Đảng Quốc đại Ấn Độ được thành lập và nhận thức
tâm lý về thống nhất quốc gia được hình thành.
Cuối thế kỷ 19, phong
trào tự do đến được với dân thường nhờ việc các nhà lãnh đạo, như Bal
Gangadhar Tilak và Aurobindo Ghose, phát động phong trào Swadeshi (dùng
hàng quốc nội). Nhưng chỉ khi Gandhi, một trong những nhà lãnh đạo có
sức hấp dẫn lớn nhất Ấn Độ, xuất hiện thì quần chúng mới hoàn toàn được
huy động.
Mohandas Karamchand
Gandhi là luật sư người Ấn Độ học luật ở Anh. Ở Nam Phi, ông nổi tiếng
nhờ việc tổ chức cộng đồng người Ấn xa xứ chống lại chủ nghĩa Apacthai.
Về sau, ông đưa ra phương pháp phản đối phi bạo lực gọi là satyagraha và
được gọi là Mahatma hay Linh hồn Vĩ đại. Khi trở về Ấn Độ vào năm 1915,
ông trở thành nhân tố quyết định của Đảng Quốc đại vốn đang tìm kiếm
một lãnh tụ như thế. Như Jawaharlal Nehru nói: “Ông là luồng không khí
mới khiến chúng tôi vươn vai, hít một hơi dài và đem lại sức sống mới
cho phong trào tự do”.
Dưới sự lãnh đạo của
Gandhi, Đảng Quốc đại phát động một loạt phong trào quần chúng – phong
trào phi bạo lực, bất hợp tác (1920-1922), phong trào bất tuân dân sự
(1930); và khởi đầu với cuộc Hành trình muối, Gandhi đã thu hút và khích
động người dân Ấn Độ bằng việc dẫn đầu đoàn người đi theo từ Sabarmati
đến Dandi, cách xa 200 dặm, để làm muối, tức là vi phạm Luật muối của
người Anh. Phong trào độc lập lớn mạnh dần. Tháng 8 năm 1942, phong trào
“Quit India” (đòi thực dân Anh rút khỏi Ấn Độ) được phát động chống lại
thực dân Anh và thực dân Anh đã dùng đến biện pháp đàn áp dã man. Người
Anh hiểu ra rằng, chỉ có thể duy trì đế chế của mình ở Ấn Độ với cái
giá phải trả khổng lồ. Cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, Chính phủ Anh
bắt đầu các bước đi có tính thể chế để thực hiện chuyển giao quyền lực
cho Ấn Độ.
Ngày 15 tháng 8 năm
1947, Ấn Độ giành được độc lập. Trong bài phát biểu lúc nửa đêm tại Nghị
viện Ấn Độ, vị Thủ tướng đầu tiên Jawaharlal Nehru nói: “Từ bao năm qua
chúng ta đã ước hẹn với số phận, và nay là lúc chúng ta thực hiện lời
hứa, không phải một cách đầy đủ hay trọn vẹn mà là một cách cơ bản. Ngay
vào thời khắc lúc nửa đêm, khi cả thế giới đang chìm trong giấc ngủ thì
Ấn Độ sẽ thức giấc để được sống và hưởng tự do. Thời khắc lịch sử hiếm
hoi đang đến, khi chúng ta bước ra khỏi quá khứ để đến với tương lai,
khi một thời đại sẽ kết thúc, khi hồn thiêng dân tộc, vốn bị áp bức bao
lâu nay, sẽ bắt đầu cất tiếng.”
Trong ba năm tiếp
theo, Ấn Độ đã xây dựng Hiến pháp duy trì bộ khung của nền dân chủ hiện
đại vốn được tạo thành chủ yếu trên mô hình nghị viện Anh, nhưng bao gồm
các ý tưởng của ít nhất chín Hiến pháp khác trên thế giới. Ấn Độ trở
thành nước cộng hòa vào ngày 26 tháng 1 năm 1950, khi Hiến pháp có hiệu
lực và người dân Ấn Độ được quyền bầu cử, được đảm bảo quyền tự do ngôn
luận, thể hiện và tín ngưỡng, và quyền được bảo vệ chống lại mọi hình
thức phân biệt đối xử.
Ấn Độ áp dụng chế độ
nghị viện để lãnh đạo quốc gia, với hai viện – Lok Sabha (Hội đồng Nhân
dân) và Rajya Sabha (Hội đồng các bang) – là cơ quan lập pháp tối cao
của đất nước. Các bang cũng theo phương thức này, mặc dù một số bang bỏ
qua hình thức thượng viện. Tổ chức hành pháp và tư pháp là hai bộ phận
khác của bộ máy quản lý ở Ấn Độ. Hệ thống hành chính của thực dân Anh
vẫn là “khung sắt” của chế độ quản lý, có nhiệm vụ thực thi luật pháp và
các chính sách.
Các chính phủ trước
đi theo lý tưởng của ý tưởng xã hội chủ nghĩa và thế tục, tìm cách đưa
nhà nước Ấn Độ vượt qua khỏi tình trạng ủng hộ một tôn giáo, một sắc tộc
hoặc một đẳng cấp nhất định hay sự phân tầng xã hội nào đó. Điều này
vẫn còn là phương châm quản lý của Ấn Độ, với dân số hơn một tỉ người
thuộc mọi giáo phái tôn giáo và thành phần xã hội. Về chính sách đối
nội, nó dẫn tới một loạt hành động quyết đoán và các chính sách cải cách
ruộng đất nhằm tạo ra một trật tự bình đẳng hơn.
Về chính sách đối
ngoại, tư tưởng trên khiến các nhà lãnh đạo đất nước thiên về ủng hộ
quan điểm mang tính xã hội chủ nghĩa và điều này đưa Jawaharlal Nehru –
Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ – trở thành một trong những người sáng lập
Phong trào Không Liên kết (NAM), không tham gia khối phương Tây do Mỹ
đứng đầu hay khối Xô-viết do Liên Xô cũ đứng đầu. Mặc dù vậy, sau năm
1971, Ấn Độ thực sự liên kết khăng khít hơn với Liên Xô cũ, phát triển
một mối quan hệ sâu sắc và bền vững. Với việc kết thúc Chiến tranh lạnh
và Liên Xô cũ tan rã thành nước Nga và các nước độc lập khác, mối quan
hệ của Ấn Độ mở rộng ra, bao gồm cả các nước cộng hòa mới.
Trong lúc đó, mô hình
kinh tế hỗn hợp mà Ấn Độ đi theo trong hơn 40 năm đã bị triệt tiêu sau
năm 1991. Nhiều cải cách kinh tế nâng cao một cách cơ bản mối quan hệ
của Ấn Độ với Mỹ vốn giờ đây đang là đối tác thương mại lớn nhất của Ấn
Độ. Sự tăng trưởng của khu vực công nghệ cao ở Ấn Độ cũng làm mối quan
hệ Ấn-Mỹ và quan hệ của Ấn Độ với các nước khác trên thế giới thêm vững
chắc, vì Ấn Độ dường như có khả năng tốt hơn trong việc “vật lộn” với
những phức tạp của trật tự kinh tế mới đang nổi lên trên thế giới.
Ngày nay, trong trật
tự thương mại quốc tế đã xuất hiện, với tư cách là một trong những thành
viên đầu tiên của GATT và sau đó là WTO, Ấn Độ luôn cố gắng không mệt
mỏi nhằm đảm bảo sao cho lợi ích của thương mại toàn cầu đến với các
nước đã phát triển cũng như các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa đã
thu hẹp thế giới và cảm nhận về việc không còn khoảng cách hiếm khi rõ
hơn so với, chẳng hạn, dân chài vùng biển Kerala – những người thậm chí
trong lúc ở ngoài khơi vẫn có thể kiểm tra được thông tin giá cá mới
nhất ở các thị trường bán buôn.
Bước sang thế kỷ 21,
giờ đây Ấn Độ có thể tự hào về một số thành tựu. Đó là nước dân chủ lớn
nhất trên thế giới với hơn một tỷ người dân tham gia tích cực vào các
quá trình chính trị - xã hội của đất nước. Ấn Độ là nền kinh tế mạnh và
phát triển, vững bước tiến vào khu vực công nghệ cao và hướng tới một xã
hội dựa trên các nguyên tắc thế tục và bình đẳng.