Việt Nam và Ấn Độ đã thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ vào ngày
7-01-1972. Trong gần 40 năm qua, hai nước đã đạt được những thành tựu
to lớn trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Những thành tựu nổi bật
Về chính trị, ngoại giao: Trước hết, cần khẳng định hai nước
Việt Nam và Ấn Độ có mối quan hệ chính trị, ngoại giao hết sức tốt đẹp.
Trong gần 40 năm qua, hai nước đã tiến hành trao đổi nhiều đoàn cấp cao
của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ.
Về phía Việt Nam, có các chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư Lê Duẩn (năm
1984); Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (năm 1989); Tổng Bí thư Đỗ Mười (năm
1992); Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (năm 2003); Chủ tịch nước Trần Đức
Lương (năm 1999); Thủ tướng Phạm Văn Đồng (năm 1955, 1978, 1980 và
1983); Thủ tướng Võ Văn Kiệt (năm 1997); Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (năm
2007); Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan (năm 2010). Tháng 10-2011, Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang dẫn đầu đoàn Đại biểu cấp cao Việt Nam sang
thăm Ấn Độ.
Trong chuyến thăm Ấn Độ năm 2003 của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, hai nước
đã ký Tuyên bố chung về Khuôn khổ hợp tác toàn diện Việt Nam - Ấn Độ
bước sang thế kỷ XXI. Đây là một văn kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng,
đề ra những định hướng lớn cho sự phát triển sâu rộng của quan hệ hai
nước trong thế kỷ XXI. Ngoài quan hệ song phương, hai nước cũng tích cực
hỗ trợ và hợp tác chặt chẽ với nhau tại các diễn đàn khu vực và quốc tế
như Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết, hợp tác Nam - Nam, ASEM,
APEC, các cơ chế hợp tác của ASEAN như ARF, Cấp cao Đông Á và hợp tác
sông Hằng - sông Mê Công... Để góp phần cụ thể hóa và không ngừng phát
triển quan hệ hợp tác chính trị, kể từ năm 2003, hai nước đã thành lập
cơ chế đối thoại chính trị thường niên giữa Bộ Ngoại giao hai nước. Cơ
chế này đã trở thành một kênh trao đổi thường xuyên và có hiệu quả giữa
hai nước về các vấn đề chính trị quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan
tâm.
Tháng 7-2007, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã thăm chính thức Ấn
Độ. Trong chuyến thăm này, lãnh đạo hai nước bàn và thống nhất những
chủ trương quan trọng để tạo ra những bước chuyển lớn, đặc biệt quyết
định nâng quan hệ hai nước lên tầm đối tác chiến lược. Quyết
định đó đã và đang góp phần quan trọng đưa quan hệ hữu nghị truyền thống
và hợp tác toàn diện Việt Nam - Ấn Độ lên một tầm cao mới, phù hợp với
lợi ích và nguyện vọng của nhân dân hai nước, phục vụ đắc lực cho công
cuộc phát triển kinh tế ở mỗi nước và nâng cao vị thế của hai nước trên
trường quốc tế.
Về phía Ấn Độ, liên tục trong nhiều năm (từ 1985 đến 2011), có nhiều
chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao đến Việt Nam. Đó là các chuyến thăm của
Tổng thống Ấn Độ R. Ven-ka-tra-man (R.Venkatraman) năm 1991, Phó Tổng
thống K.R. Na-ra-ya-nan (K.R. Narayanan) năm 1993, Thủ tướng R. Gan-đi
các năm 1985 và 1988, Thủ tướng P.V.Na-ra-xim-ha Rao (Narasimha Rao)
năm 1994, Thủ tướng A.B. Va-pai-y (A.B. Vajpayee) năm 2001 và chuyến
thăm Việt Nam tháng 3-2009 của Chủ tịch Quốc hội S. Cha-tơ-gi (S.
Chatterjee). Gần đây nhất, Chủ tịch Hạ viện Ấn Độ M. Ku-ma (Meira Kumar)
trong chuyến thăm Việt Nam giữa tháng 5-2011 đã khẳng định: Ấn Độ luôn
coi Việt Nam là đối tác hợp tác quan trọng, là trụ cột hỗ trợ Ấn Độ
trong việc thực hiện chính sách hướng Đông. Chủ tịch Hạ viện mong muốn
hai nước luôn quan tâm thúc đẩy các hoạt động hợp tác trên các lĩnh vực,
nhất là những lĩnh vực được coi là thế mạnh của mỗi bên. Tháng 9-2011,
Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ S.M. Kri-sna (S.M. Krishna) đã đến Hà Nội
đồng chủ tọa buổi họp của Ủy ban hỗn hợp về hợp tác chiến lược toàn diện
Việt - Ấn. Nhân dịp này, Ngoại trưởng Kri-sna thông báo thỏa thuận giữa
Việt Nam với tập đoàn ONGC của Ấn Độ nhằm khai thác dầu khí trong vùng
Biển Đông.
Các chuyến thăm cấp Nhà nước cũng như lãnh đạo các bộ, ngành, các doanh
nghiệp, địa phương được mở rộng theo nhiều cấp bậc và lĩnh vực khác
nhau. Nhiều hiệp định buôn bán, đầu tư được ký kết trong khuôn khổ hợp
tác song phương và đa phương thông qua khối ASEAN, APEC, tạo cơ sở pháp
lý vững chắc cho sự phát triển các quan hệ kinh tế. Trong năm 2010, có
nhiều đoàn doanh nghiệp của Ấn Độ đã sang Việt Nam tìm kiếm cơ hội kinh
doanh và đầu tư, như đoàn của Phòng Thương mại Ấn Độ (ICC) và 8 doanh
nghiệp hàng đầu của Kolkata, đoàn của Hội đồng xúc tiến xuất khẩu sản
phẩm dệt, sợi bông Ấn Độ (TEXPROCIL) và 16 doanh nghiệp hội viên. Tương
tự, nhiều đoàn doanh nghiệp Việt Nam đã sang Ấn Độ tìm kiếm thị trường
và ký kết các hợp đồng buôn bán, đầu tư với các đối tác.
Các chuyến thăm cấp cao không chỉ là hoạt động ngoại giao thông thường
mà quan trọng hơn, qua đó quyết định những đường hướng cơ bản để củng cố
và nâng quan hệ đặc biệt tốt đẹp giữa Chính phủ và nhân dân hai nước
lên tầm cao mới; góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước không ngừng củng cố
và phát triển mối quan hệ chính trị gắn bó và bền chặt.
Trên cơ sở của mối quan hệ chính trị tốt đẹp, hợp tác giữa hai nước trên
tất cả các lĩnh vực khác cũng không ngừng được củng cố và phát triển.
Tháng 12-1982, Ủy ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học
kỹ thuật đã được thành lập và chính thức đi vào hoạt động. Đến nay, hai
bên đã tổ chức được 13 kỳ họp luân phiên giữa Niu Đê-li và Hà Nội. Ủy
ban Hỗn hợp là một trong những cơ chế quan trọng và hữu hiệu, giúp thúc
đẩy quan hệ giữa hai nước trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu
tư, tín dụng, ngân hàng, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, văn hóa,
giao thông vận tải, nông nghiệp, công nghiệp, thủy sản, bưu chính viễn
thông…
Về thương mại: Kim ngạch buôn bán hai chiều Việt Nam - Ấn Độ
gia tăng rõ rệt, từ 50 triệu USD vào giữa thập kỷ 1980 lên 1,018 tỉ USD
năm 2006, 1,536 tỉ USD năm 2007, 2,483 tỉ USD năm 2008, 1,955 tỉ USD năm
2009 và 2,754 tỉ USD năm 2010 (tăng 34% so với năm 2009), trong đó
Việt Nam xuất khẩu sang Ấn Độ 992 triệu USD, tăng 136,2%, nhập khẩu
1.762 triệu USD, tăng 7,7% so với năm 2009. Năm 2011, kim ngạch song
phương ước đạt 3,7 tỉ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 1,5 tỉ USD và
nhập khẩu 2,2 tỉ USD.
Việt Nam xuất khẩu sang Ấn Độ chủ yếu là cà phê, than đá, hạt tiêu, quế
hồi, cao su, hàng điện tử, giày dép, sắt thép, máy tính, hóa chất... Kim
ngạch các mặt hàng xuất khẩu chính năm 2010 gồm: than đá 78,67 triệu
USD, cao su và sản phẩm từ cao su: 76,87 triệu USD, sắt thép các loại và
sản phẩm từ sắt thép: 76,03 triệu USD; máy vi tính, sản phẩm điện tử và
linh kiện: 67,12 triệu USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác:
61,15 triệu USD… Điều quan trọng là hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã
dần tìm được chỗ đứng trên thị trường Ấn Độ với 1,2 tỉ dân, từ đó giảm
dần mức nhập siêu từ 1,7 tỉ USD năm 2008 xuống 1 tỉ USD năm 2009, 770
triệu USD năm 2010 và ước còn 700 triệu USD năm 2011.
Việt Nam trở thành nước nhập khẩu lớn thứ 10 của Ấn Độ vào năm 2008. Các
mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là thiết bị, phụ tùng, dụng cụ y
tế, dược phẩm, thực phẩm, dệt bông, linh kiện máy tính, hàng tiêu dùng,
thức ăn gia súc, nguyên liệu, sắt thép, kim loại, chất dẻo, tân dược,
máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu dệt may, nguyên phụ liệu dược phẩm,
hóa chất, thuốc trừ sâu.
Về đầu tư: Trong những năm qua, nhiều công ty Ấn Độ đã đầu tư
tại Việt Nam. Từ năm 1988 đến tháng 12-2010, Ấn Độ có 50 dự án FDI với
số vốn còn hiệu lực 214,5 triệu USD. Ấn Độ đầu tư tại Việt Nam chủ yếu
là dầu khí, thép, khóang sản, chế biến chè, đường, chế biến thực phẩm
và đào tạo công nghệ thông tin. Trong những năm gần đây, vốn FDI từ Ấn
Độ gia tăng. Năm 2006, có 12 dự án với tổng số vốn 46,4 triệu USD. Năm
2007 có 7 dự án với vốn đăng ký 39,1 triệu USD, năm 2008 có 31 dự án,
vốn 190,5 triệu USD... Dự báo, nguồn vốn FDI từ Ấn Độ vào Việt Nam năm
2011 sẽ cao hơn các năm trước đây, đạt khoảng 100 triệu USD. Hiện nay,
Công ty Dầu khí Ấn Độ đang hợp tác với Petro Việt Nam triển khai các dự
án thăm dò và khai thác dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam.
Về viện trợ phát triển: Các khoản tín dụng ưu đãi mà Chính phủ
Ấn Độ dành cho Việt Nam được sử dụng hiệu quả. Những năm gần đây, Chính
phủ Ấn Độ đã giúp Việt Nam xây dựng Trung tâm đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam - Ấn Độ, là
quà tặng của Chính phủ Ấn Độ dành cho nhân dân Việt Nam. Trung tâm
được xây dựng đồng bộ và hiện đại với các phòng nghiên cứu và học tập
như: phòng học trực tuyến và thư viện số, phần mềm hệ thống và mạng dữ
liệu, công nghệ web, thư viện với trên 11.000 đầu sách và phòng tư vấn
công nghệ thông tin.
Về khoa học - công nghệ: Ấn Độ là một trong những đối tác quan
trọng trong lĩnh vực khoa học công nghệ của Việt Nam. Ngoài việc thành
lập Tiểu ban hợp tác về khoa học công nghệ, hai nước đã ký Nghị định
thư đầu tiên về công nghệ thông tin vào tháng 8-1999. Ấn Độ đang giúp
Việt Nam trong một số dự án công nghệ thông tin, trong đó có Dự án hỗ
trợ phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp phần mềm ở Việt Nam. Ngoài
ra, hai nước có quan hệ hợp tác tốt trong các lĩnh vực tiên tiến như sử
dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích công nghệ sinh học (lai tạo giống
cây trồng, vật nuôi, phát triển nông nghiệp).
Về giáo dục và đào tạo: Từ đầu những năm 90 thế kỷ XX, hằng
năm, Chính phủ Ấn Độ dành cho Việt Nam trên 100 suất học bổng (14 suất
học sau đại học theo Chương trình trao đổi văn hóa CEP và hơn 100 suất
theo Chương trình kinh tế kỹ thuật ITEC ngắn hạn) để đào tạo đại học,
sau đại học, trong hầu hết các lĩnh vực như kinh tế, thương mại, công
nghệ sinh học, công nghệ thông tin, y tế, nông nghiệp, thú y, ngân hàng,
bảo hiểm, năng lượng hạt nhân v.v.. Ngoài ra, Ấn Độ cũng cấp mới cho
Việt Nam một số học bổng trong khuôn khổ hợp tác sông Hằng - sông Mê
Công, Kế hoạch Cô-lôm-bô. Ấn Độ cũng giúp Việt Nam thành lập Trung tâm
Đào tạo tiếng Anh tại Đà Nẵng. Ấn Độ là một điểm đến đầy hứa hẹn cho
sinh viên Việt Nam.
Về văn hóa: Hằng năm, hai nước đều tiến hành trao đổi các đoàn
nghệ thuật và văn hóa. Hai bên đang chuẩn bị ký kết chương trình hợp
tác, trao đổi giữa các đoàn thông qua các chương trình, dự án song
phương và đa phương với sự viện trợ, hỗ trợ của hai chính phủ.
Về các quan hệ khác: Ngoài các lĩnh vực kinh tế, hợp tác giữa
hai nước Việt Nam và Ấn Độ trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, y tế,
bảo vệ sức khỏe cộng đồng, tài nguyên, môi trường, xóa đói giảm nghèo,
phát triển nông thôn... cũng có những bước phát triển tốt đẹp thông qua
việc trao đổi đoàn, trao đổi thông tin, tài liệu, hợp tác đào tạo...
góp phần tăng cường quan hệ hợp tác gắn bó và tin cậy giữa hai nước.
Tuy nhiên, bên cạnh các thành tựu và kết quả to lớn, quan hệ trên một
số lĩnh vực như thương mại, đầu tư, du lịch vẫn còn hạn chế. Kim
ngạch thương mại song phương giữa hai nước còn khiêm tốn và không đều.
Cơ cấu các mặt hàng trao đổi thương mại chưa tương xứng với tiềm lực
của cả hai nước. Vốn FDI của Ấn Độ tại Việt Nam còn thấp và tăng chậm,
chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của Ấn Độ và nhu cầu thị trường
của Việt Nam.
Triển vọng quan hệ hợp tác Việt Nam - Ấn Độ
Những thành tựu to lớn đạt được trong gần 40 năm qua không chỉ nâng tầm
hợp tác chiến lược giữa hai nước mà còn là tiền đề quan trọng mở ra
triển vọng tốt đẹp cho những năm tới. Việt Nam và Ấn Độ là hai nền kinh
tế đang vươn lên mạnh mẽ, với tốc độ tăng trưởng cao của thế giới và khu
vực châu Á, có chế độ chính trị ổn định, triển vọng tăng cường quan hệ
hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới là hết sức to lớn. Việt Nam
đặt mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, rất cần vốn, thị trường, khoa học công nghệ hiện đại,
nên mong muốn củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn
diện với Ấn Độ trong tất cả các lĩnh vực mà Ấn Độ có thế mạnh. Việt Nam
và Ấn Độ đều là hai nước sản xuất lớn của các mặt hàng nông sản xuất
khẩu nên sẽ có nhiều hình thức hợp tác đầu tư để tăng hiệu quả. Trên
thực tế, Việt Nam đã và đang dành nhiều cơ hội lớn cho các công ty Ấn Độ
đầu tư vào các lĩnh vực như nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến thực
phẩm, thăm dò và khai thác dầu khí mà Ấn Độ có thế mạnh. Các thành phẩm
hợp tác giữa hai nước không chỉ có triển vọng sử dụng nhằm đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng ở Việt Nam và Ấn Độ mà còn ở các nước thứ ba, trong
và ngoài ASEAN. Việc ký kết Hiệp định tự do thương mại Ấn Độ - ASEAN và
việc Ấn Độ công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam sẽ giúp mở rộng
khung pháp lý cho cộng đồng doanh nghiệp của cả hai nước xâm nhập thị
trường của nhau mạnh mẽ hơn, do đó có triển vọng tăng lợi thế cạnh
tranh về các mặt hàng với các nước khác.
Việt Nam và Ấn Độ đã ký Hiệp định Hàng không dân dụng và trong tương
lai, đường bay thẳng giữa hai nước sẽ sớm đi vào hiện thực. Sự kiện
quan trọng đó sẽ là điều kiện, mở ra triển vọng tốt đẹp, thúc đẩy quan
hệ giữa hai nước phát triển toàn diện theo đúng những cam kết của đối
tác chiến lược, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, du lịch
quốc phòng và an ninh, vì lợi ích của nhân dân hai nước.
Triển vọng đó đã được minh chứng qua những tín hiệu tốt lành của năm
2011. Chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ trong tháng
9-2011 và đặc biệt là chuyến thăm Ấn Độ của Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang tháng 10-2011 là những sự kiện chính trị, ngoại giao quan trọng, mở
ra những triển vọng tốt đẹp góp phần củng cố và nâng quan hệ đối tác
chiến lược giữa hai nước lên tầm cao mới vì lợi ích của nhân dân hai
nước, góp phần củng cố hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á và trên thế
giới./.