Vũ
Tất Thắng (Exryu Việt Nam)
Chế độ
thi tuyển và đãi ngộ công chức của
Nhật Bản
Trong cơ cấu tổ chức
của chính phủ NB có viện nhân sự là cơ
quan quản lý việc tuyển chọn công
chức và quy định chế độ lương
bổng cho công chức. Mỗi năm, các bộ và
cơ quan ngang bộ có nhiệm vụ báo cáo
với viện nhân sự về nhu cầu nhân
sự mới, cụ thể là cần bao nhiêu công
chức cao cấp, bao nhiêu công chức trung
cấp cho năm tới. Viện nhân sự
tổng gộp nhu cầu của các bộ và cơ
quan ngang bộ rồi quyết định số công
chức cần tuyển chọn cho cả năm.
Ngân sách của NB bắt đầu ngày 1 tháng 4 hàng
năm ; niên học cũng vậy. Vì thế
kỳ thi tuyển công chức được
tổ chức vào tháng 10 hàng năm. Người
được tuyển chọn sẽ bắt
đầu làm việc vào đầu tháng tư năm
sau.
Hàng năm viện nhân sự và chính
quyền địa phương tổ chức các
kỳ thi tuyển công chức cao cấp và trung
cấp. Công chức cao cấp là những cán
bộ sẽ có thể lên cấp chỉ đạo
và lãnh đạo nghĩa là từ trưởng
phòng tới thứ trưởng. Công chức trung
cấp hỗ trợ cho công chức cao cấp
giải quyết những vấn đề sự
vụ và kỹ thuật. Ngoài giới hạn
về tuổi tác : dưới 26 tuổi, thí sinh
không cần có bằng cấp nào cả. Tuy nhiên
đề thi cho công chức cao cấp có trình
độ đại học và đề thi cho công
chức trung cấp có trình độ trung học
phổ thông. Trình độ đề thi khá cao nên
các thí không đủ thực lực thì không dám
dự thi. Khi trúng tuyển, thí sinh có quyền nêu
nguyện vọng muốn vào làm trong bộ nào;
họ chỉ đạt nguyện vọng của
mình nếu có điểm cao.
Người Nhật có thông lệ
tốt là cấm kỵ việc anh em, chị em hay
bố con, mẹ con cùng làm trong một cơ quan.
Trong các công ty cũng vậy. Xin nêu
một ví dụ : Khi công ty Honda cổ phần hoá,
nghĩa là chuyển từ công ty TNHH sang công ty
cổ phần, ông Honda Soichiro, người sáng
lập công ty đã chuyển em trai mình, một
kỹ sư giỏi sang một công ty khác vì ông
nghĩ rằng việc em trai ông làm trong công ty
Honda sẽ làm giảm sĩ khí của công nhân viên
Honda!
Về lương bổng, hàng năm
bộ tài chính lấy thống kê lương
bổng trong bộ môn dân doanh rồi tính ra bình
quân lương bổng dân doanh. Mức lương
khởi đầu cho công chức cao cấp
được định bởi mức lương
trung bình của các kỹ sư hay nhân viên viên
mới tốt nghiệp đại học trong
bộ môn dân doanh cộng thêm một hằng
số tương đối. Mức lương
cho công chức trung cấp cũng được
định bởi mức lương trung bình
của các công nhân viên thuộc bộ môn dân
doanh mới tốt nghiệp trung học phổ thông
(lớp 12) cộng thêm một hằng số tương
tự. Việc tăng lương hàng năm cũng
làm theo phương pháp này. Ngoài ra, chế độ
lương hưu cho công chức NB cũng tương
đối cao hơn chế độ lương
hưu trong bộ môn dân doanh.
Mục đích của viện nhân
sự NB là định mức đãi ngộ trên
trung bình để thu hút nhân tài.
Nhờ vậy NB luôn có một
đội ngũ cán bộ công chức rất
ưu tú. Họ là đầu tầu cho phát
triển kinh tế xã hội tại NB.
Ngoài chế độ thi tuyển
công chức, Nhật Bản còn có các kỳ thi
lấy tư cách hành nghề như
kỳ thi tư pháp, kỳ thi y sĩ
quốc gia, kỳ thi kiến trúc sư quốc
gia, kỳ thi thiết kế viên cao cấp và trung
cấp, kỳ thi kế toán viên cấp cao cấp
và trung cấp, kỳ thi kiểm toán viên, v.v.
Các kỳ thi này được
tổ chức mỗi năm một lần. Tỉ
dụ như kỳ thi tư pháp dành cho những
người sẽ hành nghề luật sư,
kiểm sát hay thẩm phán, thí sinh không nhất
thiết phải tốt nghiệp đại
học ngành luật. Thẩm phán và kiểm sát viên
được tuyển chọn trong số
những thí sinh trúng tuyển kỳ thi tư pháp
này. Muốn hành nghề luật sư, thì sau khi
trúng tuyển phải theo học một khoa chuyên
tu tư pháp trong một năm, rồi tốt
nghiệp khoa này. Các thẩm phán và kiểm sát viên
tương lai cũng phải theo học và
tốt nghiệp khoa chuyên tu tương tự.
Muốn hành nghề y sĩ, ngoài
việc tốt nghiệp ngành y tại một
đại học, người Nhật phải thi
đỗ kỳ thi y sĩ quốc gia. Điều
này khiến dân chúng Nhật Bản yên tâm khi
phải đến bệnh viện vì y sĩ
Nhật Bản có trình độ chuyên môn đáng
tin cậy chứ không phải lang băm. Một
số người tốt nghiệp đại
học ngành y, sau vài lần thất bại trong
kỳ thi y sĩ quốc gia, phải chuyển
nghề!
Chế độ
khoa cử của Trung Hoa và chế độ thi
tuyển và đãi ngộ công chức của Trung
Quốc
Chế độ khoa cử của
Trung Hoa bắt đầu khoảng 1400 năm trước
vào đời nhà Tùy. Chế độ này
chấm dứt vào cuối đời Thanh (1905), năm
nay tròn 100 năm. Hiện xã hội TQ coi trọng
học lịch (xã hội học lịch = coi
trọng lý lịch học tập). Sự cạnh
tranh mãnh liệt để thi vào các trường
đại học danh tiếng hàng đầu có
thể ví như “chế độ khoa cử
hiện đại”. Tuy nhiên, trong bối cảnh
sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ nét và việc
sản nghiệp hóa (xã hội hóa) giáo dục
được xúc tiến nhanh, khả năng tính
cho các học sinh thuộc gia đình nghèo theo
học đại học là rất nhỏ. Đối
với giai tầng nghèo khó, cánh cửa vào con
đường hoạn lộ (làm cán bộ công
chức) gần như bị khép kín.
Công chức Trung Quốc có
cuộc sống ngày càng tương tự như
các quan lại của chế độ khoa cử
ngày xưa. Chế độ đãi ngộ cán
bộ công chức của TQ có thể nói là
vẹn toàn. Theo báo Công nhân nhật báo, 90% lao
động TQ không vào được hệ
thống bảo hiểm dưởng lão (hưu trí)
cơ bản, 85% công dân TQ không có bảo hiểm
y tế cơ bản. Trong khi đó, ngoài các
chế độ bảo hiểm thông thường,
cán bộ công chức TQ còn được hưởng
phụ cấp giao thông, nhà ở và các chế
độ phúc lợi khác.
Năm nay TQ đã thông qua bộ
luật công chức, có hiệu lực từ ngày
1 tháng 1 năm 2006. Theo bộ luật này, công
chức trung ương và địa phương
được chia thành hai loại : Công chức chỉ
đạo (có thể lên chức trưởng phòng
trở lên) và công chức không chỉ đạo,
tức những công chức sự vụ và
kỹ thuật. Cả hai loại đều phải qua
thi tuyển công khai và công bằng. Chế độ
này mô phỏng theo chế độ công chức
của Nhật Bản nêu trên chỉ khác tên
gọi. Công chức chỉ đạo là công
chức cao cấp và công chức không chỉ
đạo là công chức trung cấp của
Nhật Bản.
Theo tài liệu của báo Sankei Shinbun,
Nhật Bản, tại TQ, khoa thi tuyển công
chức chỉ đạo dành cho sinh viên đã
tốt nghiệp đại học cho năm 2006
đã được tổ chức ngày 26/11/05
gồm 97 bộ môn, tuyển chọn 10,282 cán
bộ cho toàn quốc. Đã có khoảng 365,000 thí
sinh dự thi. Tỉ lệ cạnh tranh khoảng
35 lần!
Trong một hội thảo khoa
học tại đại học Amoi, tỉnh Phúc
Kiến, đã xẩy ra tranh luận kịch
liệt về công tội của chế độ
khoa cử. Một bên phê bình chế độ
khoa cử là phong kiến. Bên kia cho rằng
chế độ khoa cử là chế độ công
bình. Trong hội thảo này, Giáo sư Vương
Di của đại học Thành Đô cho biết
từ đời Đường tới đời
Thanh, trong khoảng 10 vạn Tiến sĩ
được trọng dụng trong hệ
thống quan lại của Trung Hoa, có khoảng 1/2
xuất thân từ những gia đình đã ba
đời là thường dân; 46% các quan lại
trong “Tống sử” xuất thân từ giai
tầng đã ba đời là nông dân. Trong
khoảng 100 năm của triều đại nhà
Minh, tỉ lệ này đã tăng lên thành 58%.
Đặc trưng lớn nhất của chế
độ khoa cử là bất kỳ xuất thân
từ giai cấp nào, thuộc dân tộc nào, có lý
lịch và thuộc khu vực nào, hễ có tài -
thi đỗ là được trọng dụng. Nói
cách khác, chế độ này tuyển dụng
quan lại cho triều đình qua các kỳ thi công
khai và công bình. Sau khi chế độ khoa cử
của Trung Hoa chấm dứt vào đầu
thế kỷ 20, việc tuyển dụng cán
bộ công chức của TQ thường dựa vào
quan hệ gia đình và thâm niên trong quân đội.
Chế độ tuyển dụng này đã gây
nhiều tệ hại. Việc coi trọng lý
lịch học thuật (học lịch) gần
đây có vẻ như hồi quy về chế
độ khoa cử ngày xưa. Tuy nhiên chế
độ giáo dục cao đẳng và đại
học của TQ đã xa rời khái niệm “bình
đẳng về cơ hội”. Cố chủ
tịch Mao Trạch Đông đã có chính sách
nhằm giảm thiểu cách biệt giáo dục
giữa đô thị và nông thôn. Tuy nhiên vào
đầu thập kỷ 1990, ngành giáo dục TQ
đã được sản nghiệp hóa (xã
hội hóa), học sinh tiểu học và trung
học cơ sở bắt đầu phải
đóng học phí. Sự kiện học phí cho giáo
dục cao đẳng và đại học ngày
một cao, cộng thêm sự cách biệt thu
nhập ngày càng lớn giữa đô thị và nông
thôn, đã khiến cho cách biệt giáo dục
giữa đô thị và nông thôn ngày càng lớn
hơn. Vì học phí đại học đã cao
gấp nhiều lần thu nhập bình quân ở nông
thôn, đại đa số thanh niên xuất thân
nông thôn không đủ khả năng tài chính
để theo học đại học.
Theo một nghiên cứu của
viện khoa học xã hội TQ, cho tới cuối
dời nhà Thanh, 90% giai cấp trí thức sinh
sống và làm việc tại nông thôn. Sau khi
chế độ khoa cử bị hủy bỏ,
giai tầng trí thức chuyển đến các
đô thị. Hệ quả là trình độ tri
thức ở nông thôn ngày càng tụt hậu.
Nên chăng chúng ta áp dụng linh hoạt
kinh nghiệm của NB và TQ vào chế độ
thi tuyển và đãi ngộ công chức nước
ta
Như người viết đã
đề khởi trong bài “Cần một kế
sách tổng thể để chống tham nhũng”
(Nguyệt san Pháp Luật số 101, tháng 07/2005), nên
chăng Quốc hội soạn thảo và thông qua
luật công chức mới, trong đó qui định
việc tuyển chọn công chức qua các kỳ
thi công khai và công bằng. Chúng ta cũng nên tham
khảo chế độ đãi ngộ công
chức của NB và TQ để cải thiện
chế độ lương bổng công chức
nước ta. Thiển nghĩ đây vừa là cách
chống tiêu cực hữu hiệu nhất
vừa tụ tập được nhân tài.
Chúng ta cũng nên điều nghiên
việc thiết lập các kỳ thi lấy tư
cách hành nghề như các nước tiên
tiến đã và đang áp dụng thành công.
Ngoài ra, thiển nghĩ chế
độ khoa cử tại Việt nam có nhiều
điểm tương đồng với chế
độ của Trung Hoa. Tỉ lệ các Tiến
sĩ nước ta xuất thân từ giai tầng
thường dân và nông thôn chắc cũng không
khác tỉ lệ của Trung Hoa nêu trên bao nhiêu,
nghĩa là khoảng 50%.
Chính sách Đổi Mới của
nước ta đã mang lại nhiều thành
quả to lớn. Đời sống nhân dân đã
được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên
phát triển kinh tế luôn đi đôi với
những phản tác dụng. Công cuộc đổi
mới của Việt nam đã phát sinh vấn
đề môi trường, làm tăng mức cách
biệt giầu nghèo và mức cách biệt khu
vực. Theo tư liệu của Tổng cục
thống kê, năm 2004, GDP trên đầu người
của Việt Nam là 588 USD2, nhưng ở TP
Hồ Chí Minh là 1.731 USD, tức là gấp khoảng 3
lần bình quân cả nước, trên mức ly
lục (take-off) kinh tế; tỉnh Bà Rịa Vũng
Tàu là 6.438 USD trong đó ngành dầu khí đóng góp
4772 USD, nếu lược bỏ dầu khí, GDP trên
đầu người của BR-VT là 1.666 USD.
Tỉnh có GDP trên đầu người thấp
nhất là Lai Châu : 169 USD! Như vậy, có
nhiều tỉnh và khu vực chỉ có GDP
khỏang 200 – 400 USD! Những năm gần đây,
học phí đã tăng tới mức chóng
mặt. Đấy là chưa kể các khoản
học thêm ngoài giáo trình của trường. Như
vậy, không chỉ các gia đình nông thôn
chiểm trên 70% dân số, mà cả các gia đình
thuộc giai tầng nghèo ở đô thị cũng
khó đưa con em vào cao đẳng hay đại
học. Như bạn đọc đã biết,
sự cách biệt giàu nghèo và sự cách biệt
giáo dục có tương quan hỗ tương khá
mạnh.
Nước ta có phương châm
phát triển kinh tế xã hội theo định hướng
chủ nghĩa xã hội. Nên chăng nhà nước
tạo chế độ giáo dục miễn phí chí
ít cho cấp tiểu học là cấp cưỡng
bách giáo dục hiện hành, đồng thời
trợ giúp học sinh sinh viên nông thôn tạo
điều kiện cho họ có khả năng
học lên cao đẳng / đại học.
Chỉ cần nhà nước quyết tâm cải
cách hành chính nhằm tiết kiệm - chống lãng
phí - chống tham nhũng theo các bộ
luật mới ban hành và cải tổ - hoàn
thiện chế độ thuế má thì việc
miễn phí cho giáo dục tiểu học không
phải là bất khả. Nếu chúng ta không có
những biện pháp hữu hiệu, sự cách
biệt giàu nghèo quá lớn sẽ làm giảm lòng
tin của nhân dân vào lý tưởng xã hội
chủ nghĩa mà hệ quả có thể là
sự bất ổn định xã hội
11/12/2005
Vũ Tất Thắng
1 Chức vụ bộ trưởng
do Thủ tướng bổ nhiệm từ các
nghị sĩ Hạ nghị viện thuộc đảng
cầm quyền. Thủ tướng là chủ
tịch đảng cầm quyền (đảng
chiếm đa số nghị sĩ trong Hạ
viện).
2 Tính theo tỉ giá 1USD = 15.750 đồng.
Nguồn: http://www.erct.com