Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2011

13.“Cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” ở Áp-ga-ni-xtan sau 10 năm nhìn lại

11:16' 7/10/2011
TCCSĐT - Cách đây vừa tròn 10 năm (7-10-2001), dựa trên cơ sở Nghị quyết số 1368 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ngày 12-9-2001, Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ đã phát động “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” ở Áp-ga-ni-xtan trong khuôn khổ chiến dịch quân sự mang tên "Tự do bền vững" (“Enduring Freedom”) nhằm đáp trả vụ khủng bố ngày 11-9 được cho là do tổ chức khủng bố An-kê-đa (Al-Qaeda) gây ra. Sau 10 năm nhìn lại, nhiều sự kiện chính trị và quân sự trên thế giới đã chứng tỏ, “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” ở Áp-ga-ni-xtan không đơn giản chỉ là cuộc chiến chống khủng bố.


Một cuộc chiến “chống khủng bố” chưa từng có trong lịch sử
Theo nhiều chuyên gia quân sự và an ninh, để chống khủng bố, trước hết phải sử dụng lực lượng an ninh và tình báo, lực lượng đặc nhiệm và các biện pháp phi quân sự khác, nhưng “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” ở Áp-ga-ni-xtan lại sử dụng một lực lượng quân sự đông tới hàng trăm nghìn quân, được trang bị đến “tận chân răng”. Đó là Lực lượng liên minh chống khủng bố đa quốc gia do Mỹ chỉ huy và Lực lượng hỗ trợ an ninh quốc tế ISAF (International Security Assistance Force) dưới quyền chỉ huy của NATO. Theo tuyên bố chính thức, nhiệm vụ chủ yếu của cả hai lực lượng quân sự này là truy tìm và tiêu diệt các chiến binh của phong trào hồi giáo cực đoan Ta-li-ban ở Áp-ga-ni-xtan và mạng lưới khủng bố An-kê-đa.
Chiến dịch “Tự do bền vững" mở màn bằng các cuộc ném bom vào mục tiêu chiến lược của Ta-li-ban ở các thành phố Ca-bun, Can-đa-ha, Hê-rát, Gia-la-la-mát, Ma-gia-ri Sa-ríp và một số thành phố khác. Ngày 7-12-2001, căn cứ chủ yếu của Ta-li-ban ở thành phố Ca-bun bị tiêu diệt. Trong vòng 2 tháng, chế độ Ta-li-ban bị sụp đổ. Tháng 12-2001, thủ lĩnh chính của các nhóm đối lập ở Áp-ga-ni-xtan tổ chức gặp nhau ở Bôn (Đức) để thống nhất kế hoạch thành lập Chính phủ dân chủ mới do ông Ha-mít Ca-dai, một người thuộc dân tộc Pu-xtun ở Áp-ga-ni-xtan làm Tổng thống lâm thời. Tháng 10-2004, trong cuộc bầu cử toàn quốc, ông Ha-mít Ca-dai được bầu làm Tổng thống Áp-ga-ni-xtan. Tiếp đến, tháng 9-2005, các cuộc bầu cử lập pháp được tổ chức. Cũng trong năm 2005, Mỹ và Áp-ga-ni-xtan đã ký kết thoả thuận đối tác chiến lược, theo đó các bên cam kết xây dựng mối quan hệ chiến lược lâu dài giữa hai quốc gia. Như vậy, kết cục ban đầu của “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” tới năm 2005 là Mỹ đã dựng lên một nhà nước ở Áp-ga-ni-xtan để xúc tiến lợi ích chiến lược lâu dài của họ ở quốc gia Trung Á này.
Tuy nhiên, những động thái trên của Mỹ là hướng tới mục tiêu chiến lược lâu dài, là bước khởi đầu để Mỹ thực hiện tham vọng hiện diện lâu dài tại khu vực có vị trí cực kỳ quan trọng trong vành đai địa - chính trị được gọi là “Trung Đông Lớn”, kéo dài từ Pa-ki-xtan, qua Áp-ga-ni-xtan tới các nước Trung Á thuộc Liên Xô cũ (như U-dơ-bê-ki-xtan, A-déc-bai-dan, Cư-rơ-gư-xtan), qua I-ran, I-rắc ở khu vực Trung Đông cho tới vùng Bắc Phi. Một vành đai địa - chính trị ẩn chứa các nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ mà các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là Mỹ đang mong muốn.
“Bàn cờ lớn” khó chơi
Ông Zbi-nép Brê-din-xki, cố vấn an ninh quốc gia cho nhiều đời tổng thống Mỹ và nay là cố vấn cho đương kim Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma đã từng ví khu vực Trung Á mà tâm điểm là Áp-ga-ni-xtan là “bàn cờ lớn” trong thế kỷ XXI. Theo ông, ai thắng được ván cờ này, người đó sẽ giành quyền bá chủ lục địa Á-Âu và tiến tới lãnh đạo thế giới. Như vậy, bằng việc phát động “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” ở Áp-ga-ni-xtan, Mỹ đã chính thức tham dự cuộc chơi trên “bàn cờ lớn” này. Nhưng quả thật, đây là ván cờ khó, nếu không muốn nói là cực kỳ hóc búa, bởi nơi đây hội tụ lợi ích sống còn của nhiều quốc gia mà không dễ gì Mỹ có thể làm chủ.
Mặc dù Mỹ và NATO tiếp tục chiến dịch quân sự với sự hỗ trợ lực lượng của Chính phủ Áp-ga-ni-xtan do Tổng thống Ha-mít Ca-dai đứng đầu vừa mới thành lập, lực lượng Ta-li-ban đã quay trở lại thiết lập và phục hồi ảnh hưởng tại nhiều vùng khác nhau. Điều khó xử đối với Mỹ là Ta-li-ban sử dụng các khu vực có nhiều bộ tộc ở Áp-ga-ni-xtan sinh sống trên vùng tiếp giáp giữa Áp-ga-ni-xtan với Pa-ki-xtan làm căn cứ hậu cần. Thêm vào đó, Bộ chỉ huy tối cao của mạng lưới khủng bố An-kê-đa, đứng đầu là Ô-xa-ma Bin La-đen chuyển sang Pa-ki-xtan để tiếp tục hoạt động. Tình hình này buộc Mỹ phải áp dụng cái gọi là “chiến lược AfPak”, nghĩa là mở rộng “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” sang chiến trường Pa-ki-xtan. Kể từ đây, quan hệ giữa Mỹ với đồng minh Pa-ki-xtan trong cuộc chiến chống khủng bố bắt đầu rạn nứt nghiêm trọng.     
Bất chấp các nỗ lực của Mỹ trong việc thực hiện “chiến lược AfPak”, đến năm 2008, chiến thuật chủ yếu của Ta-li-ban lại là tập trung tiến hành các vụ tiến công quân Mỹ và NATO từ lãnh thổ Pa-ki-xtan. Trong tình thế đó, các lực lượng của Mỹ và NATO phải phối hợp với quân đội Pa-ki-xtan tiến hành các hoạt động càn quét Ta-li-ban trên biên giới với Áp-ga-ni-xtan. Tháng 2-2008, Ta-li-ban tiến hành một trong những chiến dịch táo bạo nhất nhằm phá hoại tuyến đường bảo đảm hậu cần của NATO đi qua lãnh thổ Pa-ki-xtan. Theo tính toán, có tới 80% lương thực, vũ khí và đạn dược của Mỹ và NATO được chuyên chở qua tuyến đường này. Do các đợt tiến công liên tục của Ta-li-ban, hoạt động bảo đảm hậu cần của NATO gần như bị tê liệt. Trong tình thế đó, Mỹ và NATO buộc phải nhờ Nga cho phép máy bay của NATO mở một tuyến hành lang vận chuyển hậu cần đi qua không phận của Nga trên tinh thần “cài đặt lại” quan hệ Mỹ - Nga sau khi Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma bước vào Nhà Trắng.
Trước tình thế ngày càng bế tắc, ngày 1-12-2009, Tổng thống Ba-rắc Ô-ba-ma công bố chiến lược mới ở Áp-ga-ni-xtan dựa trên ba trụ cột. Một là, tăng thêm quân cho chiến trường Áp-ga-ni-xtan. Hai là, hợp tác quốc tế với Liên hợp quốc và các đối tác quốc tế cũng như với nhân dân Áp-ga-ni-xtan. Ba là, hợp tác chặt chẽ hơn nữa với Pa-ki-xtan. Theo chiến lược này, Mỹ điều động thêm 30.000 quân tới Áp-ga-ni-xtan để nhanh chóng ổn định tình hình nhằm rút quân khỏi đây từ tháng 7-2011. Đối phó với chiến lược mới của Mỹ ở Áp-ga-ni-xtan, trong 2 năm 2010-2011, Ta-li-ban chuyển sang tăng cường sử dụng chiến thuật chiến tranh du kích nhằm vào các đoàn tuần tra, các đội quân hộ tống hậu cần của NATO, rải mìn trên các tuyến giao thông vận tải, và bất ngờ đột kích vào những vị trí sơ hở của đối phương. Đến cuối tháng 5-2011, tỉnh Nu-ri-xtan tiếp giáp với Pa-ki-xtan đã hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của Ta-li-ban.
Năm 2011, các lực lượng tình báo và đặc nhiệm của Mỹ đã tiến hành hai chiến dịch được coi là “thành công”. Trong đó, chiến dịch thứ nhất được thực hiện vào đêm ngày 1 rạng sáng ngày 2-5-2011 với kết quả là tiêu diệt được trùm khủng bố Ô-xa-ma Bin La-đen. Và chiến dịch thứ hai thực hiện vào ngày 23-5-2011 trên lãnh thổ Pa-ki-xtan tiêu diệt Mô-ha-mét Ô-ma, một thủ lĩnh của phong trào Ta-li-ban ở Áp-ga-ni-xtan. Tuy nhiên, do hai chiến dịch này được tiến hành bí mật và do các lực lượng đặc nhiệm của Mỹ thực hiện trên lãnh thổ Pa-ki-xtan, nên đã bị phía Pa-ki-xtan phản đối, thậm chí khiến quan hệ đồng minh giữa Mỹ và quốc gia này bị đặt dấu hỏi nghi vấn. Điều trớ trêu nữa là, sau hai “chiến dịch” đó, cán cân sức mạnh vẫn không thay đổi. Theo các chuyên gia quân sự, việc cân bằng lực lượng trên chiến trường Áp-ga-ni-xtan vẫn không có lợi cho cả Mỹ và NATO, trong khi Ta-li-ban vẫn tổ chức các cuộc tiến công liên tục nhằm vào lực lượng của Mỹ và quân chính phủ trên toàn lãnh thổ Áp-ga-ni-xtan, thậm chí ngay trung tâm chỉ huy của NATO ở thủ đô Ca-bun.  
Rút quân nhưng vẫn ở lại lâu dài
Theo số liệu của nhiều nguồn tin độc lập, trong vòng 10 năm kể từ năm 2001, đã có 12.100 dân thường Áp-ga-ni-xtan thiệt mạng, liên quân quốc tế do Mỹ và NATO chỉ huy cũng bị mất 2.500 người trong các chiến dịch quân sự, trong đó Mỹ bị thiệt hại nhiều nhất, với hơn 1.600 người và tiêu tốn khoảng trên 100 tỉ USD mỗi năm. Theo kết quả điều tra dư luận trong năm 2011, có tới 56% người Mỹ đã yêu cầu Lầu Năm góc nhanh chóng rút quân khỏi Áp-ga-ni-xtan, trong khi con số này ở năm 2010 là 40%.
Tháng 7-2011, Tổng thống Ba-rắc Ô-ba-ma công bố kế hoạch rút quân khỏi Áp-ga-ni-xtan của Mỹ, bởi theo ông, Mỹ đã “giành được những thắng lợi cơ bản”. Theo kế hoạch của Chính phủ Áp-ga-ni-xtan, việc Mỹ và NATO chuyển giao trách nhiệm an ninh cho phía Áp-ga-ni-xtan sẽ được hoàn tất vào cuối năm 2014. Hiện Oa-sinh-tơn và Ca-bun đang tiến hành các cuộc đàm phán “bí mật” để tiến tới ký kết một hiệp định bảo đảm an ninh lâu dài ở Áp-ga-ni-xtan. Theo đó các lực lượng quân sự, lực lượng đặc nhiệm và các căn cứ không quân của Mỹ sẽ được duy trì ở Áp-ga-ni-xtan sau năm 2014, vào thời điểm Mỹ sẽ rút 130.000 quân ra khỏi nước này. Theo nhận định của nhiều chuyên gia quân sự, dưới hình thức này hay hình thức khác, Mỹ sẽ còn hiện diện lâu dài ở Áp-ga-ni-xtan, chừng nào “ván cờ lớn” chưa ngã ngũ.   
Nhìn lại sau 10 năm, có thể thấy “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” do Mỹ phát động ở Áp-ga-ni-xtan đã không đạt được mục đích đề ra là tiêu diệt mạng lưới khủng bố An-kê-đa và lực lượng Ta-li-ban mà Mỹ cho là “che chở khủng bố”. Mặc dù trùm khủng bố Ô-xa-ma Bin La-đen bị tiêu diệt nhưng tổ chức khủng bố An-kê-đa vẫn tiếp tục hoạt động, thậm chí phạm vi hoạt động còn rộng khắp hơn so với thời điểm năm 2001. Thêm vào đó, phong trào Ta-li-ban vẫn kiểm soát phần lớn lãnh thổ Áp-ga-ni-xtan và có ảnh hưởng ngày càng lớn ở quốc gia này. Mỹ và liên quân vẫn không thành lập được bộ máy quyền lực ổn định ở Áp-ga-ni-xtan. Chính phủ của Tổng thống Ha-mít Ca-dai vẫn không được lòng dân bởi nạn tham nhũng của nhiều quan chức, còn Quốc hội nước này cho đến nay vẫn chưa được Tòa án tối cao phê chuẩn. Vấn đề khó khăn nhất và vẫn chưa được giải quyết hiện nay ở Áp-ga-ni-xtan là việc xây dựng bộ máy quyền lực được đa số dân chúng thừa nhận và ủng hộ.
Lối thoát cho sự bế tắc hiện nay ở Áp-ga-ni-xtan là cần phải đạt được sự đồng thuận xã hội ở quốc gia này nhằm xây dựng một chính phủ hòa hợp dân tộc, trong đó có sự tham gia của phong trào Ta-li-ban. Người Mỹ đã hiểu được điều này và trong thời gian qua họ đã bắt đầu có các cuộc tiếp xúc với đại diện của Ta-li-ban. Tổng thống Áp-ga-ni-xtan Ha-mít Ca-dai cũng đã tuyên bố, ở Áp-ga-ni-xtan sẽ không thể tồn tại một nhà nước nếu không thu hút được sự ủng hộ của những người dân đi theo Ta-li-ban.
Như vậy, từ chỗ tuyên bố phát động “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” nhằm tiêu diệt các lực lượng chủ yếu của Ta-li-ban và An Kê-đa, nay Mỹ lại chuyển sang bắt tay với Ta-li-ban để xây dựng một chính phủ ổn định ở Áp-ga-ni-xtan. Phải chăng đây là bài học mà Mỹ đã rút ra được và đem ra áp dụng trong các cuộc bạo động chính trị ở Bắc Phi và Trung Đông, trong đó Mỹ đứng ra ủng hộ các lực lượng đối lập bao gồm cả các lực lượng hồi giáo cực đoan, như trong các sự kiện ở Ai Cập, Li-bi, Xi-ri và An-giê-ri...?./.
Hương Ly