Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công đánh dấu một thời đạimới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - thời đại nhân dân đứng lên làm chủ vậnmệnh đất nước, tự lựa chọn, quyết định con đường đi cho dân tộc. Với thắng lợicủa Cách mạng Tháng Tám 1945, khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của cả dân tộcViệt Nam đã thành hiện thực. Đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nướcViệt Nam dân chủ cộng hòa (DCCH), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "NướcViệt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do,độc lập"1. Sự kiện Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên đượcthành lập ở Việt Nam là bước khởi đầu, song đặc biệt quan trọng đột phá vào hệthống dinh lũy của chủ nghĩa đế quốc, báo hiệu thời kỳ tan rã không tránh khỏicủa chủ nghĩa thực dân cũ. Với tầm vóc lớn lao, ý nghĩa to lớn mang tầm quốcgia và quốc tế, thành quả Cách mạng Tháng Tám - thành quả xương máu của dân tộcViệt Nam - trở thành đối tượng đánh phá, tiêu diệt của các thế lực đế quốc,thực dân.
Nhất quán với ý đồ quay lại Đông Dương, khi cuộc Chiếntranh thế giới thứ hai đang trong giai đoạn kết thúc, thực dân Pháp ráo riếtchuẩn bị cho kế hoạch quay trở lại nơi mà chúng vốn coi là "lãnh địa"của mình. Trong tình hình đó, ngày 17-7-1945, Hội nghị Potsdam nhóm họp và raquyết định đưa quân đội Đồng minh vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật. Quyếtđịnh của Hội nghị Potsdam đã dẫn tới sự có mặt của một lực lượng lớn quân độinước ngoài thuộc các thế lực thù địch, luôn nuôi dã tâm chống phá, lật đổ chínhquyền cách mạng Việt Nam còn non trẻ, vừa mới ra đời. Đây là một sự chênh lệchlớn về cán cân lực lượng, hết sức bất lợi cho chính quyền cách mạng còn trứngnước.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, cùng một lúc phải đối phóvới nhiều kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ngay từ những ngày đầu tiênđã xác định: "Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưahoàn thành, vì nước chưa được hoàn toàn độc lập"2; nhận diệnmột cách chính xác kẻ thù nguy hại nhất lúc này vẫn "là thực dân Phápxâm lược,phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng"3.Bên cạnh giặc ngoại xâm, giặc "nội xâm" tiếp tục hoành hành, gây ranhững hậu quả nghiêm trọng. Tổ quốc lâm nguy!
Trong tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", trênnguyên tắc giữ vững chủ quyền và độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảngta đã có những bước đi sách lược khôn khéo, phân hoá cao độ kẻ thù, tạm thờihoà hoãn với quân Tưởng để giữ vững chính quyền, tạo điều kiện đối phó với quânPháp ở miền Nam, từng bước phá tan âm mưu “diệt Cộng cầm Hồ”, “Hoa quân nhậpViệt” của Tưởng Giới Thạch; đồng thời, không ngừng củng cố khối đoàn kết toàndân, làm thất bại mọi mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, trừng trị bọnphản cách mạng và động viên toàn thể nhân dân đoàn kết một lòng, dốc sức xâydựng thực lực đất nước.
Sau hơn 6 tháng tích cực đấu tranh bảo tồn nền độc lập,tự do quý báu vừa mới giành được, đất nước lại đứng trước những thử thách và sựlựa chọn mới. Ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết tại Trùng Khánh.Hai nước lớn đã mua bán, trao đổi lợi ích, tạo điều kiện cho thực dân Pháp quaytrở lại Đông Dương; cho quân Tưởng Giới Thạch vơ vét thêm một ít quyền lợi,"bắt nhân dân Việt Nam nhắm mắt nuốt chửng Hiệp ước Hoa - Pháp"4.Nhận định về Hiệp ước Trùng Khánh, Đảng ta chỉ rõ: Hiệp ước Hoa - Pháp chứng tỏ"vì muốn cứu vãn quyền lợi chung của đếquốc, chống phong trào cách mạng vô sản và cáchmạng thuộc địa, Anh, Pháp và Mỹ - Tàu đã dẹp tạm mâu thuẫn bộ phận ở ĐôngDương"5 và "dù nhân dân Đông Dương muốn hay không muốn,nhất định chúng cũng thi hành Hiệp ước ấy"6. Vấn đề đặt ra ởđây không phải là đánh hay không đánh, mà "là biết mình biết người, nhậnmột cách khách quan những điều kiện lời lãitrong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng"7. Và đứng trướcthời khắc gay go, quyết liệt, đòi hỏi những hành động tỉnh táo, đúng đắn, Chủtịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã ra quyết sách lịch sử, sáng suốt: Hòa để tiến.
Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp ảnhcùng các thành viên Việt - Pháp tham gia ký Hiệp định Sơ bộ (ảnh Tư liệu) Quyết định hòa với Pháp để đuổi Tưởng về nước, Chủ tịchHồ Chí Minh và Đảng đã phân tích tình hình, khả năng có thể ký Hiệp ước vớiphía Pháp và nhận thấy rằng, tuy quân Tàu, Pháp đã ký Hiệp ước và có thái độkhông đếm xỉa đến ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, "nhưng chúng vẫngờm cách mạng Đông Dương và dư luận quốc tế, nên cả Tàu lẫn Pháp cũng muốn dàn xếpvới ta về việc quân Pháp kéo vào Bắc nướcta"8 và "bọn Pháp muốn dàn xếp với ta cũng bởi mộtlà cuộc kháng chiến của ta làm cho chúng haotốn; hai là phong trào phản chiến nảy nở trongnhân dân và quân đội Pháp; ba là nhân dân Pháp và Chính phủ Goanh (trong đócộng sản và xã hội chiếm đa số) không muốn kéodài cuộc đổ máu ở Đông Dương"9.Như vậy, điều kiện hòa hoãn đã hiện hữu và Dự thảo Hiệp định Sơ bộ Việt - Phápvới những điều khoản nhân nhượng cần thiết liên quan đến quyền lợi quốc gia đãđược nhanh chóng hoàn thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Hội đồng Chính phủbáo cáo với Ban Thường trực Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban kháng chiến, Cố vấn tốicao tại phiên họp đặc biệt sáng 6-3-1946 và được sự nhất trí của Hội nghị. Đểcho sự uỷ quyền có tính chất chính thức, tất các các đại biểu tham dự phiên họp đều ký vào Biên bản đặc biệt, đồng thời, Chính phủ cũng sẽ yêu cầu nhữngđại biểu vắng mặt ký vào biên bản sau.
Sau những cuộc thương lượng và nhân nhượng có nguyên tắc,16 giờ 30 phút chiều ngày 6-3-1946, lễ ký kết Hiệp định Sơ bộ Pháp -Việt đã diễn ra tại nhà số 38 phố Lý Thái Tổ, Hà Nội. Theo Hiệp định, nước Phápcông nhận Việt Nam DCCH là một quốc gia tự do, có Chính phủ, Quốc hội, quân độivà tài chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Khối Liên hiệp Pháp vàcam đoan thừa nhận kết quả cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ; nướcViệt Nam đồng ý để 15.000 quân Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội TrungHoa và sẽ rút hết sau 5 năm; hai bên đình chiến để mở cuộc đàm phán chính thức,trong khi đàm phán, quân đội hai bên giữ nguyên vị trí...10. Mặc dùphía Pháp chưa công nhận nền độc lập của Việt Nam, song bản Hiệp định lại mangtính chất văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên của nước Việt Nam độc lập ký vớinước ngoài, có sự chứng kiến của đại diện các nước Mỹ, Anh và Trung Hoa. Điềunày chứng tỏ rằng: Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp, "đối với nướcViệt Nam ta, sự ký kết đó có một kết quả hay là nước Pháp đã thừa nhận nướcViệt Nam là một nước tự chủ"11. Đánh giá về ý nghĩa quốc tế củabản Hiệp định, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Bản Hiệp định sẽ dẫn chúng ta đến một vị trí quốc tế ngày càng vững vàng, và đó là một thắng lợichính trị lớn lao”12. Như vậy, Hiệp định Sơ bộ đã tạo cơ sởpháp lý cho cuộc đấu tranh ngoại giao của Nhà nước Việt Nam DCCH trên trườngquốc tế. Bên cạnh đó, Hiệp định Sơ bộ Việt – Pháp đã biến thoả thuận tayđôi Hoa - Pháp thành thoả thuận tay ba Việt - Pháp - Hoa, kết thúc vai trò củalực lượng Tưởng Giới Thạch về mặt pháp lý theo quyết định của các nước lớn Đồngminh tại Hội nghị Potsdam. Việc đẩy quân đội Tưởng ra khỏi Việt Nam đã làm thayđổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng nước ta. Khi kháng chiến toànquốc nổ ra, thay vì phải đối đầu với hơn 30 vạn quân của các lực lượng thùđịch, 20 triệu đồng bào Việt Nam chỉ còn phải chiến đấu chống 10 vạn quân Pháp.Bên cạnh đó, chúng ta có "hai điều lợi lớn: a) Phá được mưu mô bọn Tàutrắng, của bọn phát xít, và của bọn Việt gian,bảo toàn được thực lực; b) Dành được giây phút nghỉ ngơi để sửa soạn cuộc chiếnđấu mới phối hợp với các cuộc chiến đấu củanhân dân Pháp, tiến tới giành độc lập hoàntoàn"13. Có thể nói rằng, mềm dẻo trong sách lược, cứng rắntrên nguyên tắc, Hiệp định Sơ bộ là bước đi cần thiết, hy sinh không gian để tranh thủ thời gian, biến thời gian thành lực lượng vật chất, củng cốthực lực một cách toàn diện để đối phó với kẻ thù chính là thực dân Pháp khichúng không còn có lực lượng đồng minh hỗ trợ tại chỗ; đồng thời, việc chấpnhận cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc cũng chính là một hình thức san đỡ gánh nặng, chia lửa với đồng bào miền Nam ruột thịt.
Trên thực tế, khi Hiệp định Sơ bộ được ký kết,trong Đảng và trong nhân dân cũng có rất nhiều thắc mắc, "cho đó là chính sách quá hữu", song thực tiễn đã chứng minh rằng, "chúng ta cần hoà bình để xây dựng nước nhà, cho nênchúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hoàbình. Dù thực dân Pháp đã bội ước, đã gâychiến tranh, nhưng gần một năm tạm hoà bình đãcho chúng ta thời giờ để xây dựnglực lượng căn bản"14, chuẩn bịsẵn sàng mọi mặt cho cuộc kháng chiến mà chúng ta lường định là khó tránh khỏi.
V.I. Lê-nin đã từng nói: "Nếu cólợi cho cách mạng, thì dù có phải thỏa hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thỏa hiệp"15. Hiệp định Sơ bộ 6-3 là một mẫu mực về sự thoả hiệp có nguyên tắc để phá thế bế tắc, vượt qua khó khăn, lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước lớn với nhau, cũng như mâu thuẫn nội bộ của mỗi lực lượng có mặttại Việt Nam; từ đó, tạo điều kiện đạt tới mục tiêu đã định, hướng tới độc lập,tự do thống nhất thực sự.
Trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, linh hoạt trong đấutranh, chủ động kiên quyết và khôn khéo, luôn hướng đích, việc nhân nhượng cónguyên tắc thể hiện sinh động qua Hiệp định Sơ bộ đã cho phép chúng tatrong những thời điểm nguy nan của đất nước biến nghịch thành thuận, biến nhữngkhả năng mỏng manh thành hiện thực có lợi cho cách mạng. Đó cũng là cái cách màChủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã cân nhắc lợi hại gần xa của dân tộc một cáchcẩn trọng, trong hai con đường đi đến độc lập, “đã chọn con đường đỡ hao tổn màcũng chắc chắn hơn”16.
Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ, Tạm ước 14-9-1946 làmột bước đi nhân nhượng tiếp theo của Đảng và Chính phủ ta, song chúng ta cũngkhẳng định dứt khoát: "Tạm ước ngày 14 tháng Chín là một bước nhân nhượngcuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi caotrọng của dân tộc!”17. Hiệp định Sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 đã xác định giới hạn, nguyên tắc của sự nhân nhượng - đó là không bao giờ làmtổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Có thể nói rằng, việc ký kết Hiệpđịnh Sơ bộ thể hiện bản lĩnh vững vàng của bộ não lãnh đạo cách mạng ViệtNam - nắm vững quy luật cách mạng, nắm vững thời và thế, biết cách tạo thời vàthế, từ đó phấn đấu giành thắng lợi từng bước, từ nhỏ đến lớn, từ thấp lên cao,biết tiến, biết thoái, thoái một bước để tiến hai bước, giải quyết hài hòa giữacương và nhu, lấy nhu thắng cương.
Hiện nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt NamXHCN đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, phức tạp trước sự vận động, biến đổinhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới, của các mối quan hệ quốc tế. Mốiquan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta là đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc -xây dựng đất nước phát triển bền vững, xây dựng thành công CNXH; độc lập, tự docủa Tổ quốc, an ninh và phát triển là lợi ích tối cao của dân tộc. Để đảm bảolợi ích quốc gia dân tộc, cần nhận thức rằng, bối cảnh tình hình mới đang làmcho hình thức tập hợp lực lượng, diễn biến các mối quan hệ quốc tế, các phươngthức hợp tác cũng đa dạng và phong phú hơn. Trước những biến động đó, một mặt, chúng ta phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH -mục tiêu bất biến; mặt khác, cần ý thức đầy đủ mối quan hệ giữa hợp tácvà đấu tranh; nhân nhượng và đấu tranh trong hợp tác quốc tế. Trong một thếgiới đang biến đổi sâu sắc, việc xử lý đúng đắn và hài hòa quan hệ của Việt Namvới các nước láng giềng và nước lớn, biết mình, biết người là điều kiện quantrọng để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc. Trên ý nghĩa ấy, những kinh nghiệmlịch sử từ việc ký kết Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) vẫn soi rọi con đườngđưa đất nước đi tới phồn vinh.
Nhất quán với ý đồ quay lại Đông Dương, khi cuộc Chiếntranh thế giới thứ hai đang trong giai đoạn kết thúc, thực dân Pháp ráo riếtchuẩn bị cho kế hoạch quay trở lại nơi mà chúng vốn coi là "lãnh địa"của mình. Trong tình hình đó, ngày 17-7-1945, Hội nghị Potsdam nhóm họp và raquyết định đưa quân đội Đồng minh vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật. Quyếtđịnh của Hội nghị Potsdam đã dẫn tới sự có mặt của một lực lượng lớn quân độinước ngoài thuộc các thế lực thù địch, luôn nuôi dã tâm chống phá, lật đổ chínhquyền cách mạng Việt Nam còn non trẻ, vừa mới ra đời. Đây là một sự chênh lệchlớn về cán cân lực lượng, hết sức bất lợi cho chính quyền cách mạng còn trứngnước.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, cùng một lúc phải đối phóvới nhiều kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ngay từ những ngày đầu tiênđã xác định: "Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưahoàn thành, vì nước chưa được hoàn toàn độc lập"2; nhận diệnmột cách chính xác kẻ thù nguy hại nhất lúc này vẫn "là thực dân Phápxâm lược,phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng"3.Bên cạnh giặc ngoại xâm, giặc "nội xâm" tiếp tục hoành hành, gây ranhững hậu quả nghiêm trọng. Tổ quốc lâm nguy!
Trong tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", trênnguyên tắc giữ vững chủ quyền và độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảngta đã có những bước đi sách lược khôn khéo, phân hoá cao độ kẻ thù, tạm thờihoà hoãn với quân Tưởng để giữ vững chính quyền, tạo điều kiện đối phó với quânPháp ở miền Nam, từng bước phá tan âm mưu “diệt Cộng cầm Hồ”, “Hoa quân nhậpViệt” của Tưởng Giới Thạch; đồng thời, không ngừng củng cố khối đoàn kết toàndân, làm thất bại mọi mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, trừng trị bọnphản cách mạng và động viên toàn thể nhân dân đoàn kết một lòng, dốc sức xâydựng thực lực đất nước.
Sau hơn 6 tháng tích cực đấu tranh bảo tồn nền độc lập,tự do quý báu vừa mới giành được, đất nước lại đứng trước những thử thách và sựlựa chọn mới. Ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết tại Trùng Khánh.Hai nước lớn đã mua bán, trao đổi lợi ích, tạo điều kiện cho thực dân Pháp quaytrở lại Đông Dương; cho quân Tưởng Giới Thạch vơ vét thêm một ít quyền lợi,"bắt nhân dân Việt Nam nhắm mắt nuốt chửng Hiệp ước Hoa - Pháp"4.Nhận định về Hiệp ước Trùng Khánh, Đảng ta chỉ rõ: Hiệp ước Hoa - Pháp chứng tỏ"vì muốn cứu vãn quyền lợi chung của đếquốc, chống phong trào cách mạng vô sản và cáchmạng thuộc địa, Anh, Pháp và Mỹ - Tàu đã dẹp tạm mâu thuẫn bộ phận ở ĐôngDương"5 và "dù nhân dân Đông Dương muốn hay không muốn,nhất định chúng cũng thi hành Hiệp ước ấy"6. Vấn đề đặt ra ởđây không phải là đánh hay không đánh, mà "là biết mình biết người, nhậnmột cách khách quan những điều kiện lời lãitrong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng"7. Và đứng trướcthời khắc gay go, quyết liệt, đòi hỏi những hành động tỉnh táo, đúng đắn, Chủtịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã ra quyết sách lịch sử, sáng suốt: Hòa để tiến.
Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp ảnhcùng các thành viên Việt - Pháp tham gia ký Hiệp định Sơ bộ (ảnh Tư liệu) Quyết định hòa với Pháp để đuổi Tưởng về nước, Chủ tịchHồ Chí Minh và Đảng đã phân tích tình hình, khả năng có thể ký Hiệp ước vớiphía Pháp và nhận thấy rằng, tuy quân Tàu, Pháp đã ký Hiệp ước và có thái độkhông đếm xỉa đến ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, "nhưng chúng vẫngờm cách mạng Đông Dương và dư luận quốc tế, nên cả Tàu lẫn Pháp cũng muốn dàn xếpvới ta về việc quân Pháp kéo vào Bắc nướcta"8 và "bọn Pháp muốn dàn xếp với ta cũng bởi mộtlà cuộc kháng chiến của ta làm cho chúng haotốn; hai là phong trào phản chiến nảy nở trongnhân dân và quân đội Pháp; ba là nhân dân Pháp và Chính phủ Goanh (trong đócộng sản và xã hội chiếm đa số) không muốn kéodài cuộc đổ máu ở Đông Dương"9.Như vậy, điều kiện hòa hoãn đã hiện hữu và Dự thảo Hiệp định Sơ bộ Việt - Phápvới những điều khoản nhân nhượng cần thiết liên quan đến quyền lợi quốc gia đãđược nhanh chóng hoàn thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Hội đồng Chính phủbáo cáo với Ban Thường trực Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban kháng chiến, Cố vấn tốicao tại phiên họp đặc biệt sáng 6-3-1946 và được sự nhất trí của Hội nghị. Đểcho sự uỷ quyền có tính chất chính thức, tất các các đại biểu tham dự phiên họp đều ký vào Biên bản đặc biệt, đồng thời, Chính phủ cũng sẽ yêu cầu nhữngđại biểu vắng mặt ký vào biên bản sau.
Sau những cuộc thương lượng và nhân nhượng có nguyên tắc,16 giờ 30 phút chiều ngày 6-3-1946, lễ ký kết Hiệp định Sơ bộ Pháp -Việt đã diễn ra tại nhà số 38 phố Lý Thái Tổ, Hà Nội. Theo Hiệp định, nước Phápcông nhận Việt Nam DCCH là một quốc gia tự do, có Chính phủ, Quốc hội, quân độivà tài chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Khối Liên hiệp Pháp vàcam đoan thừa nhận kết quả cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ; nướcViệt Nam đồng ý để 15.000 quân Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội TrungHoa và sẽ rút hết sau 5 năm; hai bên đình chiến để mở cuộc đàm phán chính thức,trong khi đàm phán, quân đội hai bên giữ nguyên vị trí...10. Mặc dùphía Pháp chưa công nhận nền độc lập của Việt Nam, song bản Hiệp định lại mangtính chất văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên của nước Việt Nam độc lập ký vớinước ngoài, có sự chứng kiến của đại diện các nước Mỹ, Anh và Trung Hoa. Điềunày chứng tỏ rằng: Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp, "đối với nướcViệt Nam ta, sự ký kết đó có một kết quả hay là nước Pháp đã thừa nhận nướcViệt Nam là một nước tự chủ"11. Đánh giá về ý nghĩa quốc tế củabản Hiệp định, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Bản Hiệp định sẽ dẫn chúng ta đến một vị trí quốc tế ngày càng vững vàng, và đó là một thắng lợichính trị lớn lao”12. Như vậy, Hiệp định Sơ bộ đã tạo cơ sởpháp lý cho cuộc đấu tranh ngoại giao của Nhà nước Việt Nam DCCH trên trườngquốc tế. Bên cạnh đó, Hiệp định Sơ bộ Việt – Pháp đã biến thoả thuận tayđôi Hoa - Pháp thành thoả thuận tay ba Việt - Pháp - Hoa, kết thúc vai trò củalực lượng Tưởng Giới Thạch về mặt pháp lý theo quyết định của các nước lớn Đồngminh tại Hội nghị Potsdam. Việc đẩy quân đội Tưởng ra khỏi Việt Nam đã làm thayđổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng nước ta. Khi kháng chiến toànquốc nổ ra, thay vì phải đối đầu với hơn 30 vạn quân của các lực lượng thùđịch, 20 triệu đồng bào Việt Nam chỉ còn phải chiến đấu chống 10 vạn quân Pháp.Bên cạnh đó, chúng ta có "hai điều lợi lớn: a) Phá được mưu mô bọn Tàutrắng, của bọn phát xít, và của bọn Việt gian,bảo toàn được thực lực; b) Dành được giây phút nghỉ ngơi để sửa soạn cuộc chiếnđấu mới phối hợp với các cuộc chiến đấu củanhân dân Pháp, tiến tới giành độc lập hoàntoàn"13. Có thể nói rằng, mềm dẻo trong sách lược, cứng rắntrên nguyên tắc, Hiệp định Sơ bộ là bước đi cần thiết, hy sinh không gian để tranh thủ thời gian, biến thời gian thành lực lượng vật chất, củng cốthực lực một cách toàn diện để đối phó với kẻ thù chính là thực dân Pháp khichúng không còn có lực lượng đồng minh hỗ trợ tại chỗ; đồng thời, việc chấpnhận cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc cũng chính là một hình thức san đỡ gánh nặng, chia lửa với đồng bào miền Nam ruột thịt.
Trên thực tế, khi Hiệp định Sơ bộ được ký kết,trong Đảng và trong nhân dân cũng có rất nhiều thắc mắc, "cho đó là chính sách quá hữu", song thực tiễn đã chứng minh rằng, "chúng ta cần hoà bình để xây dựng nước nhà, cho nênchúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hoàbình. Dù thực dân Pháp đã bội ước, đã gâychiến tranh, nhưng gần một năm tạm hoà bình đãcho chúng ta thời giờ để xây dựnglực lượng căn bản"14, chuẩn bịsẵn sàng mọi mặt cho cuộc kháng chiến mà chúng ta lường định là khó tránh khỏi.
V.I. Lê-nin đã từng nói: "Nếu cólợi cho cách mạng, thì dù có phải thỏa hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thỏa hiệp"15. Hiệp định Sơ bộ 6-3 là một mẫu mực về sự thoả hiệp có nguyên tắc để phá thế bế tắc, vượt qua khó khăn, lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước lớn với nhau, cũng như mâu thuẫn nội bộ của mỗi lực lượng có mặttại Việt Nam; từ đó, tạo điều kiện đạt tới mục tiêu đã định, hướng tới độc lập,tự do thống nhất thực sự.
Trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, linh hoạt trong đấutranh, chủ động kiên quyết và khôn khéo, luôn hướng đích, việc nhân nhượng cónguyên tắc thể hiện sinh động qua Hiệp định Sơ bộ đã cho phép chúng tatrong những thời điểm nguy nan của đất nước biến nghịch thành thuận, biến nhữngkhả năng mỏng manh thành hiện thực có lợi cho cách mạng. Đó cũng là cái cách màChủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã cân nhắc lợi hại gần xa của dân tộc một cáchcẩn trọng, trong hai con đường đi đến độc lập, “đã chọn con đường đỡ hao tổn màcũng chắc chắn hơn”16.
Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ, Tạm ước 14-9-1946 làmột bước đi nhân nhượng tiếp theo của Đảng và Chính phủ ta, song chúng ta cũngkhẳng định dứt khoát: "Tạm ước ngày 14 tháng Chín là một bước nhân nhượngcuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi caotrọng của dân tộc!”17. Hiệp định Sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 đã xác định giới hạn, nguyên tắc của sự nhân nhượng - đó là không bao giờ làmtổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Có thể nói rằng, việc ký kết Hiệpđịnh Sơ bộ thể hiện bản lĩnh vững vàng của bộ não lãnh đạo cách mạng ViệtNam - nắm vững quy luật cách mạng, nắm vững thời và thế, biết cách tạo thời vàthế, từ đó phấn đấu giành thắng lợi từng bước, từ nhỏ đến lớn, từ thấp lên cao,biết tiến, biết thoái, thoái một bước để tiến hai bước, giải quyết hài hòa giữacương và nhu, lấy nhu thắng cương.
Hiện nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt NamXHCN đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, phức tạp trước sự vận động, biến đổinhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới, của các mối quan hệ quốc tế. Mốiquan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta là đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc -xây dựng đất nước phát triển bền vững, xây dựng thành công CNXH; độc lập, tự docủa Tổ quốc, an ninh và phát triển là lợi ích tối cao của dân tộc. Để đảm bảolợi ích quốc gia dân tộc, cần nhận thức rằng, bối cảnh tình hình mới đang làmcho hình thức tập hợp lực lượng, diễn biến các mối quan hệ quốc tế, các phươngthức hợp tác cũng đa dạng và phong phú hơn. Trước những biến động đó, một mặt, chúng ta phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH -mục tiêu bất biến; mặt khác, cần ý thức đầy đủ mối quan hệ giữa hợp tácvà đấu tranh; nhân nhượng và đấu tranh trong hợp tác quốc tế. Trong một thếgiới đang biến đổi sâu sắc, việc xử lý đúng đắn và hài hòa quan hệ của Việt Namvới các nước láng giềng và nước lớn, biết mình, biết người là điều kiện quantrọng để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc. Trên ý nghĩa ấy, những kinh nghiệmlịch sử từ việc ký kết Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) vẫn soi rọi con đườngđưa đất nước đi tới phồn vinh.
Nguồn: Tạp chí quốc phòng toàn dân, ngày 3/3/2011
TS. NGUYỄN THỊ MAIHOA-Đại học Quốc gia Hà Nội