Tranh
chấp Biển Đông giữa Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Á vẫn đang
diễn ra ngày càng căng thẳng. Hi vọng về vai trò dàn xếp của Hiệp hội
Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong vấn đề này cho đến nay vẫn khá mờ
nhạt do sự chia rẽ của các nước thành viên trước những biện pháp và các
miềng mồi mà Trung Quốc đưa ra.
Một
thỏa thuận của hy vọng không tưởng đã được đề ra dựa trên quan điểm
rằng ASEAN sẽ thành lập một “con đê chắn sóng” đối phó với sự bành
trướng của Trung Quốc tại các vùng biển của Đông Nam Á. Điều này càng
được củng cố bởi tuyên bố của Trung Quốc về “chủ quyền không thể tranh
cãi” đối với “các vùng biển liên quan” gần như là vươn tận tới Xinhgapo.
Các quốc gia ASEAN rõ ràng có một lợi ích chung và vạch ra một ranh
giới mà các cường quốc ngoài khu vực như Nhật Bản, Ôxtrâylia, Ấn Độ và
đặc biệt là Mỹ có thể ủng hộ.
Tuy
nhiên, các hoạt động của ASEAN trên nguyên tắc đồng thuận và thương
lượng không đối đầu lại là một điểm yếu chết người. 4 trong số 10 nước
thành viên ASEAN là Mianma, Campuchia, Lào và Thái Lan khăng khăng đặt
ưu tiên bảo vệ mối quan hệ song phương êm thấm với Trung Quốc hơn là bảo
vệ sự đoàn kết của ASEAN. Vì sự chia rẽ này, các nước thành viên ASEAN
đã vướng mắc trong việc tìm kiếm một khuôn khổ để thỏa mãn tối thiểu các
tham vọng của Trung Quốc.
Về
vấn đề này, họ nhận được ít sự giúp đỡ từ Bắc Kinh. Trung Quốc trốn
tránh từng đề xuất đối với mỗi nước ASEAN để xây dựng được một kế hoạch
quản lý mâu thuẫn, trong đó cái gọi là Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông.
Bắc Kinh sẽ không đồng ý phân xử về tuyên bố chủ quyền mâu thuẫn hay
thậm chí là thảo luận với nhiều hơn một quốc gia trong cùng một thời
điểm. Mà Trung Quốc cũng không có ý định làm rõ về những gì nước này
tuyên bố tại Biển Đông. Và vì vậy, trong hai thập kỷ qua, vô số cuộc họp
của ASEAN đã không thể đi đến việc giải quyết được vấn đề.
4
trong 10 nước ASEAN là những nước chính trong vấn đề tranh cãi tại Biển
Đông. Malaixia, Brunây, Philíppin và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối
với toàn bộ hoặc một phần của quần đảo Trường Sa, kiểm soát các hòn đảo
và tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển xung quanh. Việt Nam và
Philíppin còn tuyên bố chủ quyền đối các hòn đảo và bãi đá ngầm ở phía
Bắc gần Trung Quốc.
Việt
Nam tuyên bố chủ quyền cả quần đảo Hoàng Sa, nằm giữa duyên hải miền
Trung Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. Quần đảo này đã bị Trung
Quốc chiếm giữ từ khi chế độ miền Nam Việt Nam sụp đổ năm 1974 và hồi
đầu năm nay Bắc Kinh đã thành lập thành phố cấp địa khu Tam Sa để hợp
nhất mọi tuyên bố mở rộng của nước này tại Biển Đông. Philíppin, tuyên
bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, khu đánh cá giàu sản lượng chỉ
cách 200km từ bờ biển Luzon nơi đã xảy ra vụ chạm trán với tàu hải giám
của Trung Quốc hồi tháng 4.
Không
ngạc nhiên khi Philíppin và Việt Nam đã có phản ứng mạnh mẽ nhất bằng
một câu trả lời dứt khoát đối với tham vọng của Trung Quốc nhằm thống
trị vùng biển kéo dài gần 2.000 km về phía Nam từ đảo Hải Nam . Sự háo
hức của Manila và Hà Nội đối với Hải quân Mỹ, như là một nhân tố trong
tranh chấp có thể khiến các nước thành viên ASEAN khác bỏ cuộc.
Ngược
lại, Malaixia và Brunây quyết duy trì một vai trò mờ nhạt. Hai nước này
đã lựa chọn tuyên bố chủ quyền giữa họ và với Việt Nam, dựa trên quan
điểm được hệ thống trong Công ước của LHQ về Luật biển (UNCLOS) và luật
pháp quốc tế. Cả hai quốc gia này đều né tránh những nỗ lực của Việt Nam
và Philíppin nhằm bảo vệ yêu sách tại vùng biển ở phía Bắc. Suy nghĩ
một cách nghiệt ngã nhất, cả Cuala Lămpơ lẫn Banđa Xêri Bêgaoan dường
như đang hi vọng ngược lại với bằng chứng đang ngày càng gia tăng rằng
Trung Quốc có thể đã chán ngấy những vùng biển mà các nước này tuyên bố
chủ quyền.
Inđônêxia
và Xinhgapo cũng cùng chung lợi ích trong việc ngăn cản Trung Quốc theo
đuổi yêu sách bành trướng của các nước này. Vùng biển bên trong đường 9
đoạn của Trung Quốc chồng chéo lên vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của
Inđônêxia gần với quần đảo Natuna.
Giacácta
và Xinhgapo cho đến nay vẫn tự nhận vai trò nước ủng hộ chính cho “giải
pháp ASEAN,” với việc Xinhgapo thường công khai chiều theo vai trò lãnh
đạo của Inđônêxia.
Trong
khi cho thấy sự sẵn sàng làm việc song phương, Trung Quốc vẫn chưa có
thay đổi nào đối với tuyên bố chủ quyền theo lịch sử về toàn bộ vùng
biển nằm trong đường 9 đoạn. Bắc Kinh vì vậy đòi quyền lợi đối với các
nguồn tài nguyên biển lên tới 85% tại Biển Đông, bất chấp quy định của
UNCLOS rằng tất cả các quốc gia có đặc quyền khai thác vùng biển cách
200 hải lý từ đường bờ biển, hoặc bên ngoài đó nếu thềm lục địa lớn hơn,
trừ khi nó giáp với vùng EEZ của nước khác. Trung Quốc bác bỏ quy định
của UNCLOS, cho rằng các thủy thủ và ngư dân của mình đã có mặt tại các
vùng biển này từ thời thượng cổ.
Tất
cả các bên tranh chấp có thể dựa vào tiền lệ lịch sử để biện minh cho
yêu cầu của mình. Trong một thiên niên kỷ, Biển Đông đã là tài sản chung
toàn cầu. Việt Nam có thể đưa ra các chứng cứ từ các sắc lệnh và bản đồ
thế kỷ 18 để chứng minh sự nhất quán hơn so với Trung Quốc trong tuyên
bố chủ quyền tại các đảo san hô ở Biển Đông. Như ở Trung Quốc, những tài
liệu này kích động tình cảm dân tộc.
Tuy
nhiên, tranh cãi lịch sử không đưa ra được một giải pháp thoát khỏi mớ
tuyên bố lộn xộn trừ khi như một số người bên phía Trung Quốc tin tưởng,
nó được hẫu thuẫn bởi một lực lượng vững chắc. Ngoại trưởng Trung Quốc
Dương Khiết Trì tuyên bố tại một cuộc họp ASEAN tổ chức vào tháng 8/2010
rằng: "Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là nước nhỏ, và đó
là một thực tế."
Vùng nước bị khuấy động
Trong
nhiều năm nay, hy vọng đạt được một bước đột phá ngoại giao tăng lên
trong những tháng mùa Thu, khi Biển Đông bị khuấy động bởi gió mùa, hành
động khiêu khích của Bắc Kinh, đặc biệt là việc quấy rối ngư dân Việt
Nam và Philíppin cũng như đe dọa các công ty năng lượng có khả năng khai
thác dầu khí đáy biển theo giấy phép được Hà Nội hay Manila cấp.
Bắc
Kinh đã dựa vào hàng trăm tàu “bảo vệ ngư dân” và “an toàn hàng hải” có
vũ trang để mở rộng kiểm soát, trong khi trên thực tế có thể hiểu đó là
sự tăng cường của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA).
Không có gì đáng ngạc nhiên khi Việt Nam , Malaixia, Inđônêxia và
Xinhgapo đã tăng gấp đôi sức mạnh hải quân và không quân. Philíppin là
kẻ đến muộn trong việc xây dựng quân đội tại Biển Đông. Mặc dù Manila đã
bị kích động bởi các cuộc xung đột gần đây với Trung Quốc, lực lượng
của họ bị đánh bại.
Biển
Đông được kỳ vọng có trữ lượng lớn về dầu khí, điều đó đã thúc đẩy nỗ
lực của Trung Quốc để đưa Biển Đông vào vùng thống trị của quốc gia này.
Sự thất bại trong đối thoại của ASEAN nhằm tìm ra một lối thoát cho
cuộc khủng hoảng đang gia tăng, chiến lược “đàm phán và chiếm” không
khoan nhượng của Trung Quốc và sự can dự sau đó của Mỹ trong những tranh
cãi này đã khiến các chuyên gia thất vọng.
Có
một sự lo sợ về việc một Trung Quốc thù địch có thể tự sắp xếp như thế
nào nếu nước này thắng thế trong cuộc tranh cãi làm khuấy động Mỹ.
Oasinhtơn không muốn chiến tranh và không rõ Mỹ sẽ phản ứng ra sao nếu
Việt Nam hay Philíppin và thậm chí là Xinhgapo rơi vào tầm ảnh hưởng của
Trung Quốc. Tuy nhiên, dường như ít nghi ngờ rằng Oasinhtơn quyết tâm
ngăn cản Bắc Kinh kiểm soát hàng hải tại Biển Đông.
Nếu
ASEAN không lấp lỗ hổng, ai sẽ làm điều đó? Mỹ và phần còn lại của thế
giới cần một lập luận chắc chắn để biện minh cho một sự can dự hiệu quả
và bền vững. Mới bị tổn thương bởi vụ vũ khí hủy diệt hàng loạt tại
Irắc, dư luận Mỹ thận trọng với một cuộc phiêu lưu quân sự bên ngoài
khác. Nhật Bản lại vốn thận trọng với một hành động quyết đoán. Nếu
ASEAN muốn nhiều điều từ Mỹ và các đồng minh của Mỹ hơn là chỉ bày tỏ
mong muốn có được tự do hàng hải tại Biển Đông, các quốc gia ASEAN ven
biển cần tạo ra một tình huống thuyết phục rằng họ cần sự hỗ trợ đáng
kể.
Nhiều
trong số các nhà hoạch định chính sách ngoại giao phương Tây tin rằng
Mỹ có thể có quan hệ đối tác với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Gia tăng
căng thẳng tại Biển Đông là một mối đe dọa đối với tầm nhìn của họ về
một cộng đồng Thái Bình Dương thịnh vượng và hòa bình. Sẵn sàng thừa
nhận phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc, họ nói – cũng giống như ASEAN –
rằng họ không đứng về bên nào trong tranh cãi này. Nhiều cố vấn chiến
lược phương Tây vẫn thảo luận về sự đối đầu mà tất cả các bên đều có
trách nhiệm ngang bằng nhau.
Tuy
nhiên, nhận thức này có thể thay đổi. Tất cả những gì cần thiết cho
Brunây, Malaixia, Philíppin và Việt Nam là thảo luận về một lập trường
chung - điều họ có thể làm được bằng cách lựa chọn, nếu không dàn xếp
được - những tuyên bố của họ với việc áp dụng những quy tắc của UNCLOS
và luật pháp quốc tế chung. Họ cũng có thể cam kết phân xử về những
tranh cãi còn tồn tại. Những nước không có tranh cãi là Inđônêxia và
Xinhgapo có thể hỗ trợ với tư cách là một quốc gia thành viên ASEAN.
Cần
làm sáng tỏ kết quả ngay lập tức về những tuyên bố chồng lấn hiện nay
của 4 quốc gia đối với quần đảo, bãi đá ngầm và bãi đá ở Trường Sa. Họ
có thể thống nhất về không gian hàng hải của những vùng đất chung và từ
đó thành lập những giới hạn địa lý của khu vực tranh chấp. Điều đó đến
lượt nó sẽ làm rõ hàm ý của những yêu sách đòi kiểm soát các vùng biển
xung quanh.
Liên
quan đến những tuyên bố ngoài khu vực Trường Sa, một thỏa thuận sơ sài
còn tốt hơn là không có. Trung Quốc đã kiểm soát quần đảo Hoàng Sa trong
gần bốn thập kỷ và hiện giờ dường như xác định kiểm soát cả bãi cạn
Scarborough . Xét ở điểm này, khả năng xác nhận thành công từ chứng cứ
lịch sử của Việt Nam và Philíppin đối với các vùng lãnh hãi tranh chấp
này dường như là tuyệt vọng.
Một
cách giải quyết thực dụng có thể là khẳng định việc Bắc Kinh công nhận
EEZ theo như quy định trong UNCLOS, một cách giải quyết nếu được tán
thành có thể chuyển phía Tây của Hoàng Sa về Việt Nam cũng như bãi
Scarborough về Philíppin. Malaixia, Brunây, Inđônêxia và Xinhgapo dường
như phải ủng hộ, mặc dù họ tránh né thừa nhận tuyên bố dựa trên chứng cứ
lịch sử.
Những
bước này, có thể đến sau vài tháng căng thẳng và thương lượng bí mật,
có thể thành lập cơ sở cho giải pháp hòa bình đối với cuộc khủng hoảng
không thể chối cãi hiện nay. Nó có thể khiến Mỹ và các nước đồng minh hỗ
trợ mạnh mẽ và thậm chí, có thể đến mức can thiệp quân sự.
Hành trang lịch sử
Trung
Quốc, với ban lãnh đạo mới trong nhiều năm tới, có thể sẽ tìm cách rút
lui khỏi thế đối đầu. Những người phát ngôn của Trung Quốc đã đôi khi
nói về khả năng các yêu sách có thể được giải quyết dựa trên luật pháp
quốc tế, và việc trì hoãn các thỏa thuận về giải pháp cùng khai thác tài
nguyên Biển Đông có thể làm giảm căng thẳng.
Tuy
nhiên, điều này không dễ dàng đối với Trung Quốc khi phải rút lại những
yêu sách trong lịch sử. Cách hành xử này là không thể hiểu được trừ khi
Việt Nam cũng làm điều tương tự, nghĩa là trừ khi Hà Nội cùng đồng ý
thiết lập các đường biên giới hàng hải dựa trên UNCLOS và các luật pháp
quốc tế liên quan.
Cũng
như Trung Quốc, Việt Nam đã dựa nhiều vào lập luận lịch sử, một số học
giả độc lập cho rằng dựa trên chứng cứ lịch sử, tuyên bố chủ quyền của
Hà Nội đối với các đảo tranh chấp là có ưu thế hơn. Song không dễ để Hà
Nội giải quyết bằng vấn đề lịch sử. Như bản chất vốn có, xét cho cùng,
một quốc gia được tôi luyện qua quá trình đấu tranh chống lại sự xâm
lược của Trung Quốc trong hàng trăm năm kể từ năm 938 trước Công nguyên,
trừ khi đối thủ truyền kiếp và không cân xứng này có thể vượt qua lịch
sử cay đắng, ít có cơ hội về một kết thúc có hậu cho cuộc khủng hoảng
hiện tại ở Biển Đông.
Một
số chuyên gia cho rằng bỏ qua những yêu sách trong lịch sử của Trung
Quốc và đưa ra một vị thế đàm phán chung dựa trên các nguyên tắc pháp lý
sẽ chỉ chọc giận cường quốc đang trỗi dậy tại châu Á. Tuy nhiên, khó có
thể tưởng tượng rằng thất bại trong việc chống lại tham vọng của Trung
Quốc có thể dẫn tới một kết quả tốt đẹp hơn.
Vẫn
có một kịch bản triển vọng. Được thúc đẩy bởi sự nhận thức rằng thời
gian có hạn, 4 quốc gia ASEAN tuyên bố chủ quyền xem xét vấn đề biên
giới biển trong nội bộ các nước này bằng việc áp dụng các quy định pháp
lý liên quan. Được hỗ trợ bởi quan điểm chung từ Inđônêxia và Xinhgapo,
nếu không phải toàn bộ ASEAN, họ tuyên bố sẵn sàng tham gia đàm phán với
Trung Quốc trên cơ sở chung. Thay vì tuyên bố chỉ đàm phán song phương,
Trung Quốc nhất trí với tiến trình này. Chẳng bao lâu nữa một thỏa
thuận sẽ được đưa ra thừa nhận sự bá chủ của Trung Quốc đối với hầu hết
Trường Sa và có lợi thế tại Hoàng Sa.
Các
bên sau đó quay lại đàm phán những vấn đề liên quan, chẳng hạn như Bộ
quy tắc ứng xử (COC). Nó sẽ không phải tài liệu tương tự viết rằng ASEAN
đã thảo luận mà là một văn kiện rõ ràng ủng hộ hòa giải tranh chấp lãnh
thổ được thảo luận ở trên. Khai thác tài nguyên năng lượng chung có thể
ràng buộc lẫn nhau về nhiều yếu tố trong một tương lai tích cực tại
Biển Đông. Các bên có thể nhất trí mở cánh cửa cho sự tồn tại của các
quốc gia ven biển hành động có trách nhiệm.
Nói
cách khác, bất kỳ chế độ nào kiểm soát Biển Đông cũng không thể tồn tại
lâu trừ khi nước đó nhất trí cho các thực thể của Trung Quốc tiếp cận
công bằng đối với các tài nguyên biển tại khu vực. Các nước ven biển
khác phải chào đón và tạo thuận lợi cho đầu tư và liên doanh với Trung
Quốc, trong đó bao gồm các bên phía Trung Quốc khai thác tài nguyên đáy
biển. Có thể cùng quản lý và cùng giám sát việc đánh bắt hải sản trên
các nguyên tắc nhất trí chung. Cuối cùng, các quốc gia ven biển có thể
thảo luận nguyên tắc quản lý các kênh vận chuyển, sự khai báo và quyền
đi lại tại Biển Đông.
Một
số người có thể phản đối rằng kịch bản vui vẻ này có thể gây nguy hại
cho các nguyên tắc có tổ chức và thực tế lãnh đạo hiện trạng trong cái
gọi là “Cách thức ASEAN”. Tuy nhiên, việc thừa nhận rằng trong trường
hợp ASEAN thất bại trong việc khiến mô hình đồng thuận có tác dụng dường
như ít gây hại cho hiệu quả chung của tổ chức này, hơn là tiếp tục nỗ
lực không hiệu quả để khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong những
tranh cãi đang ngày càng căng thẳng này.
David Brown, Asia Times Online
Thuỳ Anh (gt)