Việc
Nhật Bản thực hiện “quốc hữu hóa” đối với đảo Điếu Ngư/Senkaku đã dẫn
đến sự phản đối mạnh mẽ từ phía Trung Quốc, thậm chí có lúc tình hình
trở nên vô cùng căng thẳng. Tuy nhiên, tranh chấp nay đã xuất hiện dấu
hiệu kiềm chế, lắng dịu.
Đầu tiên, Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko
Noda thừa nhận Tôkyô trước đó đã sai lầm khi đánh giá về những phản ứng
có thể xảy ra của Trung Quốc. Quả thực là ban đầu Tôkyô không đánh giá
được Bắc Kinh sẽ phản ứng mãnh mẽ như vậy.
Ngày
10/10, hãng tin Kyodo đưa tin Tôkyô đang nghiên cứu phương án thỏa
hiệp, áp dụng rằng quan chức Nhật Bản “nhận thức thấy” phía Trung Quốc
có đòi hỏi chủ quyền liên quan, cho rằng cách làm như vậy vừa có thể duy
trì được lập trường kiên định của Nhật Bản, vừa có thể xem xét tới lập
trường Trung Quốc yêu cầu Nhật Bản thừa nhận sự tồn tại của tranh chấp
chủ quyền. Theo tin, phía Nhật Bản phán đoán Trung Quốc xây dựng mục
tiêu ngắn hạn trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku là ép phía Nhật Bản
thừa nhận “tồn tại tranh chấp chủ quyền”, tức phương pháp như vậy có
tính khả thi.
Mỹ không muốn nhìn thấy chiến tranh Trung-Nhật
Động
thái trên cho thấy phía Nhật Bản lộ ra kỳ vọng dùng biện pháp thỏa hiệp
để làm dịu quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Điều này hoàn toàn khác
biệt so với lập trường cứng rắn của Nhật Bản trước ngày 11/9.
Tiếp
đó, lập trường của Mỹ cũng có thay đổi. Ngày 28/9, trong cuộc gặp với
ngoại trưởng Nhật Bản tại Niu Yoóc, Ngoại trưởng Mỹ Hillary đã nhắc nhở
một cách bất thường (rằng) Nhật Bản cần thận trọng xử lý quan hệ ngoại
giao với Trung Quốc; về sự căng thẳng trong quan hệ Trung-Nhật do tranh
chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku gây ra, bà Hillary chỉ rõ khi hành động, Nhật
Bản cần “thận trọng”. Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách vấn đề châu Á-Thái
Bình Dương Mỹ Campbell cũng có thái độ tương tự khi thúc giục Nhật Bản
cần hành động thận trọng.
Hiện
nay, nền kinh tế Trung Quốc đang đứng ở vị trí thứ hai, hy vọng chiếm
ngôi thứ nhất thế giới, nằm ở vị trí then chốt đang trỗi dậy. Thực lực
kinh tế của Trung Quốc và Nhật Bản đứng vị trí thứ hai và thứ ba thế
giới, khi hai bên phát sinh xung đột, va chạm, Mỹ đương nhiên vui mừng
đứng ngoài quan sát. Tuy nhiên, Mỹ thực sự cũng không hy vọng xảy ra
chiến tranh giữa hai nước này. Huống hồ, phương Tây đang đánh bài ngửa
quân sự với Têhêran xung quanh vấn đề vũ khí hạt nhân của Iran, suy cho
cùng thì tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku chỉ là vấn đề nhỏ, vấn đề hạt
nhân của Iran mới là nguồn căn của cơn bạo bệnh. Quan sát kỹ thái độ của
Mỹ trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku có thể thấy được sự thay đổi
tinh tế trong lập trường của Mỹ.
Theo
phán đoán của các nhà chiến lược Trung Quốc, mấy năm gần đây, xung
quanh Trung Quốc liên tục dậy sóng, hình thành cục diện nguy hiểm bốn
bề, cơn sóng lớn bao trùm nằm ở quyết định chiến lược quay trở lại Châu Á
của Mỹ và 65% lực lượng hải quân và không quân của Mỹ sẽ bố trí tập
trung ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Mỹ
quyết định quay trở lại châu Á, đương nhiên phải dựa vào sự phối hợp và
ủng hộ của Nhật Bản, Hàn Quốc; ngược lại, cũng tất phải coi trọng lời
hứa đảm bảo quốc phòng cho đồng minh của Mỹ.
Nhật
Bản có chỗ dựa nên không còn e sợ, xuất kích bốn phía về chiến lược an
ninh Đông Bắc Á, Mỹ và Nhật Bản không hẳn là cùng hội cùng thuyền, mà là
“giống nhưng có khác”. Bắc Kinh cần chú ý đến điều này khi đưa ra quy
hoạch chiến lược.
Để
duy trì cục diện chính trị ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ cần chú
ý đề phòng trước ảnh hưởng mang tính khu vực do sự tăng cường sức mạnh
quốc gia của Trung Quốc tạo ra, Mỹ chỉ nên trông chờ vào hành động chi
viện của Nhật Bản chủ yếu giới hạn ở vùng biển Đài Loan; còn Nhật Bản
thì dựa vào những lời hứa của Mỹ nên đã nhân cơ hội ra tay “xử lý việc
riêng”, hy vọng Mỹ đồng ý để Nhật Bản có hành động quân sự “ra bên
ngoài”.
Điều
này chính là nguồn cơn của việc Nhật Bản đã “xuất kích tứ phía” mấy năm
gần đây với tinh thần cứng rắn chưa từng có trong tranh chấp đảo Điếu
Ngư/Senkaku; ngoài ra còn tranh cướp đảo Dokdo/Takeshima với Hàn Quốc,
mở rộng phạm vi tranh chấp lãnh thổ với Nga ở phía Bắc, kích động các
tranh chấp ngoại giao.
Nếu
quan hệ Trung-Nhật tiếp tục xấu đi, thậm chí xảy ra xung đột quân sự
thì sẽ không tránh khỏi ảnh hưởng tới lợi ích an ninh quan trọng của Mỹ.
Trước tiên, hòa bình và sự ổn định của khu vực châu Á-Thái Bình Dương
sẽ chịu tác động lớn, thậm chí mở rộng phạm vi. Tiếp sau, dân chúng
Trung-Nhật chịu tác động của lịch sử thù hận, dễ bùng phát xung đột, sau
khi nảy sinh xung đột, do nhân tố trong nước (Trung Quốc) thiếu khả
năng khống chế sự lan tràn của các hành động quân sự, rất có khả năng
xung đột leo thang. Trong tình huống này, Mỹ tất sẽ bị cuốn vào và đó sẽ
là thảm kịch mà các bên xung đột khó tránh khỏi.
Xung đột phá vỡ cục diện quân sự tại châu Á-Thái Bình Dương
Nói
đến cục diện chính trị Đông Bắc Á, thì Nga không có hy vọng chấn hưng,
trong tương lai gần, chưa thể nói tới sự thống nhất giữa hai miền Triều
Tiên sức ảnh hưởng của các nước trong khu vực này thì chỉ có Trung Quốc
và Nhật Bản. Nói về lợi ích chiến lược của Mỹ, điều quan trọng hơn là,
cho dù cuộc chiến Trung-Nhật diễn biến như thế nào thì đều sẽ tác động
trực tiếp tới sự tồn tại quân sự của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình
Dương, từ đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh của nước Mỹ.
Trung-Nhật
bùng nổ xung đột, sẽ có hai kết quả: Nếu Mỹ-Nhật hợp lực đánh thắng
Trung Quốc thì Trung Quốc suy sụp, không chấn hưng được, Nhật Bản xưng
bá ở Đông Á. Sự uy hiếp xung quanh Nhật Bản đã hết, lực lượng kìm kẹp bị
mất đi, Nhật Bản tất sẽ đánh giá lại giá trị của Hiệp ước bảo đảm an
ninh Mỹ-Nhật, không sớm thì muộn Nhật Bản cũng mượn cớ làm theo yêu cầu
của người dân để ép Mỹ rút quân khỏi Okinawa cũng như lãnh thổ Nhật Bản.
Mỹ đã tiêu diệt được mối đe dọa từ một Trung Quốc đang trỗi dậy, song
lại phải đối diện với mối đe dọa của một Nhật Bản đã từng trỗi dậy, đó
cũng là “trăm sông về một biển”.
Nếu xảy ra chiến tranh, các bên tham chiến sẽ có khả năng dẫn đến nguy cơ chiến tranh hạt nhân, nếu không có thỏa hiệp, Trung Quốc tất sẽ “chơi sòng phẳng” với Mỹ và Nhật Bản. Nếu Mỹ tham chiến mà không chế ngự được Trung Quốc, Nhật Bản tất sẽ nhìn Trung Quốc với con mắt khác, sẽ tôn trọng quyền lợi và yêu cầu của Trung Quốc hơn. Như vậy, về trật tự an ninh thế giới, Hiệp ước đảm bảo an ninh Mỹ-Nhật trên thực tế đã có sự thay đổi về chất.
Từ đó có thể thấy chỉ cần Trung Quốc và Nhật Bản xảy ra xung đột quân sự ở mức độ cao, thì cho dù kết thúc như thế nào, cục diện quân sự ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương đều sẽ bị phá vỡ từ đó trực tiếp ảnh hưởng tới tổng thể lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực này.
Nếu xảy ra chiến tranh, các bên tham chiến sẽ có khả năng dẫn đến nguy cơ chiến tranh hạt nhân, nếu không có thỏa hiệp, Trung Quốc tất sẽ “chơi sòng phẳng” với Mỹ và Nhật Bản. Nếu Mỹ tham chiến mà không chế ngự được Trung Quốc, Nhật Bản tất sẽ nhìn Trung Quốc với con mắt khác, sẽ tôn trọng quyền lợi và yêu cầu của Trung Quốc hơn. Như vậy, về trật tự an ninh thế giới, Hiệp ước đảm bảo an ninh Mỹ-Nhật trên thực tế đã có sự thay đổi về chất.
Từ đó có thể thấy chỉ cần Trung Quốc và Nhật Bản xảy ra xung đột quân sự ở mức độ cao, thì cho dù kết thúc như thế nào, cục diện quân sự ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương đều sẽ bị phá vỡ từ đó trực tiếp ảnh hưởng tới tổng thể lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực này.
Mỹ không hy vọng các bên độc tôn xưng bá
Diễn
biến của tranh chấp Trung-Nhật xem ra đều chịu sự hạn chế bởi vai trò
của Mỹ trong ván cờ chiến lược khu vực Đông Bắc Á. Mỹ sẽ tăng cường sức
ảnh hưởng, hạn chế mọi khả năng của Trung Quốc và Nhật Bản trong tình
hình cục diện xấu đi. Nếu xung đột quân sự Trung-Nhật nổ ra, Mỹ cũng sẽ
đứng giữa kêu gọi điều đình, giúp đỡ bên chịu thiệt hại, ngăn chặn cục
diện độc tôn xưng hùng của bất cứ nước nào ở Đông Bắc Á.
Nói
tóm lại, Mỹ và Nhật Bản có lập trường tương đối khác nhau, ngay cả
trong vấn đề quan trọng nhất là đối đầu với Trung Quốc. Nhật Bản hy vọng
nổi lên ở Đông Á, do đó không thể tránh khỏi cần phải hành động để dìm
ép Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ lại chỉ muốn có một sự cân bằng giữa Trung
Quốc và Nhật Bản. Nói cách khác, lập trường của Mỹ chính là một nhân tố
kiềm chế các bên trong ván cờ chiến lược Đông Bắc Á./.
Thuỳ Anh (gt)