Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

20. Trung Quốc sẽ hoàn thành giấc mộng cường quốc vào năm 2030

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Hai, ngày 4/2/2013
TTXVN (Bc Kinh 1/2)
Tờ “Thời báo Hoàn cầu” mới đây đăng bài viết của Trương Kiến Cương, Chủ nhiệm Phòng Nghiên cứu chính trị hải dương chiến lược thuộc Đại học Hải dương Quảng Đông, trong đó vị chuyên gia này cho rằng Báo cáo Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã coi xây dựng cường quốc biển là chiến lược phát triển quốc gia, đây là yêu cầu thời đại của toàn thể con cháu Viêm Hoàng, là tiến trình tất yếu của lịch sử Trung Quốc. Tác giả định nghĩa cường quốc biển là chỉ sự tổng hoà về sức mạnh kinh tế và sức mạnh vũ trang trên biển, là chỉ quốc gia có thực lực tổng hợp lớn mạnh trên các mặt như khai thác biển, sử dụng biển, bảo vệ biển và quản lý biển, trong đó Mỹ và Nhật Bản ngày nay chính là hệ tham chiếu.
Tác giả đã đưa ra 7 đặc điểm chủ yếu để Trung Quốc có thể trở thành cường quốc biển trong tương lai:
Thứ nhất, để trở thành cường quốc biển, Trung Quốc cần có một lực lượng hải quân hùng mạnh. Để tương xứng với các cường quốc biển, Hải quân Trung Quốc đầu tiên cần bắt đầu từ việc bảo vệ Đông Hải (Biển Hoa Đông), Nam Hải (Biển Đông), bảo vệ quyền lợi biển của mình. Đến khi đó, Hải quân Trung Quốc có thể gánh vác và hoàn thành 4 sứ mệnh chiến lược: một là bảo vệ thống nhất tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ quyền lợi biển quốc gia, đồng thời mở rộng phòng thủ chiều sâu khu vực duyên hải Đông Nam Trung Quốc; hai là bảo đảm thông suốt tuyến đường trên biển liên quan đến kinh tế quốc dân, bảo vệ tự do hàng hải của các đoàn tàu thương mại Trung Quốc; ba là bảo vệ thương mại ở nước ngoài và lợi ích đầu tư ngày càng mở rộng của Trung Quốc; bốn là đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ hoà bình thế giới và an ninh biển.
Theo tác giả, đeén khi đó Hai quân Trung Quốc đã hình thành cục diện phòng thủ biển trên 5 phương diện gồm lục quân, hải quân, không quân, vũ trụ và mạng; xây dựng hạm đội biển khơi hùng mạnh, đi theo hướng biển khơi, bảo vệ lợi ích của Trung Quốc ở bên ngoài lãnh thổ. Vì vậy, Trung Quôc cần phải đưa vào sử dụng ít nhất từ 6 đến 8 chiếc tàu sân bay, trong đó 2 đến 4 chiếc tuần tra thường trực tại Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, 2 chiếc thực hiện nhiệm vụ huấn luyện và tiếp tế hậu cần, 2 chiếc duy tu bảo dưỡng. Hải quân Trung Quốc sẽ có thể thực thi chiến lược phòng ngự chủ động và phòng ngự biển khơi, tích cực mở rộng vùng đệm chiến lược ra bên ngoài, tàu ngầm hạt nhân chiến lược của Trung Quốc không những có thể phản kích những kẻ xâm lược trên biển, mà còn có thể tấn công “nhường trước lấn sau” đối với các nước xâm lược trên biển. Lực lượng hải quân hùng mạnh này có thể giành chiến thắng trong thực tiễn chiên tranh cục bộ. Thông qua xây dựng hiện đại hoá hải quân nhằm giải quyết các mối đe doạ an ninh truyền thống và phi truyền thống mà Trung Quốc phải đối mặt.
Thứ hai, tổng lượng kinh tế biển của Trung Quốc cần chiếm từ 1/3 – 1/2 GDP. Tác giả cho rằng diện tích biển của Trung Quốc là hơn 3 triệu km2, chiếm 1/3 tổng diện tích lãnh thổ đất liền Trung Quốc, nhưng kinh tế biển chỉ chiếm chưa đầy 10% GDP. Trong khi đó, kinh tế bờ biển và kinh tế biển của Mỹ hiện nay đã chiếm đến 75% công ăn việc làm và 51% GDP trong tổng thể nền kinh tế Mỹ. Khi trở thành cường quốc biển, kinh tế biển của Trung Quốc cần thực hiện mô hình phát triển nhất thể hoá giữa biển, bờ biển và lục địa, thực hiện phát triển bền vững kinh tế biển.
Trong phương diện các ngành nghề gần bờ có thể học tập khuôn mẫu Nhật Bản. Diện tích vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Nhật Bản đạt hơn 4,5 triệu km2, lớn gấp 12 lần diện tích lãnh thổ đất liền của Nhật Bản. Từ thập niên 60 của thế kỷ trước đến nay, Chính phủ Nhật Bản đã chuyển dịch trọng tâm phát triển kinh tế từ ngành công nghiệp nặng sang phát triển sản ngành nghề biển, nhanh chóng hình thành kết cấu kinh tế biển hiện đại lấy các ngành kỹ thuật công nghệ cao như khai thác tài nguyên sinh vật biển, giao thông vận tải biển, công trình biển làm trụ cột. Ngoài ra, một số thành phố duyên hải Trung Quốc cũng có thể học tập mô hình của Xinhgapo phát triển chủ yếu dựa vào vận tải biển, cảng biển.
Thứ ba, Trung Quốc cần có khoa học kỹ thuật biển và năng lực khai thác phát triển biển rất mạnh. Khai thác phát triển biển chủ yếu chỉ khai thác tài nguyên biển và khai thác kỹ thuật biển, bao gồm công nghiệp và giao thông tàu biển, chế tạo và lắp đặt cáp điện thông tin đáy biển, thăm dò và khai thác tài nguyên khoáng sản biển, thực phẩm và dược phẩm sinh học biển; khử mặn nước biển và sử dụng các công trình phát điện bằng sức gió, sóng, thuỷ triều; bảo vệ giám sát môi trường biển và xử lý ô nhiễm biển, cảnh báo, dự báo thiên tai biển, nuôi trồng thuỷ hải sản gần bờ, xa bờ, đánh bắt cá đại dương…
Đến khi đó, năng lực khai thác phát triển biển kể trên của Trung Quốc sẽ đạt được tiến triển, ngành dầu khí biển, công nghiệp gần cảng, ngành trung chuyển hàng hoá hiện đạị, ngành du lịch biển lấy kỹ thuật công nghệ cao làm trụ cột trở thành chủ thể của phát triển kinh tế. Thu nhập từ du lịch và nghỉ dưỡng biển của Mỹ đạt 30 tỷ USD, chiếm 49% tổng thu nhập du lịch của cả nước Mỹ. Đến khi đó, Trung Quốc cần có 30 chiếc giàn khoan biển sâu giống như giàn khoan “CNOOC 981” được Trung Quốc tự nghiên cứu chế tạo và đưa vào sử dụng trong năm 2012, vùng biển Nam Hải và đảo Điếu Ngư sẽ được xây dựng thành “Đại Khánh biển sâu”, việc Trung Quốc tự khoan thăm dò dầu khí tại vùng biển của mình và vùng biển quốc tế sẽ trở nên hết sức bình thường.
Thứ tư, Trung Quốc cần có năng lực kiểm soát biển rất mạnh. Đến năm 2030, công tác quản lý biển của Trung Quốc sẽ có những bước đi mới, lực lượng quản lý biển nhiều đầu mối hiện nay sẽ được chấn chỉnh, xây dựng cơ chế “cảnh sát biển”, thành lập lực lượng “cảnh sát 110 trên biển” (cảnh sát 110 của Trung Quốc có hình thức như cảnh sát 113 của Việt Nam-ND), hoàn thành 3 chức trách: giám sát khai thác và sử dụng tài nguyên biển; giám sát bảo vệ và cứu hộ môi trường biển; giám sát vào bảo vệ chủ quyền biển.
Hiện nay, số lượng tàu thi hành pháp luật của cả hai ngành hải giám và ngư chính Trung Quốc chưa đến 500 chiếc, tàu trên 1.000 tấn cũng chưa đến 50 chiếc. Đến năm 2030, “cảnh sát 110 trên biển” của Trung Quốc cần có 60 chiếc tàu thi hành pháp luật trên biển giống như tàu hải giám 83 và tàu ngư chính 206 có trọng tải trên 3.000 tấn và khoảng 900 tàu trọng tải 1.000 tấn, đạt trình độ mỗi 3.000 km2vùng biển bố trí một tàu tuần tra thi hành luật pháp có trọng tải nghìn tấn. Khi đó ngư dân Trung Quốc có thể tiến hành sản xuất, đánh bắt cá an toàn tại vùng biển của mình, đội tàu vận tải biển và công trình biển cũng không bị cướp biển đe doạ, uy hiếp.
Thứ năm, Trung Quốc cần có ý thức biển và văn hoá biển toàn dân. Tác giả cho rằng đến năm 2030, văn hoá biển sẽ được toàn xã hội tiếp thu. Việc giáo dục văn hoá biển của Trung Quốc không chỉ cần đưa vào sách giáo khoa lịch sử, địa lý, mà còn phải đưa vào sách ngữ văn, toán học trong trường học. Đến khi đó, mỗi học sinh Trung Quốc đều biết sự thật trong đại dương, nếu anh chiếm được một đảo nhỏ mấy chục mét vuông có điều kiện cho con người sinh sống, căn cứ quy định “Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển” thì có thể được quyền sử dụng vùng đặc quyền kinh tế 43.000 km2, rộng gấp hơn 4 lần diện tích toàn tỉnh Chiết Giang của Trung Quốc.
Thứ sáu, Trung Quốc cần có quy hoạch chiến lược biển mang tính toàn cầu. Hiện nay, Trung Quốc không chỉ cần quản lý tốt, sử dụng tốt cơ nghiệp về biển do cha ông để lại mà còn phải khai thác và sử dụng tốt tài sản chung của toàn nhân loại – đó là 4 đại dương. Trung Quốc phải coi trọng hơn việc xây dựng trạm Trường Thành, Trung Sơn và Côn Lôn tại Nam Cực, coi trọng việc khảo sát khoa học và địa vị chiến lược của Bắc Băng Dương.
Thứ bảy, Trung Quốc cần hoàn thành sự nghiệp lớn thống nhất tổ quốc, giải quyết các đảo và vùng biển có tranh chấp. Đến năm 2030, tranh chấp lãnh thổ và quyền lợi biển với các nước láng giềng, nhất là Vấn đề tranh chấp như đảo Điếu Ngư, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) đã cơ bản được giải quyết, có một số vùng biển tranh chấp nghiêm trọng được phân định thành khu vực cùng khai thác do phía Trung Quốc làm chủ. Khi đó, các nước như Nhật Bản, Philippin, Việt Nam sẽ không còn gây rối, mà sẽ quen và phát triển trong vành đai lớn thịnh vượng của Trung Hoa, hoàn toàn phụ thuộc vào Trung Quốc cả kinh tế lẫn chính trị.
Tác giả cho rằng Trung Quốc sẽ thực hiện được giấc mộng cường quốc biển chứ không phải là nước bá quyền biển, đây là lời hứa trang nghiêm của Trung Quốc đối với nhân dân các nước trên thế giới. Nếu hỏi còn bao lâu nữa Trung Quốc mới trở thành cường quốc biển? Tác giả dự đoán đến khoảng năm 2030 – 2035 Trung Quốc có thể thực hiện điều này. Ngày 11/12/2012, ủy ban Tình báo quốc gia Mỹ công bố báo cáo “Xu hướng toàn cầu năm 2030”, trong đó khẳng định thời đại bá quyền Mỹ sẽ kết thúc vào năm 2030, đồng thời đón nhận thế giới dân chủ hoá đa cực. Điều này cho thấy rõ trong khoảng thời gian 20 năm tới, Trung Quốc hoàn toàn có môi trường quốc tế thuận lợi để hoàn thành giấc mộng cường quốc biển.

19. Châu Á- Thái Bình Dương: chiến trường mới của Mĩ

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Ba, ngày 19/2/2013
TTXVN (Óttaoa 8/2)
Mạng tin “Nghiên cứu toàn cầu” ngày 28/1 đã đăng bài phân tích về việc Thái Bình Dương trở thành chiến trường mới của Lầu Năm Góc của chuyên gia Mỹ về các vấn đề an ninh Wayne Madsen là người chuyên bình luận về chính trị và an ninh quốc gia Mỹ tại nhiều cơ quan truyền thông lớn như Fox News, ABC, NBC, CBS, PBS, CNN, BBC, AI Jazeera,và MS­NBC với nội dung sau:
Các nhà tham mưu Lầu Năm Góc và những “cò mồi” nhân loại học được trả tiền đang tăng tốc cho một trận chiến sắp tới của Lầu Năm Góc tại Thái Bình Dương. Họ sẽ đảm bảo các đảo quốc, nằm rải rác trong một vùng biển rộng lớn vẫn nằm trong tầm ảnh hưởng Anh-Mỹ và không trở thành một phần của cái “Hồ Trung Quốc”.
Thái Bình Dương đã trở thành một địa điểm ưa thích của các nhà nhân loại học được Chính phủ Mỹ tài trợ từ sau luận án về người Xamoa năm 1928 của bà Margaret Mead, Luận án này đã đặt nền móng cho nghiên cứu nhân chủng học có liên quan đến tình báo về các dân tộc tại Thái Bình Dương của quân đội và các cơ quan tình báo Mỹ. Bà Mead sau đó đã trở thành một nhà nghiên cứu của RAND Corporation, một tổ chức có quan hệ với Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) và ủng hộ việc CIA tài trợ cho các cuộc điều tra và nghiên cứu nhân chủng học thông qua các khoản hỗ trợ nghiên cứu học thuật từ Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ (USAID). Các dự án của USAID/CIA với những cái tên như Phoenix, Prosyms, Sympatico và Camelot đã sử dụng các nhà nhân chủng học và khoa học xã hội để trinh sát các khu vực có người dân tộc thiểu số sinh sống ở miền Nam Việt Nam, Inđônêxia, Pakixtan, Côlômbia và Chilê nhằm quyết định cách thức lực lượng đặc nhiệm và các điệp viên Mỹ có thể sử dụng những người thiểu số này để thúc đẩy các mục tiêu quân sự của Mỹ. Các chiến dịch trong dự án Phoenix tại miền Nam Việt Nam và Prosyms tại Inđônêxia đã dẫn đến sự diệt chủng trên quy mô lớn.
Ngày nay, các chương trình nhằm vào người dân bộ lạc và bản địa của quân đội Mỹ đã được thực thi tại Ápganixtan, Irắc và đang hướng tới Thái Bình Dương để tăng tốc cho một cuộc chiến, mà theo các nhà tham mưu tại Lầu Năm Góc và Langley, là không tránh khỏi với Trung Quốc.
Quân đội Mỹ đang tìm cách thuê 15.000 acres (1 arce xấp xỉ 4.050m2) đất tại Xamoa thuộc Mỹ để thành lập một trung tâm huấn luyện lớn trong ít nhất là 5 năm hoặc lâu hơn. Quân đội Mỹ muốn căn cứ này được phép sử dụng đạn không sát thương trong huấn luyện ban ngày và ban đêm. Chắc chắn, Mỹ đang tìm cách xây dựng một môi trường nông thôn và làng nhiệt đới đe quân đội Mỹ và các “liên minh tự nguyện” tương lai thực hành chiến đấu chống một kẻ thù tại khu vực Thái Bình Dương. Kẻ thù đó là Trung Quốc.
Mỹ rõ ràng đang coi Thái Bình Dương là một chiến trường tương lai giữa Mỹ và các lực lượng đồng minh với Trung Quốc để giành quyền kiểm soát những tuyến đường thương mại quan trọng trong một vùng biển rộng lớn. Từ sau chiến dịch quân sự của Mỹ chống lại Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai đến nay, Thái Bình Dương mới được chứng kiến sự khuyếch trương sức mạnh quân sự lớn như vậy của Mỹ.
Việc chính quyền của Tổng thống Barack Obama quyết định chuyển các lực lượng quân đội của họ sang châu Á-Thái Bình Dương đã châm ngòi một phản ứng mạnh từ Trung Quốc, quốc gia tự coi mình là mục tiêu cuối cùng của sự hiện diện quân sự ngày càng tăng của Mỹ. Đại sứ Trung Quốc tại Ôxtrâylia Trần Dục Minh đã gọi việc triển khai 2.500 lính thủy đánh bộ Mỹ tại Darwin là một sự “sỉ nhục” và một chính sách ngăn chặn kiểu Chiến tranh Lạnh nhằm vào Trung Quốc.
Việc thiết lập một căn cứ huấn luyện quân sự Mỹ tại Xamoa thuộc Mỹ diễn ra sau khi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, Ngoại trưởng đầu tiên của Mỹ tham dự hội nghị thượng đỉnh của Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương (PIF), được tổ chức tại Rarotonga, quần đảo Cook vào ngày 31/8/2012. Đây cũng là chuyến thăm đầu tiên của một Ngoại trưởng Mỹ tới quần đảo Cook và nhấn mạnh quyết tâm của Mỹ duy trì sự kiểm soát chặt chẽ của họ đối với các đảo quốc nhỏ tại Thái Bình Dương, trong khi vẫn tăng cường các lực lượng quân sự trong khu vực.
Mỹ và hai đồng minh Thái Bình Dương là Ôxtrâylia và Niu Dilân đang tìm cách củng cố quyền bá chủ thực dân mới của họ với các quốc đảo  Thái Bình Dương, chỉ độc lập trên danh nghĩa. Các nhà nghiên cứu nhân chủng học của Lầu Năm Góc và CIA đang làm cho người dân các quốc đảo Thái Bình Dương chia rẽ. Việc bà Clinton tham gia hội nghị cấp cao PIF không chỉ nhằm duy trì thực trạng, mà còn thúc đẩy sự cạnh tranh giữa những người Polynesi, Micronesi và Melanesi giữa các đảo quốc này.
Mỹ, đang sở hữu các nước bán độc lập như Micronesia, Palau, quần đảo Marshall, cũng như hoàn toàn kiểm soát các lãnh thổ Mỹ là Guam và Bắc Marianas, có thể sử dụng ảnh hưởng của họ đối với những người Micronesi để khiến họ chống lại hai sắc tộc lớn còn lại. Mỹ, Ôxtrâylia và Niu Dilân có thể sử dụng những nhận thức về sự thù địch sắc tộc tại Thái Bình Dương để đảm bảo rằng Trung Quốc phải ở ngoài khu vực này.
Một phần của chiến lược này đang dựa trên hoạt động ngoại giao “tiền bạc” của Đài Loan nhằm duy trì các đại sứ quán và phái đoàn viện trợ của Đài Loan, chứ không phải của Trung Quốc tại các quốc đảo nhỏ này. Hiện Đài Loan đang có các đại sứ quán tại Tuvalu, Quần đảo Xôlômôn, quần đảo Mácsan, Palau, Nauru và Kiribati. Trong số các quốc đảo này, Nauru, Quần đảo Xôlômôn và Kiribati đã chuyển lại sang công nhận Đài Loan sau khi mở rộng quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Kiribati đã phải chịu sức ép lớn sau khi họ quyết định cho phép Trung Quốc xây dụng một trạm theo dõi tên lửa ở phía Nam Tarawa. Mỹ tin rằng Trạm theo dõi vũ trụ từ xa của Trung Quốc sẽ do thám hoạt động của nơi thử nghiệm phòng thủ tên lửa đạn đạo trên đảo san hô Kwajalein của Quần đảo Mácsan thuộc chương trình “Chiến tranh giữa các vì sao II”. Những người dân Mácsan trên đảo san hô này cũng đang phải chịu sự giám sát thường xuyên của lực lượng an ninh Mỹ được vũ trang mạnh.
Năm 2004, Vanuatu đã chuyển sự công nhận từ Đài Loan sang Trung Quốc sau khi Thủ tướng Vanuatu hồi đó là Serge Vohor đã có chuyến thăm bí mật tới Đài Loan và bị mất quyền lực trong một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm. Ông Vohor đã đấm đại sứ Trung Quốc sau chuyến thăm Đài Loan. Những sự cố như vậy tại các quốc đảo Thái Bình Dương đã làm nổi bật các cuộc bạo động giữa các chính đảng đối lập và các nhóm sắc tộc. Lầu Năm Góc sẽ sử dụng những mồi lửa chính trị-sắc tộc này như một vũ khí bí mật chống lại Trung Quốc.
CIA, Tổ chức tình báo an ninh Ôxtrâylia (ASIO) và Cơ quan tình báo bí mật Niu Dilân (NZSIS) đang có những chương trình nhàm phá hoại các chính phủ ở Nam Thái Bình Dương đang có các quan hệ chặt chẽ với Bắc Kinh. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhân chủng học đang đi xa hơn. Nhận thức được sự hận thù của người dân các đảo quốc Thái Bình Dương nghèo khổ đối với các doanh nhân người Hoa địa phương thành đạt, các nhà nhân chủng học bị mua chuộc đã khuấy động bạo lực, nhất là ở quần đảo Xôlômôn và Tônga để gạt bỏ ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.
Hiện có những kế hoạch dự phòng để kích động bạo lực chống lại những người Hoa tại Phigi, Vanuatu và Papua Niu Ghinê. Chiến dịch Prosyms tại Inđônêxia dựa vào sự hận thù lâu dài giữa những người Hồi giáo Inđônêxia và những người Hoa để gây ra cuộc bạo loạn chống lại người Hoa sau cuộc đảo chính năm 1965 do CIA dàn dựng chống lại Tổng thống Sukarno. Cuộc bạo loạn này đã khiến hơn 100.000 người Hoa thiệt mạng và cắt đứt quan hệ của chính phủ của Tổng thống Suharto do CIA dựng lên với Trung Quốc.
Rõ ràng là việc huấn luỵện quân sự Mỹ tại Xamoa sẽ được sử dụng để huấn luyện những binh lính đánh thuê gốc quốc đảo Thái Bình Dương. Nhiều người dân quốc đảo Thái Bình Dương như các công dân của quần đảo Mácsan, Xamoa và Guam đã tham gia quân đội Mỹ để huấn luyện thanh niên nghèo khổ từ Kiribati, Micronesia, Xamoa và Phigi. Lực lượng đánh thuê Phigi và Tônga, đã tham gia các chiến dịch quân sự của phương Tây tại Irắc, Ápganixtan và các khu vực khác, cũng có thể tham gia lực lượng huấn luyện của Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ tại Xamoa. Nếu chính phủ quân sự của Phigi, hiện đang phải chịu các biện pháp trừng phạt ngoại giao của Ôxtrâylia và Niu Dilân, vẫn tiếp tục xích lại gần Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, thì những đối tượng đánh thuê Phigi này có thể tiên hành đảo chính nhân danh CIA, ASIO và NZSIS tại quê hương họ. Một nhóm nhỏ các nhà ngoại giao tại đại sứ quán Trung Quốc tại Nuku’alofa, Tônga chứng kiến sự tức giận của người dân Tônga sẽ nhanh chóng hướng sang cộng đồng doanh nhân người Hoa. Những kịch bản tắm máu như vậy đã được Lầu Năm Góc vạch ra cho Thái Bình Dương.
Mỹ sẽ tiếp tục giữ các quốc đảo Thái Bình Dương nằm trong tầm ảnh hưởng của họ đế ngăn chặn sự mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. Ngày nay, những người dân quốc đảo Thái Bình Dương đang phải đối mặt với một “Bức tường Béclin” ảo, giữ cho họ chỉ ở bên trong khu vực, trong khi những người bên ngoài như người Trung Quốc và người Nga không thể thâm nhập. Phương pháp mà Oasinhtơn, Canbơrơ và Oenlinhtơn thực hiện là tạo ra độc quyền về hàng không, vận chuyển hàng hải và yêu cầu xin thị thực quá cảnh. Bất kỳ hãng hàng không nào nối chuyến đến các quốc đảo Thái Bình Dương qua Xamoa, Guam và Hawaii đều phải xin thị thực quá cảnh Mỹ.
Có một lý do khiến nhiều cuộc thương thuyết và thỏa thuận thành lập Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) lại cực kỳ bí mật. Mặc dù TPP là một khối thương mại chiến lược, nhưng cũng bao gồm khía cạnh hợp tác quân sự, dường như không khác với Khối cùng thịnh vượng Đại Đông Á mà Nhật Bản thành lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Mỹ không muốn bị coi là nước khởi đầu TPP, nhưng mong muốn thỏa thuận này sẽ thay thế Tổ chức hiệp ước Đông Nam Á (SEATO), một liên minh quân sự hồi Chiến tranh Lạnh. Khi có nhiều nước tham gia hơn, khía cạnh quân sự của TPP đã trở nên rõ ràng hơn. Các nước tham gia thương thuyết TPP đều chuẩn bị để tham gia một khối quân sự chống Trung Quốc tại Thái Bình Dương, gồm Niu Dilân, Xinhgapo, Brunây, Chilê, Ôxtrâylia, Canada, Malaixia, Mêhicô, Việt Nam, Pêru và Mỹ. Trong khi đó Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Philippin, Côlômbia, Côxta Rica, Lào và Đài Loan đã bày tỏ sự quan tâm đến việc tham gia TPP. Sự phong tỏa phía Đông Trung Quôc đã trở nên rõ ràng. Mỹ đã có các liên minh quân sự với 6/10 thành viên TPP khác. Từ Darwin, Ôxtrâylia, Vịnh Subie, Philippin đến Vịnh Cam Ranh, Việt Nam, Mỹ đang vạch ra đường biên giới khu vực ảnh hưởng châu Á-Thái Bình Dirơng của họ, mà Trung Quốc được cảnh báo là không nên vượt qua.
Bà Clinton có thể đã tới Rarotonsa với nụ cười và cả những kế Hoạch tội lỗi của Mỹ cho khu vực Thái Bình Dương, sử dụng những người dân quốc đảo Thái Bình Dương làm bia đỡ đạn trong một cuộc chiến tranh khu vực sắp tới với Trung Quốc.
***
TTXVN (Niu Yoóc 13/2
Tạp chí “Wall Streeter” của Mỹ mới đây đăng viết của tác giả Michael T. Klare, giáo sư của Khoa Nghiên cứu Hòa bình và An ninh Thế giới thuộc Đại học Hampshire của Mỹ, trong đó cho biết một số nhà phân tích ở Oasinhtơn cho rằng cuộc tranh cãi cuối cùng với Iran về tham vọng hạt nhân sẽ là cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên thách thức tân Bộ trưởng Quốc phòng của Mỹ. Do có ít dấu hiệu cho thấy các cuộc đàm phán giải quyết vấn đề hạt nhân của Iran đạt được bước đột phá, nhiều nhà phân tích tin rằng hành động quân sự của Ixraen hoặc Mỹ có thể nằm trong chương trình nghị sự năm 2013.
Nhưng tiếp theo rắc rối của vấn đề hạt nhân Iran là các cuộc khủng hoảng tiềm tàng và nhiều khả năng sẽ xảy ra hơn so với tưởng tượng của hầu hết các nhà phân tích: đó là cuộc xung đột ở biển Hoa Đông và Biển Đông.
Quyết tâm khẳng định quyền kiểm soát các hòn đảo tranh chấp của Trung Quốc ở các vùng biển giàu năng hrợng trên biển Hoa Đông và Biển Đông vấp phải phản ứng mạnh mẽ từ Nhật Bản, Philippin và Việt Nam, cùng với sự quyết đoán khu vực lớn hơn của Mỹ đang gây lo lắng không chỉ cho khu vực mà cả toàn cầu. Khả năng xảy ra một cuộc khủng hoảng Iran vẫn là điểm nhấn vì nguy cơ gây mất ổn định rõ ràng ở Trung Đông lớn hơn và cuộc khủng hoảng đó đe dọa sản xuất và vận chuyển dầu toàn cầu. Nhưng một cuộc khủng hoảng ở biển Hoa Đông hay Biển Đông sẽ tạo nên những hiếm họa lớn hơn do khả năng đối đầu quân sự Mỹ-Trung và mối đe dọa đối với sự ổn định kinh tế của châu Á. Mỹ bị ràng buộc bởi hiệp ước hỗ trợ Nhật Bản hoặc Philippin nếu hai nước này bị nước thứ 3 tấn công, do đó bất cứ cuộc xung đột nào xảy ra giữa lực lượng vũ trang Trung Quốc và Nhật Bản hoặc Philippin đều có thể dẫn đến sự can thiệp quân sự của Mỹ. Nhưng do phần lớn thương mại của thế giới tập trung ở châu Á, đồng thời nền kinh tế Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản cũng gắn bó chặt chẽ với nhau theo nhiều cách, do đó xung đột xảy ra trên các tuyến đường biển đều có thể làm tê liệt thương mại quốc tế hoặc gây suy thoái toàn cầu. Khả năng một cuộc xung đột xảy ra ngày càng tăng trong những tháng gần đây do Trung Quốc và các nước láng giềng tiếp tục đưa ra các tuyên bố chủ quyền cứng rắn và tăng cường lực lượng quân sự ở các khu vực tranh chấp. Các tuyên bố tiếp tục chính sách “trở lại” hoặc “tái cân bằng” lực lượng ở Thái Bình Dương của Oasinhtơn càng làm tăng thái độ không khoan nhượng của Trung Quốc và tăng cảm giác về cuộc khủng hoảng trong khu vực. Các nhà lãnh đạo của tất cả các bên tiếp tục khẳng định các quyền bất khả xâm phạm của đất nước họ ở các hòn đảo tranh chấp và cam kết sử dụng mọi phương tiện cần thiết để chống lại sự xâm nhập của các bên tranh chấp. Đặc biệt Trung Quốc tăng cường tần suất và quy mô của các cuộc diễn tập hải quân ở các vùng biển tranh chấp với Nhật Bản, Việt Nam và Philippin, từ đó càng làm tăng thêm căng thẳng trong khu vực.
Nhìn bề ngoài, những tranh chấp đó dường như chỉ xoay quanh vấn đề nước nào sở hữu các bãi san hô và đảo nhỏ mà hiện một loạt các quốc gia tuyên bố chủ quyền. Tại biển Hoa Đông, quần đảo tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản được gọi là Điếu Ngư theo tiếng Trung Quốc và Senkaku theo tiếng Nhật Bản. Hiện nay, Nhật Bản đang quản lý quần đảo, nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền. Trên Biển Đông, một số nhóm đảo đang bị tranh chấp, kể cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung Quốc gọi là Nam Sa và Tây Sa. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ các quần đảo ở Biển Đông, trong khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, Brunây, Malaixia và Philippin cũng tuyên bố chủ quyền một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Tất nhiên Vấn đề không chỉ dừng lại ở chủ quyền đối với một số hòn đảo không người. Theo dự kiến của các nhà khoa học, dưới đáy biển của các hòn đảo đó còn có trữ lượng lớn dầu lửa và khí đốt tự nhiên. Quyền sở hữu các quần đảo tự nhiên sẽ đong thời sở hữu các nguồn dự trữ tài nguyên – vấn đề mà tất cả các nước đều mong muốn. Cùng lúc đó các lực lượng dân tộc chủ nghĩa cũng nổi lên mạnh mẽ. Người Trung Quốc tin rằng tất cả các quần đảo này là một phần lãnh thổ quốc gia của họ và tuyên bố chủ quyền của các nước khác là sự tấn công trực tiếp vào quyền chủ quyền của Trung Quốc. Thực tế việc Nhật Bản – nước xâm lược tàn bạo và chiếm đóng của Trung Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai – tuyên bố chủ quyền một số hòn đảo chỉ tăng thêm sự chỉ trích mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và thái độ không khoan nhượng của Bắc Kinh về vấn đề này. Tương tự, người Nhật Bản, Việt Nam và Philippin cảm thấy bị đe dọa bởi sự giàu có và sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc, nhưng không chịu khuất phục trong các tranh chấp đảo. Những tranh chấp đó gần đây đang leo thang. Ví dụ, tháng 5/2011, Việt Nam cho biết các tàu chiến Trung Quốc quấy rối và thậm chí cắt dây cáp khảo sát địa chấn của các tàu thăm dò dầu khí của công ty PetroVietnam ở Biển Đông. Tháng 4/2012, các tàu hải giám vũ trang của Trung Quôc bao vây các tàu của Philippin khi các tàu Philippin kiểm tra các tàu cá Trung Quốc bị nghi ngờ đánh cá trái phép ở đảo Hoàng Nham, một hòn đảo nhỏ ở Biển Đông mà hai nước đều tuyên bố chủ quyền. Biển Hoa Đông cũng chứng kiến căng thẳng tương tự trong thời gian gần đây. Ví dụ tháng 9/2012, các nhà chức trách Nhật Bản bắt giữ 14 công dân Trung Quốc có ý định đổ bộ lên một hòn đảo thuộc quần đảo Điếu Ngư/Senkaku để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc, từ đó kích động các cuộc biểu tình chổng Nhật Bản trên cả nước Trung Quốc và một loạt hoạt động thể hiện sức mạnh hải quân của cả hai bên ở các vùng biển tranh chấp.
Ngoại giao khu vực cũng ngày càng trở nên căng thẳng trong thời gian gần đây do các tranh chấp hàng hải và các cuộc đụng độ quân sự kèm theo. Tháng 7/2012, tại hội nghị hàng năm của Hiệp hội-các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), lần đầu tiên trong lịch sử 46 năm của tổ chức này các nhà lãnh đạo hiệp hội đã không thể ra được một thông cáo chung. Chính Campuchia, chủ tịch luân phiên và là đồng minh tin cậy của Trung Quốc, đã ngăn chặn sự đồng thuận và không ủng hộ một số từ ngữ trong “bộ quy tắc ứng xử” nhằm giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Hai tháng sau, khi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Rodham Clinton đến thăm Bắc Kinh nhằm thúc đẩy các cuộc đàm phán về các tranh chấp, báo chí Trung Quốc đồng loạt chỉ trích gay gắt bà và các quan chức Trung Quốc không nhượng bộ bất cứ đề nghị nào của bà Clinton. Cuối năm 2012 tình hình càng xấu hơn. Ngày 1/12, các quan chức ở tỉnh Hải Nam – nơi quản lý các đảo mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, công bố một chính sách mới: hiện nay các tàu chiến Trung Quốc sẽ được trao quyền ngăn chặn, tìm kiếm, hoặc đẩy lùi các tàu nước ngoải thâm nhập hoặc bị nghi ngờ tiến hành các hoạt động trái phép ở các vùng biển Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Động thái này trùng hợp với sự gia tăng quy mô và tần suất của việc triển khai hải quân Trung Quốc trong khu vực tranh chấp. Ngày 13/12, Nhật Bản điều động máy bay chiến đấu F-15 xua đuổi một máy bay hải giám của Trung Quốc hoạt động trong không phận gần quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Đáng lo ngại, ngày 8/1 bốn tàu trinh sát của Trung Quốc thâm nhập các vùng biển do Nhật Bản kiểm soát trong 13 giờ. Sau đó 2 ngày, máy bay chiến đấu của Nhật Bản lại cất cánh khi một máy bay trinh sát của Trung Quốc xâm nhập không phận quần đảo này. Sau đó các máy bay chiến đấu của Trung Quốc đuổi theo. Rõ ràng Trung Quôc không có ý định lùi bước mà ngược lại, họ sẽ tăng cường triển khai không quân và hải quân trong khu vực biến tranh chấp đúng như Nhật Bản đang làm.
Hiện nay một số nhân tố dường như đang làm tăng nguy cơ đối đầu, trong đó có sự thay đổi lãnh đạo ở Trung Quốc, Nhật Bản và đánh giá lại địa chính trị của Chính phủ Mỹ.
Tại Trung Quốc, đội ngũ lãnh đạo mới đang chú trọng sức mạnh quân sự và hành động quyết đoán quốc gia. Sau khi trở thành nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng, ông Tập cận Bình đã vài lần đến thăm các đơn vị quân đội nhằm thể hiện quyết tâm của Đảng và Chính quyền trong việc tăng cường khả năng và uy tín của lực lượng lục quân, không quân và hải quân Trung Quốc. Ông Tập Cận Bình khẳng định Trung Quốc phải đóng vai trò mạnh mẽ và quyết đoán hơn trong khu vực và thế giới. Ví dụ trong bài phát biểu trước các binh sĩ ở thành phố Huệ Châu, ông nói về “giấc mơ” trẻ hóa đất nước như sau: “Giấc mơ này có thể là một giấc mơ của một quốc gia hùng mạnh và đó là giấc mơ về một quân đội mạnh”. Đáng chú ý, ông sử dụng chuyến đi này để đến thăm tàu khu trục Hải Khẩu mới được bán giao cho Hạm đội Nam Hải chịu trách nhiệm tuần tra các khu vực tranh chấp ở Biển Đông.
Tại Nhật Bản, ê kíp lãnh đạo mới cũng đang chú trọng sức mạnh quân sự và sự quyết đoán quốc gia. Ngày 16/12, ông Shinzo Abe trở lại cương vị Thủ tướng Nhật Bản. Trông những tuần đầu tiên trên cương vị Thủ tướng, ông Abe công bố các kế hoạch tăng chi tiêu quân sự và xem xét lời xin lỗi chính thức của một cựu quan chức chính phủ đối với các phụ nữ bị bắt làm nô lệ tình dục của quân đội Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Những động thái này chắc chắn đe làm hài lòng các nhân vật cánh hữu Nhật Bản, nhưng nhất định kích động tình cảm chống Nhật Bản ở Trung Quốc, Hàn Quốc, và các nước khác mà Nhật Bản chiếm đóng trước đây. Đáng lo ngại hơn, Thủ tướng Abe nhanh chóng đàm phán một thỏa thuận với Philippin nhằm hợp tác lớn hơn về “tăng cường an ninh hàng hải” ở Tây Thái Bình Dương, một động thái nhằm chống lại sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực. Chắc chắn thỏa thuận này sẽ gây phản úng gay gắt từ Trung Quốc và do Mỹ có các hiệp ước phòng thủ chung với cả hai nước, thỏa thuận cũng sẽ làm tăng nguy cơ can dự của Mỹ trong các cuộc đụng độ tương lai trên biển.
Tại Mỹ, các quan chức cấp cao đang tranh luận việc thực hiện chính sách trở lại châu Á-Thái Bình Dương được Tổng thống Obama tuyên bố trong một bài phát biểu trước Quốc hội Ôxtrâylia cách-đây gần một năm. Obama cam kết triển khai thêm lực lượng Mỹ trong khu vực. Mặc dù ông không bao giờ tuyên bố phươmg pháp tiếp cận của mình nhằm ngăn chặn sự
phát triển của Trung Quốc, nhưng một số nhà quan sát cho rằng chính sách “ngăn chặn” đã trở lại Thái Bình Dương. Thực tế quân đội Mỹ đã thực hiện những biện pháp đầu tiên theo xu hướng này bằng cách tuyên bố: năm 2017, tất cả 3 loại máy bay tàng hình của không quân Mỹ (F-22, F-35 và B- 2), sẽ được triển khai tại các căn cứ tương đối gần Trung Quốc và năm 2020, 60% lực lượng hải quân Mỹ sẽ triển khai ở Thái Bình Dương (cao hơn so 50% hiện nay). Nhưng cuộc khủng hoảng ngân sách của Mỹ khiến nhiều nhà phân tích đặt câu hỏi liệu Lầu Năm Góc có khả năng thật sự thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quân sự của chiến lược trở lại châu Á không. Một nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), theo chỉ thị của Quốc hội Mỹ, được công bố mùa Hè năm ngoái, kết luận rằng Bộ Quốc phòng Mỹ “không đề cập rõ ràng chiến lược và kế hoạch về sức mạnh lực lượng của họ ở châu Á-Thái Bình Dương và cũng không liên kết chiến lược với các nguồn để phản ánh các thực tiễn ngân sách hiện nay”. Ngược lại, chiến lược đã thúc đẩy các nhân vật diều hâu trong quân đội thúc ép chính quyền chi tiêu nhiều hơn cho các lực lượng Thái Bình Dương và đóng vai trò mạnh mẽ hơn trong việc chống thái độ “bắt nạt” của Trung Quốc ở biển Hoa Đông và Biển Đông. Như cựu Bộ trưởng Hải quân và cũng là cựu Thượng nghị sĩ James Webb cho biết, các nước đồng minh châu Á của Mỹ đang chờ đợi xem Mỹ có làm sống lại vai trò cần thiết và là nhân tố thực sự bảo đảm sự ổn định ở khu vực Đông Á không, hay liệu khu vực này một lần nữa sẽ bị thống trị bởi tình trạng gây chiến và đe dọa của Trung Quốc không. Mặc dù Chính phủ Mỹ phản ứng trước những lời chế nhạo đó bằng cách tái khẳng định cam kết tăng cường lượng ở Thái Bình Dương, nhưng điều này không ngăn nổi các đề nghị Oasinhtơn cần có quan điểm cứng rắn hơn. Ông Obama bị dư luận chỉ trích vì không mang lại sự ủng hộ đầy đủ cho Ixraen trong cuộc chiến chống Iran về các loại vũ khí hạt nhân và chắc chắn ông sẽ đối mặt với áp lực lớn hơn để hỗ trợ các đồng minh của Mỹ ở châu Á – nơi họ đang bị quân đội Trung Quốc đe dọa.
Kết hợp 3 tiến triển trên, chúng ta có thể tạo nên một thùng thuốc súng và ít nhất nó sẽ gây nguy hiểm cho nền kinh tế toàn cầu như cuộc đối đầu của Mỹ với Iran. Hiện nay khi căng thẳng ngày càng gia tăng, tình huống xấu nhất có thể xảy ra là: một cuộc nổ súng bất ngờ và gây thiệt hại về người hay nếu một tàu chiến hoặc một máy bay bị bắn cháy, thì ngay lập
tức thùng thuốc súng sẽ bùng nổ. Rõ ràng sự cố như vậy có thể xảy ra bất cứ lúc nào ở Biển Đông và biển Hoa Đông. Bởi vì báo chí Nhật Bản cho biết các quan chức chính phủ sẵn sàng cho phép các phi công lái máy bay chiến đấu bắn cảnh báo máy bay Trung Quốc xâm nhập không phận quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Trong khi đó một vị tướng Trung Quốc tuyên bố hành động như vậy sẽ bị coi là bắt đầu một “cuộc chiến thực sự”. Nhưng nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ áp dụng các biện pháp hợp lý để xoa dịu các tuyên bố hiếu chiến và dân tộc chủ nghĩa cực đoan và bắt đầu đàm phán với nhau để tìm kiếm giải pháp cho các tranh chấp, thì cuộc khủng hoảng đó có thể được ngăn chặn. Trái lại, các tranh chấp nhỏ đó ở Thái Bình Dương sẽ tiến triển vưọt ra khỏi tầm kiếm soát, lúc đó không chỉ những nước trực tiếp can dự mà toàn bộ hành tinh sẽ chứng kiến nỗi buồn và sự hoảng sợ trước thất bại của tất cả các nước liên quan.
***
Trung tâm Nghiên cứu Các vấn đề Chiến lược và Quốc tế (CSIS) của Mỹ đăng bài của tiến sĩ Michael J. Green, Phó Chủ tịch phụ trách Các vấn đề châu Á và Chủ tịch Các vấn đề Nhật Bản của CSIS, cho biết khi dự báo tình hình năm 2013, các chuyên gia an ninh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương thường quan tâm nhất vấn đề liệu Tổng thống Obama có tiếp tục thúc đẩy “Chính sách trở lại” hay “Tái cân bằng” châu Á trong lúc Chính phủ Mỹ đang đối mặt với nhiều trở ngại như: vách đá tài chính, ngân sách quốc phòng không chắc chắn và sự ra đi của các các quan chức liên quan chặt chẽ với “Chính sách trở lại” châu Á thư Ngoại trưởng Hillary Clinton và Trợ lý Ngoại trưởng Kurt Campbell.
Nhưng trước khi đánh giá triển vọng của Chính sách trớ lại châu Á, chúng ta cần tìm hiểu bản chất của chính sách đó. về lý thuyết, tất cả các khái niệm chiến lược quan trọng mới thường nhắc đến mục đích hoặc các lợi ích quốc gia, phương tiện và biện pháp được sử dụng để giải quyết các thách thức mới đối với lợi ích quốc gia. Chính sách trở lại châu Á ra đời không phải từ tiến trình hoạch địch chính sách thận trọng mà là kết quả của việc hoạch định kế hoạch và tình hình nổi lên liên quan đến thông điệp chính trị nội bộ, chiến lược quân sự và những phát triển bất ngờ ở châu Á. Các yếu tố đó bao gồm:
1. Châu Á là khu vực quan trọng cho các lợi ích quốc gia của Mỹ. Sự công nhận này được phản ánh qua các cuộc thăm dò ý kiến dư luận công chúng và các học giả mấy năm qua. Như nhà sử học kinh tế người Xcốtlen Angus Maddison nhận định, châu Á đang trở thành trung tâm kinh tế của thế giới sau thời gian gián đoạn 200 năm bắt đầu bằng cuộc cách mạng công nghiệp và sự sụp đổ của đế chế nhà Thanh ở Trung Quốc. Người Mỹ hiểu điều này. Do đó trong các cuộc thăm dò gần đây của Hội đồng Chicago về Các vấn đề Toàn cầu, họ bắt đầu xác định châu Á là khu vực quan trọng nhất trên thế giới đối với Mỹ. Lớn lên ở Hawaii và Inđônêxia, Tổng thống Obama cũng nhận thức rõ điều đó.
2. Bức thông điệp chính trị. Như nhà báo Bob Woodward của tờ “Bưu điện Oasinhtơn” cho biết, các quan chức cấp cao của Nhà Trắng đang tìm kiếm lý lẽ để thúc đẩy Mỹ rút quân khỏi Ápganixtan – cuộc xung đột mà ứng cử viên Obama xác định là “cuộc chiến tranh có lợi” để nâng cao uy tín an ninh quốc gia của ông nhưng trái lại ông Obama lại chỉ trích việc tăng thêm lực lượng tại Irắc. Đường hướng Chiến lược tháng 1/2012 của Lầu Năm Góc cho rằng quân đội Mỹ phải chú trọng hơn ở khu vực Đông Á sau một thập kỷ tác chiến ở Tây Nam Á. Đây là một ưu tiên phù hợp với các nhiệm vụ tương lai, nhưng cũng là bình phong chính trị thích hợp để cắt giảm hơn nữa ngân sách quốc phòng. Nhưng có rất ít kế hoạch chiến lược đối với châu Á của Mỹ đi sâu vấn đề “tái cân bằng”. Và chiến lược tái cân bằng chỉ ra đời sau khi Lầu Năm Góc tuyên bố. Vì vậy, chính sách “Trở lại” vẫn là một công cụ và phương pháp nhằm thực hiện chiến lược.
3. Một phản ứng trước sự quyết đoán của Trung Quốc. Nói chung, chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ là sự kết hợp giữa việc tiếp tục can dự vào Trung Quốc của các đời tổng thống trước đây kể từ khi Nixon đến Bắc Kinh năm 1972 với tiếp tục chiến lược cân bằng sức mạnh của các đời tổng thống từ khi ông Clinton làm sống lại liên minh Mỹ – Nhật năm 1996. Các nhà chiến lược cấp cao của Chính quyền Obama hiểu rõ điều này và mời Thủ tướng Nhật Bản Taro Aso là nguyên thủ nước ngoài đầu tiên đến thăm Nhà Trắng. Sau đó Chính quyền Obama tìm cách cam kết chiến lược hơn nữa và tăng cường mối quan hệ với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Hành động can dự này bao gồm một tuyển bố chung nhân chuyến thăm Bắc Kinh tháng 11/2009 của Tổng thống Obama, trong đó hai
ông Obama và Hồ cẩm Đào nhất trí tôn trọng “các lợi ích cốt lõi” của hai nước, kể cả vấn đề Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương đối với Trung Quốc và vai trò của Mỹ như một cường quốc Thái Bình Dương, Tuyên bố chung đó không có lợi cho Mỹ, đặc biệt khi Bắc Kinh lên tiếng chỉ trích và yêu cầu Oasinhtơn hành động đúng tinh thần của Tuyên bố, chẳng hạn đòi Obama hoãn chuyến thăm của Đạtlai Lạtma đến Nhà Trắng. Mặc dù rõ ràng Chính phủ Mỹ không có ý định như vậy, nhưng tuyên bố đã tạo cơ hội cho một Trung Quốc đang trỗi dậy. Bắc Kinh đã có tranh chấp với các nước Nhật Bản, Việt Nam và Philippin về tuyên bố lãnh hải và không gây sức ép lên Bình Nhưỡng sau khi Bắc Triều Tiên phát động các cuộc tấn công chết người chống Hàn Quốc. Rõ ràng Bắc Kinh không muốn hoặc không thể đưa ra các nỗ lực bảo đảm chiến lược. Do các nước đồng minh và đối tác khu vực yêu cầu Mỹ có quan điểm tích cực hơn, Chính quyền Obama đã chú trọng cân bằng sức mạnh trong cách tiếp cận khu vực. Tháng 1/2011 khi ông Hồ Câm Đào đến Mỹ, tuyên bố chung mà ông ta đưa ra với Obama không nhắc đến “các lợi ích cốt lòi”, một thiếu sót có chủ định của các quan chức đàm phán của Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng. Sau đó Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton chính thức sử dụng từ “Trở lại” châu Á trong bài báo đăng trên tạp chí Chính sách Đối ngoại tháng 11/2011. Quy mô quân sự của chính sách “Trở lại” hoặc “Tái cân bằng” được nhắc đến thường xuyên ở Nhà Trắng. Đường hướng Chiến lược tháng 1/2012 của Bộ Quôc phòng Mỹ khẳng định các mối đe dọa của quân đội Trung Quốc và đề cập đến khả năng chống thâm nhập của quân đội Trung Quốc trong một câu tương tự với Iran. Tháng 4/2012, Mỹ và Nhật Bản nhất trí bố trí các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ từ Okinawa đến Guam và miền Bắc Ôxtrâylia. Tổng thống Obama trực tiếp công bố Đường hướng Chiến lược và triển khai lực lượng đến Darwin và gây ấn tượng đặc biệt đối với các đơn vị quân đội này trong chính sách Trở lại châu Á. Chính sách Trở lại châu Á tạo ra sự nghi ngờ trong khu vực về vấn đề phải chăng mục tiêu can dự của Mỹ là nhằm kiềm chế Trung Quốc.
4. Tăng cường sức mạnh của Mỹ. Thực tế, Mỹ bắt đầu tăng cường sức mạnh ở Thái Bình Dương cách đây hơn một thập kỷ nhằm giảm bớt sức ép đối với các căn cứ Mỹ trên đảo Okinawa và đối phó với những thách thức cường độ thấp ngày càng tăng ở Đông Nam Á cũng như thách thức chống tiếp cận và chống xâm nhập khu vực (A2AD) đang phát triển ở Đông Bắc Á. Rõ ràng sự tăng cường sức mạnh của Mỹ không phải vấn đề mới, nhưng nó trở nên cấp bách và tương tự Chính sách Trở lại khu vực. Nói một cách chính xác, bởi vì bối cảnh chiến lược lớn hơn của Chính sách Trở lại không được đưa ra rõ ràng, Quốc hội Mỹ đã ngăn chặn các đề nghị tăng chi phí để tăng cường các lực lượng. Trong bối cảnh đó, CSIS được giao nhiệm vụ hoàn thành một đánh giá độc lập về chiến lược sức mạnh của lực lượng Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương năm 2012. Báo cáo của CSIS cho rằng toàn bộ chiến lược của chính quyền là đúng, nhưng yêu cầu Nhà Trắng tìm các địa điểm để giải thích bối cảnh chiến lược lớn hơn cho Chính sách Trở lại phù hợp hơn trước Quốc hội Mỹ và các nước khu Vực.
5. Sự can dự lớn hơn ở Đông Nam Á. Ngay từ khi ê kíp Obama lãnh đạo Nhà Trang, Ngoại trưởng Clinton đã tích cực tham gia nền ngoại giao đa phương của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó đặc biệt chú trọng tham gia Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF). Các Thứ trưởng Ngoại giao trước đó, đặc biệt Thứ trưởng Bob Zoellick, cũng thể hiện nhiệt tình tương tự đối với khu vực, nhưng bà Clinton là ngoại trưởng đầu tiên luôn quan tâm đến Đông Nam Á. Cùng lúc đó, Tổng thống Obama hoàn toàn chấp nhận cơ cơ tổ chức khu vực và tập trung vào ASEAN. Châu Á có nhiều tổ chức khu Vực đa phương, từ diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), đến diễn đàn ba bên nhỏ hơn gồm Mỹ, Nhật Bản và Ôxtrâylia. Các nước thành viên ASEAN đang thúc đẩy “vai trò trung tâm của ASEAN” trong tiến trình này và Tổng thống Obama ủng hộ bằng cách tham gia và sau đó tham dự Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) liên tục 2 năm liền. Động thái này khiến các nước hy vọng APEC sẽ tiếp tục là một tổ chức xuyên Thái Bình Dương mạnh mẽ trong khu vực, nhưng cam kết của Tổng thống với EAS có thề là cam kết mạnh mẽ và lâu dài nhất của Chính sách Trở lại châu Á. Điều đó có nghĩa trong tương lai mỗi năm các tổng thống Mỹ có thể đến khu vực hai lần (một lần đến dự diễn đàn APEC và một lần tham dự EAS). Một số nhà chỉ trích cho rằng tất cả những gì Chính phủ Mỹ đã thực hiện là chính sách trở lại Đông Nam Á, nhưng thực tế tăng cường can dự Đông Nam Á là phát triển toàn bộ chiến lược của Mỹ và nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của ASEAN như một đối tác thương mại quan trọng của Mỹ và cũng là một mục tiêu tranh giành ảnh hưởng chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc.
Vậy liệu chính sách Trở lại châu Á-Thái Bình Dương của Chính phủ Mỹ sẽ tiếp tục trong năm 2013? Chắc chắn người Mỹ sẽ tiếp tục chứng kiến châu Á là khu vực quan trọng nhất cho các lợi ích của Mỹ, nhưng các cuộc thăm dò dư luận cũng cho thấy người Mỹ xác định Trung Đông là khu vực nguy hiểm nhất cho lợi ích của họ. Năm 2013 có thể là năm tập trung vào chương trình hạt nhân của Iran, chưa kể khả năng chấm dứt chế độ Xyri. Tân Ngoại trưởng John Kerry sẽ yêu cầu Mỹ tiếp tục quan tâm đến châu Á. Chính quyền cũng gặp một số khó khăn trong việc quản lý căng thẳng giữa sự can dự vào Trung Quốc của Mỹ và duy trì sự cân bằng sức mạnh có lợi trong khu vực. Các nước đồng minh của Mỹ như Nhật Bản và Philippin đang sợ rằng trong nhiệm kỳ hai Chính quyền Obama có thể trở lại xu hướng chú trọng các cam kết chứ không ngăn chặn Bắc Kinh, bởi vì điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hai nước đồng minh. Can dự vào ASEAN là một thành công quan trọng của Chính quyền Obama, nhưng tổ chức khu vực này có thể trở nên khó khăn hơn trong những năm tới do cuộc xung đột sắc tộc mới ở Mianma, quá trình chuyển đổi lãnh đạo tại Inđônêxia và các vấn đề chính trị nội bộ của Malaixia và các nước khác. Một đại diện thương mại mạnh của Mỹ để thúc đẩy Quan hệ đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương chắc chắn sẽ giúp Chính sách trở lại châu Á phát triển vững chắc, đặc biệt với ASEAN. Cuối cùng, tất cả dư luận sẽ chú ý đến ngân sách quốc phòng của Mỹ trong năm 2013. Sự cắt giảm chi tiêu quốc phòng thận trọng của Mỹ để cho phép nâng cao khả năng và sức mạnh của lực lượng hải quân và không quân ở Thái Bình Dương là vấn đề cần thiết. Không chú trọng và quản lý tốt các vấn đề ngân sách sẽ đẩy quân đội Mỹ vào tình trạng hỗn loạn, từ đó phá hủy hình ảnh về khả năng chiến lược của Mỹ trong khu vực. Nhưng nếu Tổng thống Obama tiếp tục cam kết và quyết định tham dự hội nghị thượng đỉnh khu vực mỗi năm hai lần, chắc chắn ảnh hưởng của quyết định đó đối với thương mại và quốc phòng sẽ khiến ông Obama và êkíp mới của ông ta thường xuyên quan tâm và thúc đẩy Chính sách Trở lại châu Á-Thái Bình Dương trong năm 2013 và những năm tiếp theo.

18. Quan hệ Trung Quoocs - Mianma đối diện với nhiều thách thức

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Năm, ngày 14/2/2013
TTXVN (Hồng Công 8/2)
Trong bài viết trên tờ “Đại Công báo” (Hồng Công), Liễu Phàm, nhà nghiên cứu ngoại giao Trung Quốc, cho rằng sau chuyến thăm mang tính lịch sử của Tổng thống Mỹ Obama tới Mianma, dư luận báo chí phương Tây dồn dập đưa ra dự báo rằng quan hệ Mỹ-Mianma cải thiện sẽ dẫn tới “quan hệ Trung Quốc – Mianma thụt lùi”, thậm chí còn lo ngại rằng “quan hệ Trung Quốc-Mianma đang đối mặt với sự chuyển ngoặt”. Mianma hiện nay đã trở thành một chiếc “bánh thơm” của các nước phương Tây. Mỹ, Nhật Bản và thậm chí cả Ấn Độ đều đang ra sức lôi kéo nước này, một số người Mianma cũng muốn dựa vào phương Tây. Trước thực tế này, có thể nói rằng quan hệ Trung Quốc-Mianma đối diện với thách thức, song mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước vẫn chưa có sự đảo ngược.
Thứ nhất, quan hệ Trung Quốc-Mianma có cơ sở lâu bền. Làng bản hai nước Trung Quốc và Mianma nhìn sang nhau, có chung cội nguồn dân tộc, cư dân hai nước sang sinh sống ở bên kia biên giới, văn hóa tương đồng, tập tục gần gũi, nhân dân hai nước từ lâu đã chung sống hòa thuận, Mianma là nước đầu tiên ngoài các nước XHCN công nhận nước Trung Quốc mới. Nhiều năm trở lại đây, Trung Quốc kiên trì phương châm ngoại giao láng giềng “thân thiện với láng giềng, lấy láng giềng làm đối tác” và chính sách ngoại giao láng giềng “hòa thuận láng giềng, yên ổn láng giềng, làm giàu láng giềng”, ủng hộ Mianma thúc đẩy dân chủ pháp trị, phát triển kinh tế quốc dân, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ thống nhất đất nước. Lãnh đạo cấp cao hai nước luôn duy trì các chuyến viếng thăm lẫn nhau. Trong chuyến thăm Trung Quốc hồi tháng 5/2011, Tổng thống Mianma Thein Sein đã có cuộc hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong việc làm sâu sắc hơn nữa tình hữu nghị giữa hai nước, hai bên đã đạt được một loạt nhận thức chung trong các vấn đề duy trì giao lưu lãnh đạo cấp cao, tăng cường lòng tin chiến lược, nâng cấp hợp tác kinh tế thương mại…, lãnh đạo hai nước quyết định xây dựng mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. Mới đây, trong buổi tiếp Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Phó Oánh và Phó Tổng Tham mưu trưởng quân Giải phóng Thích Kiến Quốc tới thăm Mianma, Tổng thống Thein Sein đã nhất trí bảo vệ hòa bình ổn định tại khu vực biên giới giữa hai nước. Thích Kiến Quốc bày tỏ Trung Quốc xưa nay không can thiệp vào công việc nội bộ của Mianma, hy vọng phía Mianma chú trọng vào công tác hòa giải dân tộc trong nước, vì hòa bình của khu vực phía Bắc và an ninh biên giới Trung Quốc-Mianma, áp dụng các biện pháp hữu hiệu để thực hiện sự ổn địnhcủa khu vực biên giới. Cuộc hội đàm này được tiến hành chưa đầy 24 giờ sau khi nhà chức trách Mianma đưa ra tuyên bố ngừng bắn tại bang Kachin, điều này cho thấy phía Trung Quốc hết sức coi trọng việc duy trì quan hệ với Mianma. Đồng thời với đó, hợp tác kinh tế thương mại song phương cũng không ngừng phát triển. Trong 11 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu song phương đã vượt mức 6,1 tỷ USD, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến cuối năm 2011, Trung Quốc đã đầu tư hơn 20,2 tỷ tại Mianma, đúng vị trí hàng đầu về cả thương mại đối ngoại và đầu tư nước ngoài của Mianma. Bên cạnh đó, tuyến đường dẫn khí đốt nối Mianma với Trung Quốc đến tháng 5 này sẽ hoàn tất và chính thức được đưa vào sử dụng. Hiện nay, hợp tác kinh tế và đầu tư song phương Trung Quốc-Mianma đã hình thành bố cục hợp tác đa tầng cấp, đa lĩnh vực, đa hình thức.
Thứ hai, chính sách đối với Trung Quốc của Mianma sẽ không có thay đổi mang tính căn bản. Mianma đã nhận thức được rằng củng cố và phát triển quan hệ với Trung Quốc là duy trì độc lập dân tộc của Mianma, thực hiện hòa giải dân tộc, thúc đẩy nhu cầu phát triển toàn diện, phù hợp với lợi ích căn bản của Mianma. Gần nửa thế kỷ qua, sự viện trợ và ủng hộ của Trung Quốc luôn có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc duy trì ổn định chính trị, bảo vệ an ninh quốc gia và giải quyết khó khăn kinh tế của Mianma. Từ lâu, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã dành cho Mianma sự ủng hộ về chính trị và giúp đỡ về kinh tế, chính phủ và nhân dân Mianma sẽ không quên điều này. Trong chuyến thăm Mianma hồi năm ngoái của ủy viên trưởng Ngô Bang Quốc, Tổng thống Thein Sein đã bày tỏ phía Mianma mong muốn tiếp tục cùng Trung Quốc phối hợp chặt chẽ, duy trì trao đổi giao lưu cấp cao, tăng cường hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, nông nghiệp và năng lượng…, thúc đẩy hợp tác đầu tư và mậu dịch biên giới, nâng cao lòng tin hợp tác của các doanh nghiệp. Phía Mianma hoan nghênh cấc doanh nghiệp Trung Quốc đến Mianma đầu tư, phát triển ngành nghề tập trung nhiều lao động và ngành gia công mật hàng nông sản và sẽ tạo thuận lợi cho sự đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc. Tổng thống Mianma nhắe lại rằng Mianma sẽ tiếp tục kiên định chính sách một nước Trung Quốc kiên định ủng hộ lập trường và chủ trương của Trung Quốc trong việc bảo vệ lợi ích cốt lỗi. Điều không thểphủ nhận là trong mấy năm gần đây, quan hệ Trung Quốc-Mianma có một số vấn đề không có tiếng nói chung chưa giải quyết được, đặc biệt là chính phủ mới của Mianma đột nhiên tuyên bố ngừng xây dựng đập thủy điện Myitsone, một công trình hợp tác giữa hai nước; mỏ khai thác đồng với tổng vốn đầu tư 1 tỷ USD cũng bị đình chỉ do phản đối của người dân địa phương… Những sự kiện này rõ ràng đã ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ Trung Quốc-Mianma. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng cho dù Chính phủ Mianma sau này có biến động, các thế lực trong nước Mianma đối lập như thế nào, phe phái nào lên nắm quyền cũng khó có thể thay đổi quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Bà Aung San Suu Kyi từng nhiều lần nhấn mạnh “một Mianma dân chủ không nhằm vào Trung Quốc”, bà hy vọng Mianma có thể tìm kiếm sự hợp tác mật thiết hơn với Mỹ, song vẫn duy trì được “quan hệ hữu nghị” với Trung Quốc.
Thứ ba, sự cải thiện quan hệ Mỹ-Mianma khó có thể xóa bỏ triệt để sức ảnh hưởng của Trung Quốc. Những năm gần đây, Mỹ tập trung điều chỉnh chính sách đối với Mianma với ba mục tiêu: Một là Obama viết thêm một thành tích ngoại giao trong việc mở rộng dân chủ kiểu Mỹ trên thế giới. Hai là mượn việc cải thiện quan hệ với Mianma để phối phợp với mục tiêu chính sách “trở lại” Đông Nam Á của Mỹ. Mianma có tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí chiến lược rất quan trọng. Lấy việc Obama tham dự Hội nghị Cấp cao Đông Á làm tiêu chí, có thể thấy chiến lược “trở lại” Đông Nam Á của Mỹ rõ ràng đang được thực thi. Ba là nâng cao quan hệ Mỹ-ASEAN, tăng cường sức ảnh hưởng của Mỹ đối với ASEAN, cân bằng sức ảnh hưởng của Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản tại khu vực này, để cho Mỹ có được quyền chủ động nhiều hơn trong bố cục lực lượng tại Đông Á. Trong chuyến thăm Mianma hồi cuối năm ngoái, Obama đã hứa sẽ cung cấp viện trợ trị giá 170 triệu USD cho Mianma trong vòng 2 năm, song con số này không thể so sánh nổi với những lợi ích kinh tế to lớn mà Trung Quốc mang lại cho Mianma trong nhiều năm qua. Trung Quốc là nguồn vốn nước ngoài chủ yếu của Mianma, đồng thời cũng có ưu thế địa lý khi là nước láng giềng có đường biên giới chung dài với Mianma, quan chức Mỹ từng thừa nhận rằng Bắc Kinh đầu tư vào Mianma hàng tỷ USD, phía Mỹ không thể sánh được với Trung Quốc trong lĩnh vực này. Do đó, các quan chức Mianma chỉ hy vọng duy trì được sự cân bằng giữa Mỹ vàTrung Quốc, sẽ không mạo hiểm trở thành công cụ của phương Tây mà mất đi lợi ích kinh tế to lớn từ Trung Quốc. Một cựu quan chức cấp cao Mỹ nói rằng “họ (Mianma) biết rằng bản thân cần phải tốt với cả Mỹ và Trung Quốc”.
Nói tóm lại, sự thay đổi và phát triển tình hình chính trị, kinh tế và ngoại giao của Mianma đã và đang có ảnh hưởng sâu sắc đối với Chính phủ và nhân dân Mianma, đối với Đông Nam Á và cả Trung Quốc. Đối với quan hệ Trung Quốc-Mianma, mặc dù Trung Quốc là láng giềng quan trọng của Mianma, hai bên có điểm chung về lợi ích chiến lược, song cũng cần tỉnh táo nhận thức rằng Mianma ngày nay đã trở thành một trong những chiến trường chính của cuộc đọ sức giữa các nước lớn. Tình hình chính trị Mianma thay đổi, xung đột sắc tộc leo thang, các vụ tấn công vào đầu tư của Trung Quốc xảy ra liên tục, nhất là sự điều chỉnh quan hệ với Mianma của Mỹ, chắc chắn sẽ làm gia tăng tính phức tạp và không xác định của Mianma, những điều này tạo ra thách thức đối với quan hệ Trung Quốc-Mianma. Cùng với sự trở lại của Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ, ưu thế truyền thống của Trung Quốc tại Mianma đang ngày càng giảm đi, nếu không tích cực hành động, Trung Quốc có thể bị gạt ra ngoài lề. Chỉ có làm tốt khâu chuẩn bị, có phương án dự phòng với các tình huống phức tạp mới, có thể ngăn ngừa hữu hiệu rủi ro và thiệt hại có thể xảy ra.

17. Giải mã giấc mơ phục hưng Trung quốc của Ông Tạp Cận Bình

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Năm, ngày 21/2/2013
TTXVN (Hồng Công 15/2)
Từ lâu nay, nhiu nước vn tỏ ra lo ngại về một Trung Quc đang trỗi dậy. Trong bối cảnh ấy, giới lãnh đạo Trung Quốc cũng ngày càng nhắc nhiều đến cái gọi là “giấc mơ Trung Quốc” và “sự phục hưng Trung Quốc.Báo Bưu Điện Hoa Nam Buổi Sáng (Hồng Công) số ra ngày 6/2 vừa đăng bài viết “Giấc mơ phục hưng Trung Quốc của Tập Cận Bình là gì? ” của tác giả Cary Huang, trong đó phần nào giải mã “giấc mơ Trung Quốc ” cũng như “sự phục hưng Trung Quốc. Dưới đây là nội dung bài viết:
Mỗi nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc đều có một cụm từ ưa thích đi kèm. Những cụm từ này thường được coi là thứ xác định sự cai trị và những nỗ lực của họ nhằm để lại một “chương vẻ vang” trong lịch sử.
Cựu Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã có “Thuyết ba đại diện” và “xã hội tương đối hài hòa”; Chủ tịch Hồ Cẩm Đào có “xã hội hài hòa” và “khái niệm phát triển khoa học”; và Chủ tịch tương lai Tập Cận Bình, chỉ ít tuần sau khi được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã đưa ra “giấc mơ Trung Quốc”, và “phục hưng Trung Quốc”.
Trong chuyến thăm đến một cuộc triển lãm ở thủ đô Bắc Kinh ngày 29/11/2012, tân Tổng Bí thư Tập Cận Bình đã lần đầu tiến đưa ra tầm nhìn của nhà lãnh đạo này trong những thập kỷ tới bằng cách nói rằng “thực hiện được việc phục hưng đất nước Trung Quốc là giấc mơ lớn nhất của dân tộc Trung Quốc trong lịch sử hiện đại”.
Kể từ khi đó, ông Tập Cận Bình đã vài lần nói về giấc mơ Trung Quốc và sự phục hưng Trung Quốc. Những cụm từ này đã đọng lại trong đầu các quan chức, giới truyền thông và hàng triệu người sử dụng Internet. Tổng Bí thư Tập Cận Bình đã nói rằng Trung Quốc “đang tiến gần hơn đến mục tiêu thực hiện được việc trẻ hóa hơn nữa đất nước Trung Quốc”. Tuy nhiên, điều chưa được rõ ràng lắm là Tổng Bí thư Tập Cận Bình xác định giấc mơ Trung Quốc và sự phục hưng Trung Quốc như thế nào.
Ngay cả trước Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc, rất nhiều người kỳ vọng rằng ông Tập Cận Bình – con trai của nhà lãnh đạo cách mạng lão thành Trung Quốc, cố Phó Thủ tướng Tập Trọng Huân, một người đã giúp giám sát việc chuyển đổi kinh tế thời kỳ hậu Mao Trạch Đông ở Trung Quốc – có thể đem đến những thay đổi cho đất nước Trung Quốc, một đất nước hiện đang đối mặt với những thách thức chưa từng thấy, trong việc thực hiện giấc mơ hiện đại hóa của nước này.
Nhiều người tin rằng nhà lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản và đất nước Trung Quốc đang tìm cách huy động sự ủng hộ trong nước đối với chương trình nghị sự tiếp tục cải cách và mở cửa của ông bằng cách truyền cảm hứng cho nhân dân về một “Giấc mơ Trung Quốc” – nhan đề một vở kịch năm 1987 nói về giấc mơ thành công ở Mỹ của một cặp vợ chồng người Trung Quốc.
Giáo sư Tiến sĩ Lưu Khang, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Đại học Duke (Mỹ) nhận định rằng “điều đó là nhằm phục vụ cho mục tiêu kích động sự ủng hộ của người dân và tập hợp công chúng xung quanh chương trình nghị sự kinh tế và chính trị của chính quyền mới .
Trong khi đó, ông Trịnh Tất Kiên, một chuyên gia lý luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc và là cựu Phó Hiệu trưởng trường Đảng Trung ương Trung Quốc nói rằng “giấc mơ Trung Quốc nói về việc giải quyết các vấn đề của Trung Quốc”.
Ông Kerry Brown, một Giáo sư chuyên về chính trị Trung Quốc, người hiện đang giữ chức Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc tại Đại học Xítni (ốxtrâylia) cho biết, ông thấy rằng sự phục hưng Trung Quốc “chủ yếu là trong bối cảnh một sự trỗi dậy hòa bình, và Trung Quốc trở lại địa vị mà nước này đã từng có trước khi bắt đầu thời kỳ hiện đại”.
Một số người đã diễn giải kế hoạch thực hiện giấc mơ Trung Quốc là một lời kêu gọi thực hiện một chương trình đầy tham vọng được Đại hội 18 đặt ra, để thực hiện các mục tiêu “hoàn thành việc xây dựng một xã hội tương đối thịnh vượng khi Đảng Cộng sản Trung Quốc kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 vào năm 2012, và việc xây dựng một đất nước xã hội chủ nghĩa thịnh vượng, hùng mạnh, dân chủ, văn minh tiến bộ, hài hòa và hiện đại khi Trung Quốc kỷ niệm 100 năm thành lập nước CHND Trung Hoa vào năm 2049”.
Ông Steve Tsang, Giám đốc Viện Nghiên cứu Chính sách Trung Quốc của trường Đại học Nottingham (Anh), thì nói rằng hiện vẫn chưa rõ giấc mơ Trung Quốc của ông Tập Cận Bình “được tái tạo” như thế nào trong việc phục hưng Trung Quốc.
Ngay sau khi Tổng Bí thư Tập Cận Bình đưa ra những phát biểu về giấc mơ Trung Quốc và sự phục hưng Trung Quốc, nhiều người sử dụng Internet đã bắt đầu so sánh giấc mơ Trung Quốc với giấc mơ Mỹ – bao gồm một loạt ý tưởng, trong đó có cơ hội làm giàu và thành công, cùng một sự chuyển đổi xã hội theo hướng tiến bộ đạt được thông qua làm việc chăm chỉ. Giống như giấc mơ Mỹ, sự lớn mạnh của nền kinh tế Trung Quốc trong 3 thập kỷ vừa qua cho phép một tầng lớp trung lưu mới mơ về những biểu tượng của sự thành công và sung túc là mua sắm quần áo, nhà cửa, đồ gia dụng, ô tô, máy vi tính và điện thoại di động.
Tuy nhiên, đối với những người đầu tiên di cư đến Mỹ trên con tàu mang tên “Hoa tháng 5” vào năm 1620, giấc mơ Mỹ được bắt đầu bằng cuộc hành trình kéo dài tới một thế giới mới dọc theo đại dương, nơi họ có thể thoát khỏi sự ngược đãi tôn giáo. Tinh thần này đã được chính thức hóa trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ khoảng 1,5 thế kỷ sau đó, một văn kiện tuyên bố rằng tất cả mọi người đều bình đẳng và có những quyền lợi không thể thay đổi được.
Nhà sử học James Truslow Adams đã truyền bá cụm từ “giấc mơ Mỹ” trong cuốn sách xuất bản năm 1931 của ông, cuốn sách với nhan đề “Thiên sử thi Mỹ” (The Epic of America). Trong cuốn sách này, James Truslow Adams viết: “Đó không chỉ là giấc, mơ về những chiếc xe ô tô và những khoản lương cao, mà là một giấc mơ về một trật tự xã hội mà ở đó mỗi người đàn ông và phụ nữ sẽ có thể được những người khác công nhận họ là gì, cho dù họ được sinh ra ở đâu và có vị trí như thế nào.
Mục sư Martin Luther King Junior đã đưa những gì mà James Traslow Adams viết vào phong trào vận động các quyền dân sự thông qua bài phát biểu nổi tiếng “Tôi có một giấc mơ” của ông, trong đó người mục sư này coi việc đề cao nhân cách của một con người là ý tưởng tối cao về giấc mơ Mỹ.
Giấc mơ Trung Quốc như nó hiện đang được thảo luận, là một tầm nhìn xa hơn nữa về vị trí mà nền văn minh tồn tại lâu nhất trên thế giới có được trong thế giới hiện nay, cũng như trong việc theo đuổi một phiên bản Trung Quốc đặc biệt, một Trung Quốc sẽ đưa đất nước và người dân nước họ thực hiện vận mệnh chung.
Giáo sư Kerry Brown nói rằng giấc mơ Trung Quốc là sự bắt chước giấc mơ Mỹ, trong đó giấc mơ Trung Quốc được thực hiện như một đối trọng của các loại hình văn hóa. Tuy nhiên, Giáo sư Brown nói rằng tầm nhìn này bị ảnh hưởng bởi một cảm giác rằng một ban lãnh đạo chính trị mới của Trung Quốc thiếu sự ủng hộ của công chúng, có ít biện pháp để giành được lòng dân ngoài việc đưa ra những lời kêu gọi mang tính dân tộc chủ nghĩa và làm cho họ giàu có hơn. Giáo sư Brown nhấn mạnh: “Đối với những trái tim và khối óc bị nhồi nhét, Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn khiến cho người dân lạnh nhạt với họ”.
Trong khi đó, chuyên gia Steve Tsang cho rằng “giấc mơ Trung Quốc không phải là giấc mơ mà người dân Trung Quốc được tự do nói đến, mà nó là giấc mơ Trung Quốc được Tập Cận Bình và Đảng Cộng sản Trung Quốc nói đến, với tư cách đại diện cho họ”.
Ở Trung Quốc Đại lục, ý tưởng về một sự phục hưng và cái mà nó sẽ đại diện cũng đã được thảo luận rộng rãi trên mạng Internet, với nhiều đề xuất trên nhiều khía cạnh, từ “sự công bằng xã hội,” “xã hội tư pháp”, “ít tham nhũng” và “một cuộc sống tốt hơn” đến “tự do và dân chủ”.
Các chuyên gia lịch sử chỉ ra nhiều giai đoạn họ cho là đã đại diện cho một sự phục hưng Trung Quốc, như đời nhà Tống (960-1279), cùng với đời nhà Đường (618-907) và đời nhà Hán (206 trước công nguyên – 220 sau Công nguyên). Tất cả đều là những giai đoạn tăng trưởng kinh tế, đạt được nhiều thành tựu nghệ thuật và có những tiến bộ khoa học lớn.
Ý tưởng về một sự phục hưng Trung Quốc hiện đại đã được truyền bá bởi các nhà lãnh đạo chính trị và trí thức trong suốt thế kỷ trước. Một nhóm giáo sư thuộc trường Đại học Bắc Kinh thậm chí cũng đã đặt cái tên “Phục hưng” cho một tạp chí.
Phong trào Ngũ Tứ (4/5), cuộc khởi nghĩa năm 1919 thể hiện chủ nghĩa dân tộc và lòng tự tôn văn hóa của người Trung Quốc, cũng được nhà tri thức nổi tiếng Hồ Thích mô tả là sự phục hưng Trung Quốc do phong trào này có những nét tương đồng với Thời kỳ Khai sáng của châu Âu (phong trào văn hóa của các tri thức ở các thế kỷ 17 và 18) – một thời kỳ cũng được mô tả trong tiếng Trung Quốc là một sự phục hưng.
Phong trào Ngũ Tứ hoạt động dựa trên những tư tưởng của phương Tây về dân chủ và khoa học, trong khi Thời kỳ Khai Sáng thúc đẩy khái niệm “chủ nghĩa đổi mới được đặt trong trung tâm của chủ nghĩa cá nhân, các quyền lợi và khoa học, một di sản phương Tây độc nhất vô nhị”.
Gần như toàn bộ các nền văn minh phi phương Tây, trong đó có Trung Quốc, đã nỗ lực “nhập khẩu” nhũng giá trị đổi mới chính trị, xã hội và kinh tế để xây dựng lại những nền văn hóa riêng của họ nhằm đạt được sự hiện đại hóa. Tuy nhiên, trong khi các chuyên gia lịch sử nhất trí rằng nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau của Trung Quốc xứng đáng được gọi là “sự phục hưng”, họ cũng nói rằng tất cả các giai đoạn này đều có chung một nhược điểm, đó là sự thiếu vắng ý thức công nhận sứ mệnh lịch sử của chúng.
Cuộc cách mạng của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng nhằm đạt được “sự phục hưng Trung Quốc”, hứa hẹn “một nước Trung Quốc mới thịnh vượng, tự do và dân chủ”.
Trong khi sự thịnh vượng cuối cùng cũng đến sau các cuộc cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình, dân chủ và tự do thì vẫn chưa thấy đâu. Nhiều nhà quan sát cảm thấy Tổng Bí thư Tập Cận Bình đang bám sâu vào nguồn cảm hứng dân tộc chủ nghĩa hơn so với những người tiền nhiệm gần đây, có lẽ do nhận thức rằng tư tưởng truyền thống cộng sản sẽ không còn nhiều hấp dẫn được lâu nữa.
Orville Schell, một chuyên gia phân tích chính trị kỳ cựu có nhiều năm theo dõi chính trường Trung Quốc đồng thời là đồng tác giả một cuốn sách về cuộc tìm kiếm sự giàu có và sức mạnh của nước Trung Quốc hiện đại, nhận xét: “Khi ban lãnh đạo mới của Trung Quốc bắt đầu viết kịch bản cho hành động tiếp theo của cuộc cải cách đất nước họ, nó có vẻ cứ như thế là Tập Cận Bình thấy chủ nghĩa dân tộc ỉà một thành phần không thể thiếu trong nỗ lực của ông nhằm khích động người dân Trung Quốc”,
Các nhà lãnh đạo biết rằng chủ nghĩa dân tộc nhằm vào các cường quốc bên ngoài là một khuynh hướng ngầm mạnh mẽ trong xã hội Trung Quốc. Chỉ ít tuần trước khi ông Tập Cận Bình lên làm Tổng Bí thư, các cuộc biểu tình chống Nhật Bản đã nổ ra mạnh mẽ tại nhiều thành phố của Trung Quốc xung quanh cuộc tranh chấp lãnh hải giữa hai nước ở quần đảo Điếu Ngư/Senkaku trên biển Hoa Đông.
Theo các chuyên gia phân tích, chính sách đổi mới của ông Tập Cận Bình có thể pha trộn những chính sách kinh tế táo bạo với các chiến dịch chống tham nhũng, cùng một chiến lược xây dựng quân sự hùng mạnh và chính sách ngoại giao “cơ bắp.” Sự kết hợp này gợi nhớ lại Phong trào Tự Cường của Trung Quốc cuối thế kỷ 19, khi một số nhà lãnh đạo chính trị và tri thức theo đường lối cải cách tìm kiếm các cuộc cải cách để khôi phục một nhà Thanh (1644-1911) đang suy yếu và liên tục bị quấy rối bởi các cường quốc phương Tây và Nhật Bản.
Tuy nhiên, ông Gregory Kulacki, Giám đốc quản lý dự án Trung Quốc đồng thời là một chuyên gia phân tích cao cấp của Liên đoàn Các nhà Khoa học, cho biết ông không tin rằng những phát biểu của Tổng Bí thư Tập Cận Bình về giấc mơ Trung Quốc và sự phục hưng Trung Quốc thể hiện một sự thay đổi mạnh mẽ so với thực tiễn trước đây. Ông Gregory Kulacki, một người đã sống và làm việc tại Trung Quốc trong hơn hai thập kỷ, nhấn mạnh: “Những người lo ngại về những từ ngữ được ông Tập Cận Bình lựa chọn nên xem bộ phim tài liệu gồm 6 tập của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV). Bộ phim tài liệu này nói về lịch sử quen thuộc của một nền văn minh cổ xưa, đổ vỡ vì sự tan rã của văn hóa truyền thống và bị những kẻ theo chủ nghĩa đế quốc phương Tây lợi dụng, và nền văn minh này hiện đang trong quá trình khôi phục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Bác bỏ những cảnh báo cho rằng phát biểu của Tổng Bí thư Tập Cận Bình về giấc mơ Trung Quốc và sự phục hưng Trung Quốc là nhằm mục đích đưa nước CHND Trung Hoa sang một thời kỳ phiên bản của Đế chế thứ Ba của Đức ở thế kỷ 21 hoặc thời kỳ Minh Trị trước đây ở Nhật Bản, chuyên gia Kulacki cho rằng những mục đích của sự phục hưng Trung Quốc là vừa phải.
Trong khi đó, Giáo sư Kerry Brown cảnh báo những phát biểu nói trên của ông Tập Cận Bình có nguy cơ đưa chủ nghĩa lý tưởng phi thực tế vào những biện pháp mà “khái niệm phát triển khoa học” và xã hội hài hòa” của Chủ tịch Hồ cẩm Đào không bao giờ thực hiện.
Chuyên gia Steve Tsang thì nói rằng quá trình phục hưng Trung Quốc có nhiều điều cần làm với việc thúc đẩy vị thế của Trung Quốc trên thế giới hơn là bất kỳ ý tưởng nào về giải phóng tư tưởng của người dân. Ông Steve Tsang cho rằng sự phục hưng của Trung Quốc là việc thúc đẩy sự tái xuất của Trung Quốc, một đất nước có một nền văn minh lớn và khả năng giành được sự kính trọng khác với những cách mà đến nay Mỹ đã làm. Ông Steve Tsang nhấn mạnh: “Không có gì sai trái trong việc mong muốn Trung Quốc trở nên vĩ đại hơn. Tuy nhiên, phần còn lại của thế giới phải không cảm thấy bất lợi, đặc biệt là đối với các nước láng giềng của Trung Quốc, trong việc chứng kiến một tân Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, người muốn được lưu danh,, là nhà lãnh đạo lấy lại sự huy hoàng của Trung Quốc trong quá khứ, dù cho sự khoa trương của Trung Quốc chủ yếu là kết quả của việc củng cố quyền lãnh đạo. Nói tóm lại là chúng ta sẽ phải quen với một Trung Quốc ngày càng quyết liệt hơn dưới sự lãnh đạo của ông Tập Cận Bình”.

16. Chuyên gia Trung Quốc bàn về tranh chấp biển đảo trong 10 năm tới

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Năm, ngày 21/2/2013
TTXVN (Bắc Kinh 17/2)
Vào dịp năm mới trong tình hình mới, tờ “Quc tế tiên khu đạo báo”, ấn phẩm của Tân Hoa xã, mới đây đăng ý kiến bàn luận của các chuyên gia Trung Quốc về vấn đề tranh chấp biển đảo của Trung Quốc với các nước khác trong 10 năm tới.
I- Ngô Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện nghiên cứu Nam Hải Trung Quc: Cần phải đốì phó tranh chấp Nam Hải một cách thỏa đáng
Năm 2012 là năm có nhiều sự việc xảy ra ở Nam Hải (Biển Đông), trong 10 năm tới đây xu hướng “năm nhiều chuyện, biển đảo nhiều chuyện” như vậy có thể sẽ còn tiếp diễn. Nhìn chung tỉnh hình Nam Hải hiện nay thể hiện 5 đặc điểm rõ rệt:
Thứ nhất, tranh chấp Nam Hải đang chuyển biến trạng thái từ tranh chấp ngẫu nhiên xảy ra sang tranh chấp dễ xảy ra, nhiều tranh chấp xảy ra và tranh chấp thường xuyên xảy ra.
Thứ hai, tình hình Nam Hải diễn biến từ chỗ có thể kiểm soát trên tổng thể sang có giới hạn, đặc biệt là biển số trong tình hình Nam Hải gia tăng rõ rệt, đã có biểu hiện ban đầu chuyển từ trạng thái có trật tự sang không có trật tự theo đà tiếp tục gia tăng các nhân tố Mỹ và nhân tố ASEAN trong vấn đề này.
Thứ ba, mỗi nước tranh chấp có một chủ kiến riêng, xu hướng lấy “ý nguyện riêng” thay thế “ý nguyện chung” dần dần tăng lên, phương thức kiểm soát khủng hoảng Nam Hải bắt đầu phát triển theo hướng đơn phương thiếu lành mạnh rất rõ.
Thứ tư, cạnh tranh địa chính trị và chạy đua vũ trang ở Nam Hải tăng lên, cuộc chơi chiến lược nước lớn và chiến thuật nước nhỏ đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau, mâu thuẫn lợi ích cũng chằng chéo nhau phức tạp khiến lo ngại về nguy cơ xảy ra va chạm, xung đột ở khu vực Nam Hải tăng lên.
Thứ năm, thảo luận về chiến tranh liên quan đến các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, pháp lý trong vấn đề Nam Hải trở nên thường xuyên hơn, không gian để Trung Quốc xử lý ổn thỏa vấn đề tranh chấp Nam Hải hẹp hơn, tính chất phức tạp và mức độ khó khăn của Trung Quốc tiếp tục tăng lên.
Cùng với việc Mỹ củng cố chiến lược châu Á-Thái Bình Dương cũng như ảnh hưởng tác động lẫn nhau giữa các yếu tố liên quan đến các nước tranh chấp trong khu vực và những nước không tranh chấp ngoài khu vực, trong thời gian tới, vấn đề Nam Hải sẽ diễn biến theo chiều hướng nào? Để tìm ra câu trả lời, có thể nhận định về 5 xu hướng cụ thể liên quan đến các khả năng như sau:
Xu hướng thứ nhất: Hình thức biểu hiện tranh chấp diễn biến từ chủ trương sang quản lý trên thực tế. Vấn đề tranh chấp Nam Hải đã chuyển biến từ đấu tranh ngoại giao đơn thuần sang đấu sức toàn diện liên quan đến các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, pháp lý, tài nguyên, quân sự….
Xu hướng thứ hai: Sự đa nguyên hóa, quốc tế hóa và phức tạp hóa trong vấn đề Nam Hải tiếp tục thể hiện rõ, áp lực giải quyết theo cơ chế đa phương đối với Trung Quốc ngày càng lớn. Một số nước ở Đông Nam Á là bên tham gia tranh chấp mưu tìm kiếm phương pháp “liên kết đối phó với Trung Quốc” và “lôi kéo Mỹ kiềm chế Trung Quốc”, Mỹ từ chỗ “can thiệp có giới hạn” chuyển sang “lớn tiếng can thiệp”, một số nước lớn ngoài khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ đi theo Mỹ hoặc tán thành việc điều chỉnh chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ, thêm vào đó, các công ty dầu khí xuyên quốc gia theo đuổi các hoạt động khai thác dầu khí ở Nam Hải đã trở thành nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến xu hướng quốc tế hóa vấn đề Nam Hải.
Xu hướng thứ ba: Vấn đề Nam Hải sẽ trở thành điểm nóng mới trong đấu tranh ngoại giao pháp lý đa phương của Trung Quốc. Thế bị động của Trung Quốc trước dư luận quốc tế trong vấn đề Nam Hải về cơ bản khó có thể xoay chuyển trong thời gian ngắn. Hiện nay trong cộng đồng quốc tế đã hình thành cách nói như một dạng thức cố định, đó là “cứ nói về châu Á- Thái Bình Dương thì phải nói đến Trung Quốc, bàn về an ninh phải đề cập đến Nam Hải”. Trong điều kiện quốc tế “kéo lệch giá đỡ” như vậy, Trung Quốc thường trở thành đối tượng chỉ trích và bị công kích.
Xu hướng thứ tư: Trong khi Mỹ tăng cường bố trí quân sự ở địa thế tiền duyên của khu vực Nam Hải và chạy đua vũ trang ở Nam Hải tăng lên, mục đích của Trung Quốc hy vọng bảo vệ hòa bình ổn định khu vực Nam Hải thông qua tự kiềm chế sẽ ngày càng khó có thể thực hiện được.
Xu hướng thứ năm: Địa vị của vấn đề Nam Hải trong ngoại giao tổng thể của Trung Quốc không ngừng tăng lên, đó là vấn đề ngoại giao lớn mà Trung Quốc tới đây sẽ phải đối phó lâu dài.
Để giữ được thời cơ chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển, bảo vệ ổn định khu vực xung quanh và bảo vệ lợi ích của Trung Quốc ở Nam Hải một cách tối đa, trong 10 năm tới Trung Quốc sẽ ở vào thời kỳ then chốt có thể làm được nhiều việc, đồng thời phải xử lý tốt bốn mâu thuẫn dưới đây:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa việc Mỹ thực thi chiến lược “tái cân bằng châu Á-Thái Bình Dương” và việc Trung Quốc tranh thủ quyền lợi trên biên hướng xuống phía Nam. Bản chất tranh giành giữa Trung Quốc và Mỹ ở Nam Hải là “tranh chấp quyền lợi trên biển”, trong khi đó quyền lợi trên biển tiềm tàng chuỵển hóa thành quyền lợi trên biển thực sự, là kiểm soát tuyến đường vận chuyển thương mại trên biển, đây sẽ là chiến trường chính trong cuộc đấu tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ trong thời gian tới.
Thứ hai, mâu thuẫn trong xử lý quan hệ nước lớn và quan hệ với nước xung quanh trong vấn đề Nam Hải. Đối với ngoại giao tổng thể của Trung Quốc, nước lớn là mấu chốt, láng giềng là quan trọng hàng đầu. Quan hệ Trung-Mỹ là mối quan hệ song phương quan trọng nhất, trong khi quan hệ Trung Quốc-ASEAN là quan hệ láng giềng quan trọng nhất của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ phải điều hòa quan hệ thế nào trong vấn đề Nam Hải, xử lý thỏa đáng giữa quan hệ với các nước xung quanh và quan hệ nước lớn, đó là cặp mâu thuẫn rất bức xúc và cũng rất vướng mắc.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa việc bảo vệ quyền và lợi ích ở Nam Hải với việc giữ gìn ổn định quan hệ song phương với nước có tranh chấp với Trung Quốc ở Nam Hải. Hiện nay ý thức bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc ở Nam Hải đã mạnh hơn, biện pháp bảo vệ chủ quyền ngày càng đổi mới, khả năng bảo vệ chủ quyền cũng không ngừng tăng lên, nhưng việc bảo vệ quyền lợi ở Nam Hải tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định trong quan hệ song phương với nước tranh chấp. Làm thế nào để có thể xử lý tốt và thỏa đáng cặp mâu thuẫn này, việc đó sẽ liên quan đến tình hình ổn định và thịnh trị lâu bền của Trung Quốc ở khu vực Nam Hải.
Thứ tư, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa dân tộc ở trong nước đang ngày càng có khuynh hướng mạnh lên với chủ trương tiếp tục giữ phương châm chiến lược “giấu mình chờ thời”. Cùng với ảnh hưởng của các nhân tố như thực lực tổng hợp của Trung Quốc tăng lên nhanh chóng, tranh chấp chủ quyền biển gay gắt hơn…, chủ nghĩa dân tộc ở trong nước cũng có khuynh hướng ngày càng mạnh lên, không gian để chính phủ lựa chọn quyết sách và hoạch định sách lược bị thu hẹp hơn. Đồng thời Trung Quốc đang trong thời kỳ phát triển đặc biệt “sẽ mạnh nhưng chưa mạnh”, sự hoài nghi của các nước trong và ngoài khu vực về chiến lược của Trung Quốc tăng lên. Trong bối cảnh đó, việc giữ được tự kiềm chế một cách tất yếu và có lý trí trong vấn đề lãnh thổ ngoài biên cương sẽ phù hợp với đòi hỏi lợi ích chiến lược của quốc gia. Làm thế nào để giữ được trạng thái cân bằng chiến lược, đó sẽ là một trong những vấn đề quan trọng mà thế hệ lãnh đạo mới ở Trung Quốc phải đối mặt.
Nói tóm lại, cơ hội phát triển hòa bình của Trung Quốc vẫn còn hy vọng. Vấn đề mấu chốt ở chỗ tình hình láng giềng không được loạn, nếu không thì Trung Quốc sẽ khó lòng duy trì. Trung Quốc phải xử lý thỏa đáng bốn cặp quan hệ lớn với các nước xung quanh như Trung – Nga, Trung Quốc – ASEAN, Trung – Nhật, Trung – Ấn, đồng thời phải kiểm soát tốt những xung đột tiềm tàng và tranh chấp hiện thực ở bốn hướng trên biển là Hoàng Hải, Đông Hải (Hoa Đông), Eo biển Đài Loan và Nam Hải (Biển Đông)
.
II- Diệp Hải Lâm, Chủ nhiệm Ban biên tập “Nghiên cứu Nam Á”, Viện chiến lược châu Á-Thái Bình Dương và toàn cầu, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc: Bảo vệ quyền và lợi ích biển, quyết tâm quan trọng hơn biện pháp
Năm 2012 nếu không có vấn đề đảo Hoàng Nham và đảo Điếu Ngư thì có lẽ chúng ta đã không quan tâm cao độ đến vấn đề biển đảo như vậy. Đó đều là nhũng vấn đề đã tồn tại từ rất nhiều năm trước đây, nay trở lại gay gắt rõ rệt.
Theo suy nghĩ của cá nhân tác giả, chúng ta không những tranh đảo mà còn tranh cả vị thế. Vấn đề chúng ta phải xem xét là, trong quá trình xử lý tranh chấp ở cá biệt các đảo, chúng ta phải tạo ra được cơ sở, đem lại điều kiện phát triển biển, thậm chí cho tình hình an ninh của cả khu vực Tây Thái Bình Dương trong tương lai.
Sau hơn nửa năm diễn ra cuộc đấu tranh, về cơ bản chúngta có thể khái quát đôi chút về cái gọi là mô hình đảo Hoàng Nham: Trung Quốc lợi dụng, thậm chí còn thúc đẩy để gây ra tranh chấp trên biển mang tính ngẫu nhiên, mượn thời cơ đó để mở rộng xung đột, chủ yếu thông qua áp lực kinh tế, kèm theo nữa là răn đe quân sự, từng bước tạo nên tình thế có lợi cho Trung Quốc ở vùng biển tranh chấp, mở rộng sự hiện diện tương ứng của lực lượng trên biển của Trung Quốc, cho đến khi kiểm soát được vùng biển tranh chấp trên thực tế. Về khuôn mẫu ở đảo Hoàng Nham như thế, nếu nói đó là cách tự Trung Quốc nghĩ ra thì nên để cho các nước khác tổng kết, như vậy sẽ tốt hơn.
Sự việc ở đây đã làm phát sinh hai vấn đề. Vấn đề thứ nhất, cho đến nay, trong vấn đề đảo Hoàng Nham và đảo Điếu Ngư, chúng ta cuối cùng là bị buộc phải đối phó như vậy hay là chủ tâm gây sự? Cách lý giải ở trong và ngoài nước hoàn toàn khác nhau. Chúng ta ở trong nước trước sau vẫn nhấn mạnh với dân chúng là chúng ta bị bắt buộc phải làm như vậy, chúng ta hy vọng giữ hòa bình và ổn định. Nhưng khi đi ra khỏi đất nước mình, sẽ thấy mọi nhà quan sát và phân tích hoàn toàn không nghĩ như vậy. Cái gọi là “nước nhỏ ức hiếp nước lớn”, quan điểm như vậy ở trong nước mọi người đều chấp nhận được, nhưng ở nước ngoài rất khó để có thể làm cho nước khác chấp nhận được rằng Philippin là nước ăn hiếp Trung Quốc. Xét theo nhận thức thông thường thì nước nhỏ không thể ăn hiếp được nước lớn. Vậy do đâu lại nảy sinh vấn đề?
Trong 10 năm qua hành vi của Trung Quốc đã đi ngược lại với nhận thức thông thường, nghĩa là Trung Quốc có sức mạnh nhưng không sử dụng đến, gây cho nước khác cách hiểu rằng Trung Quốc không có hành động phải sử dụng đến sức mạnh. Cuối cùng, nếu Trung Quốc sử dụng đến sức mạnh sẽ bị coi là “Trung Quốc phản ứng quá mức”.
Vấn đề thứ hai là phản úng quá mức hay chưa đủ? Xét theo cách nhìn nhận của các nước ngoài Trung Quốc thì hành vi của Trung Quốc ở Đông Hải và Nam Hải (Biển Hoa Đông và Biển Đông) là quá mức. Nếu xét theo cách nhìn nhận ở trong nước thì Trung Quốc làm như vậy là vẫn chưa đủ so với mục đích. Xét trên góc độ quốc tế thì Chính phủ Trung Quốc có thể nghĩ rằng chúng ta phải quản lý khủng hoảng, còn với cách nhìn nhận ở trong nước thì mục tiêu đề ra vẫn chưa thể nào bàn đến được quản lý khủng hoảng. Dân chúng trong nước đòi hỏi phải quản lý được 75% vấn đề này, trên thực tế Chính phủ đã làm được 50%, nhưng 50% đã bị nước ngoài coi là quá mức, họ chỉ mong muốn Trung Quốc làm đến 25%. Giữa hai cách nghĩ như vậy về cơ bản chưa có biện pháp nào để thiết lập một trạng thái thỏa hiệp. Tình hình như vậy là hết sức hạn chế và bị trói buộc, gây rất nhiều khó khăn cho Trung Quốc trong việc thực thi chiến lược biển trong tương lai. Từ đảo Hoàng Nham đến đảo Điếu Ngư, tình hình như vậy đã gây ảnh hưởng to lớn đối với hành vi và tâm lý của các nước cạnh Nam Hải cũng như các nước láng giềng Trung Quốc. Có thể khái quát thành một câu là: Tính chất không xác định từ các nước đó đối với Trung Quốc đang ngày càng tăng lên rõ rệt, họ nghi ngờ hành vi của ‘”Trung Quốc hơn. Đó là vấn đề mà Trung Quốc cần phải xem xét. Chúng ta không thể xây dựng được một phương pháp dự báo tâm lý nào thật chuẩn xác.
Trong thời gian tới, vấn đề chủ yếu trong việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích của Trung Quốc ở Nam Hải và Đông Hải không phải là đề xuất một chính sách mới, mà phải giữ cho cách làm có hiệu quả tiếp tục được duy trì. Trong vấn đề này, so với quyết tâm thì biện pháp chỉ là thứ yếu, quyết tâm là rất quan trọng, phải chịu đựng được giá phải trả.
Cuộc đấu bảo vệ quyền và lợi ích trên biển có thể gặp một số rủi ro
1/ Rủi ro trong kiểm soát mục tiêu và biện pháp: Trung Quốc phải bảo vệ quyền và lợi ích trên biển như thế nào để khỏi gây cho nước khác ấn tượng rằng Trung Quốc tham lam vô độ, được đảo này lại muốn đảo khác. Như vậy không có nghĩa là nói Trung Quốc cái gì cũng muốn, bản thân mục tiêu như vậy đã không chấp nhận được, huống hồ trong điều kiện Trung Quốc chưa thể đạt được thì không nên bàn quá nhiều đến việc này. Trung Quốc phải tránh rủi ro này, đó là rủi ro liên quan đến một vấn đề lớn của Trung Quốc trong tương lai, bị người ta xem như là một mối đe dọa hay cơ hội trong toàn bộ kết cục quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Bắc Á.
2/ Rủi ro về thói quen tư duy: Chúng ta có một thói quen tư duy là bất kể vấn đề do ai gây ra, thì luôn vì đại cục mà phải giải quyết. Trong quan hệ quốc tế, trừ phi anh có ý định sử dụng vũ lực, nếu không thì người giải quyết sẽ phải gánh chịu, phải trả giá lớn hơn, điều đó không có gì phải nghi ngờ. Vì thế Trung Quốc cũng đứng trước quá trình chuyển đổi phương thức tư duy, không phải cứ đóng mãi vai trò của người phụ trách giải quyết vấn đề.
3/ Rủi ro về hành động “phi lý tính” của nước bên cạnh: Đối thủ trong cuộc đấu của chúng ta không phải hoàn toàn là có lý tính. Đối với vấn đề biển trong tương lai, chúng ta phải nghĩ đến hậu quả mà Trung Quốc đã tính đến không nhất thiết phải xảy ra, vì đối thủ của Trung Quốc không xem xét vấn đề giống như Trung Quốc. Chúng ta không được lúc nào cũng xem xét vấn đề xuất phát từ lôgích của mình. Tuy nhiên tính chất phi lý tính của đối thủ cũng có thể bị chúng ta lợi dụng. Một ví dụ như Nhật Bản đã huy động 8 máy bay F15 để đối phó với một máy bay hải giám của Trung Quốc, đó hoàn toàn là hành vi phi lý tính, nhưng hành vi như vậy không nhất thiết là có hại đối với Trung Quốc.
4/ Rủi ro chính trị trong nước: Đối với Trung Quốc, vấn đề biển là một vấn đề thuộc công việc nội bộ trong nước, liên quan đến vấn đề mang tính hợp pháp của chính phủ. Trong tương lai, vấn đề then chốt là phải xem xét ý dân, mặc dù không phù hợp với kết cục ngoại giao cơ bản của Trung Quốc hiện nay, nhưng chúng ta vẫn phải tôn trọng ý dân như vậy.
Nói cho cùng, vấn đề biển là rất quan trọng nhưng không phải đánh thắng một trận là có thể kết thúc, mà phải không ngừng biến những thắng lợi nhỏ thành một thắng lợi lớn, cuối cùng tích lũy được một tình thế có lợi. Nếu không làm được như vậy mà chỉ tranh thủ được một chút lợi ích trên một đảo thì như vậy là chưa thể đủ được.

15. Mối quan hệ Mỹ-Trung Quốc-Đài Loan đã đến lúc phải thay đổi

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Sáu, ngày 22/2/2013
TTXVN (Hồng Công 18/2)
Từ lâu, mi quan hệ giữa Mỹ với Trung Quc đã n chứa nhiều vấn đ phức tạp do quan hệ của riêng hai nước này với Đài Loan, hòn đảo tự tách ra và tuyên b độc lập với Trung Quc trong nhiều năm qua. Mạng tin “Thời báo châuÁ trực tuyến” vừa đăng bài viết của Giáo sư BrantlyWomack, chuyên gia về các vấn đề đối ngoại thuộc Đại họcVirginia (Mỹ), trong đó tác giả cho rằng đã đến lúc phải thay đổi mối quan hệ tam giác Mỹ-Trung Quốc-Đài Loan. Dưới đây là nội dung bài viết:
Tương lai của Đài Loan là song hành với Trung Quốc, chứ không phải chống lại Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn chưa có hình ảnh mới nào về mối quan hệ tay ba của Oasinhtơn, Bắc Kinh và Đài Bắc để thay thế cho tam giác an ninh Mỹ-Trung Quốc-Đài Loan được hình thành từ kỷ nguyên Chiến tranh Lạnh.
Đài Loan sẽ không khoác thêm lên mình một phần đồng phục của nước CHND Trung Hoa, cũng không đạt được sự công nhận trên phạm vi toàn cầu là một quốc gia có chủ quyền, và vẫn sẽ có những cuộc thảo luận về lựa chọn tái thống nhất hoặc độc lập của nước này.
Thân phận mơ hồ nhưng không bất ổn của Đài Loan trong vai trò là một phần tự trị của Trung Quốc tạo ra một nền tảng quen thuộc và vững chắc cho các hoạt động của khu vực Đông Á trên toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực sáng tạo và tri thức. Vị trí của Đài Loan nên được coi là một cơ hội. Thay vì coi Đài Loan là một nguy cơ an ninh, Mỹ sẽ sử dụng hòn đảo này như một điểm tương tác trong quan hệ với Đông Á. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải suy nghĩ lại về tam giác quan hệ Mỹ-Trung Quốc-Đài Loan.
Tam giác an ninh Oasinhtơn-Bắc Kinh-Đài Bắc đã trở nên nổi bật trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh như là kết quả của mối quan hệ thù địch không thể hòa giải được giữa nước CHND Trung Hoa (Trung Quốc) với Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và cường quốc quân sự Mỹ.
Những tuyên bố của CHND Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc rằng họ là chính quyền duy nhất của Trung Quốc và cam kết của Mỹ kiềm chế chủ nghĩa Cộng sản đã khiến cho mối quan hệ tay ba này mang đặc trưng không có tranh cãi ngoại giao cho đến khi Thông cáo Thượng Hải 1972 ra đời. Sau khi bình thường hóa quan hệ với nước CHND Trung Hoa, người Mỹ cam kết đảm bảo hòa bình trong các mối quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan, và điều này được soạn thành điều lệ trong Đạo luật quan hệ với Đài Loan 1979, tiếp tục mối quan hệ an ninh với Đài Loan mặc dù Mỹ cũng không công nhận Đài Loan là một quốc gia có chủ quyền.
Mối quan hệ trên trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh là một tam giác an ninh không đối xứng cổ điển. Cường quốc mạnh nhất – Mỹ – một “trục xoay bất đắc dĩ’ bởi vì nước này giành được ít lợi ích, nhưng Oasinhtơn lại giữ vị trí là nước quyết định cuối cùng đối với tình trạng căng thẳng liên tục giữa CHND Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc. Trên thực tế, Mỹ là một nước duy trì hòa bình chứ không phải là kiến tạo hòa bình.
Quốc gia mạnh thứ hai – nước CHND Trung Hoa, trở nên chán nản bởi vì không có sự đe dọa can thiệp nào mà cho rằng họ có thể thành công trong việc giải quyết căng thẳng. Kẻ yếu nhất – Đài Loan, trở nên lo lắng vì họ biết rằng an ninh của họ phụ thuộc vào sự thù địch giữa hai nước còn lại. Đó là một tam giác quan hệ độc nhât vô nhị: Lợi ích của kẻ này phụ thuộc vào sự căng thẳng giữa hai kẻ còn lại. Tam giác này cũng đòi hỏi sự ổn định cơ bản trong việc cân bằng giữa các lực lượng.
Kể từ năm 2008, tam giác an ninh Oasinhtơn-Bắc Kinh-Đài Bắc đã mang tính chất toàn cầu hơn, nhưng về cơ bản trở nên bất ổn định. Mỗi một chân trong mối quan hệ tay ba này đã trở nên phức tạp hơn. Sự thù địch trong mối quan hệ giữa Oasinhtơn và Bắc Kinh đã mang tính chất toàn cầu hơn, nhưng cũng thận trọng hơn bởi vì mỗi nước đều cần nước kia trong nhiều khía cạnh về mặt quản lý toàn cầu.
Trong khi đó, mối quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan đã trở thành một chỗ dựa chính đối với những triển vọng kinh tế của Đài Loan và tránh khủng hoảng, giờ đây nó là điều sống còn đối với sự nghiệp của các nhà lãnh đạo hai bên. Mối quan hệ giữa Mỹ và Đài Loan đã trở nên căng thẳng bởi chính sách “bên miệng hố chiến tranh” thời Trần Thủy Biển làm Tổng thống Đài Loan từ năm 2000 đến năm 2008, và những nghi ngờ hiện nay xuất hiện là do các thương vụ vũ khí vẫn đang diễn ra giữa hai bên.
Trong khi đó, Trung Quốc đã phát triển khả năng quân sự để đáp lại sự hỗ trợ quân sự của Mỹ đối với Đài Loan. Vì vậy, nhiều chuyên gia phân tích người Mỹ coi “vấn đề Đài Loan” là một điểm dễ bùng nổ mang tính chất chiến lược nhất ở châu Á.
Tuy nhiên, đó là một mối quan hệ đặc biệt, trạng thái tâm lý theo định hướng an ninh của tam giác chiến lược này mới là vấn đề, chứ không phải là thực tế của mối quan hệ này. Các mối quan hệ gắn kết hơn giữa Mỹ và Trung Quốc kiềm chế sự phiêu lưu giữa hai bên và điều đó tốt cho Đài Loan. Việc cải thiện các mối quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan cũng mở ra những cơ hội mới cho Mỹ và họ giảm bớt nguy cơ xảy ra các cuộc khủng hoảng.
Mối quan hệ giữa Mỹ và Đài Loan cũng có lợi cho Trung Quốc. Những tập đoàn của Đài Loan như Foxconn đang thuê các công nhân người Trung Quốc để sản xuất các sản phẩm dành cho người Mỹ. Lợi ích chung trong tam giác an ninh này đã trở thành nội dung thực tế của mối quan hệ tương tác tay ba. Hơn nữa, khả năng quân sự “chống xâm nhập khu Vực” của Trung Quốc vẫn cho phép họ khiến Mỹ gặp nguy hiểm. Mối quan hệ quân sự đang bùng nổ giữa Mỹ và Trung Quốc một phần trong thế bế tắc mà ở đó cả hai bên đều có thể bị tổn thương.
Vì vậy, tam giác Oasinhtơn-Bắc Kinh-Đài Bắc cần suy tính lại một cách cơ bản để khiến cho mối quan hệ này phù hợp hơn với những thực tế hiện nay và trong tương lai. Những bất đồng về lợi ích và tính chất dễ bị tổn thương vẫn tồn tại trong mối quan hệ tay ba này. Câu chuyện của Tập đoàn Foxconn đã cho thấy một ví dụ rõ ràng, đó là những thực tiễn lao động của tập đoàn này đã khiến các công nhân Trung Quốc và các nhà thầu Mỹ của họ lo ngại.
Là đối tác gặp nhiều nguy hiểm nhất, Đài Loan có lý do để thận trọng trong việc mở rộng cam kết của họ. Tuy nhiên, tam giác quan hệ này đã trở thành một sự tương tác bao hàm cả kinh tế và xã hội, trong đó những lợi ích giữa bất kỳ nhóm hai chủ thể nào cũng có thể có lợi cho chủ thể thứ ba.
Đối với Mỹ, một sự tái cấu trúc tam giác quan hệ này thành một tam giác toàn diện dựa trên những cơ hội, có thể là một phần của chiến lược chuyển trọng tâm trở lại châu Á. Độ che phủ về mặt tinh thần của tam giác an ninh đối với những lựa chọn của Mỹ là một tình thế tiến thoái lưỡng nan trong quan hệ giữa nước này với một nước đang ngày càng trở nên nguy hiểm và có ngân sách quốc phòng gia tăng mạnh.
Một mối quan hệ gắn kết và ổn định giữa hai bờ eo biển Đài Loan là điều mong muốn. Đầu tiên, nó giảm bớt khả năng xảy ra một cuộc khủng hoảng quân sự. Thứ hai, tam giác an ninh nói trên là gót chân Asin của mối quan hệ Mỹ-Trung. Giảm thiểu những quan ngại của Bắc Kinh về vai trò của Mỹ ở Đài Loan sẽ khiến cho toàn bộ mối quan hệ này có một chỗ đứng vững chắc hơn. Thứ ba, trong một khuôn khổ đặc biệt, Đài Loan chắc chắn lo ngại về các mối quan hệ giữa Oasinhtơn và Bắc Kinh, nhưng trong một tam giác toàn diện họ có thể đóng vai trò sống còn và có lợi cho sự tham gia của người Mỹ với những việc liên quan đến Trung Quốc Đại lục. Việc coi Đài Loan là một cơ hội hơn là một vấn đề an ninh sẽ là khuôn khổ mới và hữu ích đối với sự liên quan của Mỹ.
Có một số lợi ích đặc biệt của Mỹ cần phải tính đến trong một tam giác toàn diện như mong muốn. Đầu tiên, một điều kiện tiên quyết cơ bản là sự tin tưởng rằng tam giác này sẽ tạo ra một mối quan hệ hòa bình có khả năng tự củng cố hơn là chỉ đơn giản là một giai đoạn hòa bình có khả năng bị phá vỡ bởi sự đối đầu trong tương lai.
Sự hoạt động theo hướng một tam giác toàn diện không đòi hỏi rằng “sự nghi ngờ chiến lược” giữa Oasinhtơn và Bắc Kinh sẽ được thay thế hoàn toàn bàn? Sự tin tưởng chiến lược, nhưng nó đòi hỏi sự tin tưởng của Oasinhtơn rằng Bắc Kinh hoàn toàn cam kết thực hiện một mối quan hệ hòa bình giữa hai bờ eo biển Đài Loan và không giơ ra một củ cà rốt mà sau đó sẽ được thay thế bằng một cây gậy.
Mối quan hệ tam giác này sẽ theo đuổi viễn cảnh là mối quan hệ toàn diện hai bờ eo biển Đài Loan sẽ duy trì khả năng không xảy ra các cuộc đối đầu và các vấn đề khác trong tương lai giữa Oasinhtơn với Bắc Kinh và mối quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan sẽ không được đưa ra để mặc cả hay làm con tin. Trong mối quan hệ này, tất cả các bên sẽ cùng thúc đẩy những lợi ích chung thay vì chỉ tranh thủ giành lợi ích riêng.
Thứ hai, tam giác quan hệ này phải đưa ra được những lợi ích mới cho Mỹ. Ngoài những thiếu hụt do tam giác quan hệ gây ra, cần phải tính đến những sự khuyến khích được tạo ra bởi mối quan hệ toàn diện này. Đối với một vài khu vực, lợi ích có thể nhìn thấy trước nhờ các mối quan hệ kinh tế tay ba đang tồn tại như Apple-Foxconn-Trung Quốc. Tuy nhiên, một sự tương tác hòa bình và không gặp trở ngại trong quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan có thể tạo ra nhiều hơn thế. Trong hơn 60 năm quan hệ kinh tế và xã hội gần gũi, Mỹ đã giúp Đài Loan có được vị trí thuận lợi nhất ở châu Á với cả Mỹ và Trung Quốc, cũng như các mối quan hệ gần gũi, thân thiết giữa Mỹ với Nhật Bản giúp cho Oasinhtơn, Đài Bắc và Tôkyô có một tam giác văn hóa độc nhất vô nhị.
Mỹ và Trung Quốc có vấn đề điển hình của nước lớn trong việc gặp khó khăn khi đương đầu trực tiếp với những hệ thống và văn hóa khác nhau. Đài Loan có thể cung cấp một trung tâm tập trung và phân phối nhiều phương hướng. Thương mại của Đài Loan liên quan mật thiết với tất cả các bên; các trường đại học và các viện nghiên cứu khác nhau của Đài Loan đang mở rộng sự hợp tác với Trung Quốc Đại lục.
Là một hòn đảo nằm ngoài khơi và dưới sự cai trị của chính quyền riêng, Đài Loan có thể giúp bảo vệ các doanh nghiệp Mỹ tránh khỏi những vấn đề dễ bị tổn thương như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các hệ thống pháp luật xa lạ. Khi thị trường Trung Quốc Đại lục trở thành thị trường lớn nhất thế giới, một trung tâm tập trung và phân phối với sự tiếp cận thông thoáng và không bị chính trị hóa trở nên đắt giá hơn, và ở thời điểm đó các mối liên kết của Đài Loan với Mỹ và Nhật Bản sẽ hấp dẫn những người làm kinh doanh ở Trung Quốc.
Thứ ba, sự thay đổi trong các mối quan hệ tay ba sẽ tăng cường thay vì giảm bớt vai trò toàn cầu của Mỹ. Một trong những lợi ích của mối quan hệ tay ba mới đối với việc dễ dàng rút khỏi các cam kết quốc phòng với Đài Loan sẽ đến từ sự phát triển dựa trên cơ hội hơn là dựa trên sự cần thiết. Điều này không chỉ đòi hỏi những cơ hội kinh tế được tăng cường, mà còn đòi hỏi một vai trò có ảnh hưởng liên tục trong mối quan hệ tay ba. Hơn nữa, ủng hộ một tam giác toàn diện sẽ thúc đẩy hơn những cam kết của Mỹ đối với các giá trị như sự mở cửa, nhân quyền, dân chủ và tự do hàng hải..
Mỹ có thể thực hiện những bước đi cụ thể nào để tạo thuận lợi cho việc chuyển đổi từ một tam giác an ninh sang một tam giác cơ hội? Sự ngoại giao tinh tế đă được kêu gọi thực hiện, bởi vì hiện nay mỗi bên đang hoài nghi các sáng kiến đơn phương. Nước CHND Trung Hoa theo dõi sự câu kết giữa Mỹ và Đài Loan, trong khi Đài Loan sợ rằng các thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc có thể sẽ khiến hòn đảo này trở thành vật hy sinh. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên là phải có một nhận thức về khả năng thay đổi mô hình và sự sẵn sàng đón nhận các cơ hội ngoại giao khi chúng xuất hiện.
Thứ hai, Mỹ nên khuyến khích đường đi của Trung Quốc và Đài Loan cũng như các sáng kiến riêng giúp tăng cường sự toàn diện của tam giác quan hệ mới. Thách thức cụ thể là củng cố các mối quan hệ với Đài Loan trong bối cảnh có khả năng mạo hiểm với một mối quan hệ hòa bình giữa hai bờ eo biển Đài Loan và có lợi cho tất cả các bên.
Thứ ba, Mỹ nên tập trung quan tâm vào các khía cạnh kinh tế và xã hội trong mối quan hệ của nước này với Đài Loan. Đài Loan hiện nay thường hay được thảo luận với tư cách là “vấn đề Đài Loan” hoặc như là một khách hàng mua sắm vũ khí của Mỹ. Trên thực tế, mối quan hệ Mỹ – Đài Loan luôn luôn là mối quan hệ nhiều mặt, chứ không phải chỉ là những vấn đề an ninh này, sự đóng góp của Mỹ vào việc phát triển kinh tế-xã hội của Đài Loan đã bị phủ bóng đen bởi tam giác an ninh nói trên. Nhũng thực tế kinh tế hiện đang tôn tại và các cơ hội gắn liền với khu vực trong tương lai nên được làm nổi bật.
Thứ tư, Mỹ cần cho thấy sự tôn trọng Đài Loan như là một tiếng nói quôc tế. Đài Loan sẽ không bị loại ra khỏi hoạt động ngoại giao của Mỹ liên quan đến các cuộc tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senaku và Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Đài Loan không phải là một quốc gia có chủ quyền, nhung là một “cổ đông” trong những cuộc tranh chấp lãnh hải này. Sự chiếm giữ liên tục của Đài Loan kể từ năm 1956 đối với đảo Thái Bình (đảo Ba Bình của Việt Nam) ở quần đảo Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) là một trong những cơ sở pháp lý mạnh mẽ nhất cho tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở khu vực này, và cam kết của Đài Loan về một giải pháp hòa bình không thể bị nghi ngờ.
Tương tự, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Điếu Ngư/Senkaku dựa vào việc các hòn đảo này là một phần của Đài Loan. Những đề xuất của Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu về việc tham gia một giải pháp thương lượng sẽ được xem xét nghiêm túc.
Tam giác an ninh Oasinhtơn-Bắc Kinh-Đài Bắc đã có lịch sử lâu dài và những sự trông đợi của tất cả các bên vẫn nằm trong sự che phủ của tam giác này. Tuy nhiên, thực tế đã thay đổi vì một tương lai tốt đẹp hơn. Đã đến lúc cần phải thay đổi mối quan hệ này để theo kịp và chuẩn bị cho một sự tương tác khác trong tương lai có lợi cho tất cả các bên.