Jonathan London and Vũ Quang Việt [i]
Soạn cho Hội nghị Quốc tế về biển Đông, 27-28/4/2013
Đại học Phạm văn Đồng, Quảng Ngãi, Việt Nam
Người dịch: Huỳnh Phan
Thoả thuận tháng 10 năm 2011 giữa Hà Nội và Bắc
Kinh về việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ và biển ở biển Đông Nam Á
(biển Đông) một cách hòa bình ban đầu đã được chào đón với những nụ
cười, chủ yếu là vì dường như nó hứa hẹn một giai đoạn tạm ngơi đi các
căng thẳng đang xấu thêm giữa hai nước Leninist láng giềng này. Nhưng
những nụ cười hồi hộp trong việc chính trị hệ trọng này của Đông Á chưa
bao giờ chứa đựng nhiều thông tin. Và từ chỗ đứng của năm 2013 rõ ràng
thoả thuận trên giấy đó đã không giải quyết được những cội rễ của những
căng thẳng và, trên thực tế đã thất bại ngay cả trong việc “che đậy” sự
tranh chấp. Chỉ một tháng sau khi hiệp định được ký kết, một đoạn băng
video tiếng Việt không rõ nguồn tung lên cảnh một tàu biên phòng Việt
Nam đâm một tàu hải giám Trung Quốc (TQ) tại một địa điểm không tiết lộ.
Bắc Kinh không có phản ứng chính thức nào về sự cố này, một dấu hiệu
cho thấy sự cố quả thực xảy ra khá gần Việt Nam. Chỉ một vài ngày sau đó
thì các giới chức Việt Nam và TQ họp tại APEC ở Honolulu. Ở đó, Tổng
thống Obama và Hồ Cẩm Đào tiếp tục cuộc đối thoại căng thẳng, theo sau
là một thông báo của Tổng thống Obama rằng Hoa Kỳ đã gần hoàn tất thỏa
thuận Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) hình thành một cộng đồng kinh
tế không có TQ, bao gồm Úc, New Zealand, Malaysia, Singapore,
Chile, Peru, và đáng chú ý là có Việt Nam. Dự kiến Nhật Bản sẽ gia nhập
sớm. Với một cách lý giải nào đó, Bắc Kinh xem TPP như là một chỉ dấu về
những cố gắng của Washington nhằm hạn chế sức mạnh của họ và đã phản
ứng bằng nhiều nỗ lực khác nhau nhằm giảm thiểu bất kỳ tác động bất lợi
nào, chủ yếu bằng cách ký thỏa thuận thương mại song phương với Hàn
Quốc, Nhật Bản, và nhiều đối tác khác. Các diễn biến khác, đặc biệt căng
thẳng giữa Trung – Nhật, đi ngược lại diễn tiến vừa nêu.
Trong vòng 18 tháng kể từ cuộc họp APEC, nhiều
việc đã xảy ra, nhưng tuyệt đối không có việc nào thuộc dạng làm giảm đi
những căng thẳng ở biển Đông Nam Á. Quả thế, chúng tôi sẽ lập luận ở
đây rằng hành vi của Bắc Kinh trong giai đoạn này chỉ có thể được hiểu
như là một quá trình bành trướng theo chủ nghĩa đế quốc mới thuộc loại
chính sách ngoại giao pháo hạm. Việc đầu tiên là giằng co của
TQ-Philippines tại bãi cạn Scarborough, ở đó TQ chiếm giữ các vùng biển
và các thể địa lí mà Philippines tuyên bố chủ quyền từ lâu và từ chối
rời đi. Việc thứ hai là sự phá sản đáng kinh ngạc về tính thích đáng của
ASEAN trong các vấn đề ngoại giao, gây ra do sự biểu lộ của Phnom Penh
rằng lập trường của họ đối với biển Đông Nam Á là Bắc Kinh muốn sao thì
nó phải như vậy. Việc thứ ba là việc chính thức hóa tuyên bố chủ quyền
“lưỡi bò” bất hợp pháp của TQ đối với 80 phần trăm biển Đông Nam Á qua
việc thành lập “thành phố Tam Sa”, một quyền pháp lý có chẳng có cơ sở
nào trong luật pháp quốc tế. (Hãy tưởng tượng một nước bất kỳ nào khác,
kể cả Hoa Kỳ thời hoàng kim đế quốc của mình thực hiện điều tương tự.
Thôi được, có thể là một ví dụ tồi!). Lưỡi bò bây giờ điểm tô các hộ
chiếu TQ, các bản đồ (bao gồm cả một số được bán tại Philippines) và các
con dấu chính thức của TQ. Việc thứ tư là tăng cường các cuộc tập trận
hải quân khiêu khích từ năm 2008 kể cả “tăng thêm tuần tra” trên vùng
biển với 24 tàu hải giám bổ sung, trong đó gần một nửa là tàu chiến cải
biến, chúng “… không có nhiệm vụ nào khác ngoài việc chèn ép các nước khác phải khuất phục trước yêu sách bành trướng của TQ”[ii]
trên cái lưỡi bò mà Bắc Kinh không có tuyện bố chủ quyền hợp pháp đối
với nó. Việc cuối, nhưng không kém phần đáng lo ngại, là tiếp tục cổ vũ
chủ nghĩa dân tộc và “số phận đã định” như một phương tiện kích động sự
hậu thuẫn trong nước. Một xu hướng không những đề cao về sự cần thiết
cho “ổn định khu vực” (theo ngôn từ của Bắc Kinh) mà còn có vẻ mời gọi
các xu hướng siêu quốc gia và thậm chí phát xít trong chính trị TQ, điều
này không có chút cường điệu nào.
Những phát triển khác trong khu vực cũng không
làm dịu căng thẳng. Ví dụ rõ ràng nhất là vụ giằng co quanh quần đảo
Senkaku / Điếu Ngư, mà Bắc Kinh dường như sẵn sàng theo đuổi bằng mọi
giá, trong vòng một năm qua tranh chấp đã trở nên tồi tệ hơn mà không có
dấu hiệu dừng lại. Nếu cuộc xung đột vượt khỏi tầm kiểm soát thì toàn
bộ khu vực sẽ bị biến dạng. Ngoài ra, có nhiều điều không chắc chắn về
việc Mỹ sẽ phản ứng như thế nào. Tình thế với CHDCND Triều Tiên cũng có
tác động đối với thế trận an ninh của Mỹ. Đã có dấu hiệu cho thấy rằng
Philippines mong muốn một dạng sức mạnh hải quân cốt yếu nào đó của Mỹ
quay trở lại Subic Bay. Cuối cùng chúng ta đã thấy sự phát triển của một
cuộc chạy đua vũ trang thực sự ở Đông Á, một phần bị thúc đẩy bởi sự mở
rộng quân sự có thể dự đoán phần nào của Bắc Kinh. Người hưởng lợi lớn ở
đây dường như là Nga và Mỹ. Kẻ thua là an ninh khu vực và hàng loạt các
mục tiêu đáng giá mà tiền sẽ không được chi vào. Có lẽ yếu tố đáng lo
ngại nhất trong nền chính trị khu vực là dường như không có khả năng
giới tinh hoa chính trị vượt qua “chính trị thể diện”, một thuộc tính
văn hóa thâm căn cố đế của Đông Á từ lâu sống lâu hơn tính hữu dụng của
nó. Tất cả những điều trên thậm chí còn làm các nhà quan sát thận trọng
lo lắng về các căng thẳng trong khu vực.
Sự dai dẳng của tình trạng căng thẳng trong vùng
biển Đông Nam Á trong bối cảnh của một cảnh quan khu vực địa chính trị
năng động tạo cơ hội để xem xét lại những ưu và nhược điểm của các tuyên
bố chủ quyền xung khắc của nhà nước Việt Nam và TQ ở biển Đông Nam Á,
để khám phá những động lực chính trị trong nước và quốc tế gây kích động
cuộc xung đột, và để suy tư về các điều kiện theo đó cuộc xung đột có
thể giải quyết một cách không bạo lực. Vì hầu hết chúng ta đã quen thuộc
với trường hợp Việt Nam, chúng tôi sẽ dành sự chú ý đặc biệt trong việc
tháo dỡ mặt chính trị về vị thế của Việt Nam trong cuộc xung đột. Hơn
nữa, chúng tôi làm như vậy từ một tầm nhìn được đào tạo về một quan điểm
của Việt Nam và giả định, dưới ánh sáng của các bằng chứng, rằng tuyên
bố của Việt Nam thực sự hợp pháp. Chúng tôi thăm dò những cách mà Việt
Nam có thể nâng cao lợi ích của mình khi đối mặt với chủ nghĩa đế quốc
TQ.
Trên tổng thể, chúng tôi cho rằng một cuộc chiến
tranh Trung-Việt nữa sẽ là thảm hoạ. Nhưng vẫn còn khó để hình dung ra
một giải pháp hòa bình có thể đạt tới như thế nào mà không có những thay
đổi cơ bản trong các tính toán chính trị hiện tại. Để hiểu rõ hơn cuộc
xung đột và lý do tại sao các ý đồ của Bắc Kinh đối với khu vực là không
thể chấp nhận được đòi hỏi một quan điểm lịch sử đối với những tuyên bố
xung khắc, chú ý đến thái độ và hành vi ẩn bên dưới các rắc rối gần
đây, và lưu ý rằng các yêu sách của Bắc Kinh to tát và bất hợp pháp
nhường nào. Rõ ràng TQ là một nước lớn mạnh và là còn là một siêu cường
đang trỗi dậy. Nhưng điều này không phải có nghĩa là Bắc Kinh muốn làm
gì thì làm. Có vẻ giải pháp duy nhất đối với Bắc Kinh sẽ là từ bỏ tuyên
bố bất hợp pháp của mình theo tiêu đề của một hiệp ước đa phương
khu vực và một bộ quy tắc ứng xử có tính ràng buộc. Đạt được kết quả như
vậy sẽ đòi hỏi đề cao việc không khuyến khích đối với các thứ chủ nghĩa
bành trướng và nền ngoại giao pháo hạm mà Bắc Kinh dường như có ý muốn
thực hành. Điều đó cũng sẽ đòi hỏi các nhà lãnh đạo ở Việt Nam vung bồi
với nhiệt tâm hơn tính chính đáng quốc tế và trong nước.
Thực tế lịch sử không ủng hộ các yêu sách của Bắc Kinh
Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc đánh giá các yêu
sách hợp pháp kích động các tranh chấp giữa Việt Nam và TQ nói riêng.
Các khía cạnh lịch sử tranh chấp hiện tại rất khó tóm tắt ngắn gọn. Sẽ
hữu ích khi tách cuộc xung đột thành ba khu riêng biệt dù có liên kết
với nhau. Thứ nhất là tình trạng của quần đảo Hoàng Sa và các vùng biển
liền kề mà Hà Nội, Bắc Kinh và Đài Bắc đều tuyên bố chủ quyền. Thứ hai
là tình trạng của quần đảo Trường Sa và các vùng biển liền kề mà Việt
Nam và TQ là hai trong số năm nước có yêu sách, gồm có Philippines,
Malaysia và Brunei. Cuối cùng đó là tình trạng của chính biển Đông Nam Á
– một khu vực biển rộng lớn mà cho đến nay đã bị gọi sai là biển Nam
Trung Hoa. Việc chỉ định tên gọi địa lý biển Nam Trung Hoa là không phù
hợp cho một vùng biển nằm trong khu vực Đông Nam Á và cộng đồng quốc tế,
nên ngừng và từ bỏ cách gọi như vậy.
Quần đảo Hoàng Sa
Đối với quần đảo Hoàng Sa, các bằng chứng như
sau. Trong giai đoạn Việt Nam chia thành hai lãnh địa dưới thời vua Lê,
năm 1774, nhà viết sử Lê Quý Đôn ghi lại các chuyến đi hàng năm do chúa
Nguyễn của Đàng Trong (miền Nam) phái ra quần đảo Hoàng Sa trong quyển
Phủ biên tạp lục (府 编 杂 录).
Khi Việt Nam thống nhất, vị vua đầu là Gia Long tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa năm 1816.[iii]
Gia Long và hai vị vua sau đó thể hiện chủ quyền và kiểm soát các hòn
đảo thông qua các chuyến đi chính thức lặp đi lặp lại được ghi chép kỹ
lưỡng vào tài liệu và báo cáo trong hơn năm thập kỷ. Từ 1835-1838, vua
Minh Mạng hàng năm đều phái lính ra quần đảo Hoàng Sa, vua Thiệu Trị
cũng làm như thế cho đến năm 1854.[iv] Những hành động liên tục này thể hiện rõ ràng quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa.
Pháp thuộc đia hóa Việt Nam năm 1884 tiếp theo
sau là một thời kỳ xao lãng. Tỉnh Quảng Đông, chưa từng là một quốc gia
có chủ quyền, đã đưa ra tuyên bố chủ quyền lần đầu đối với quần đảo
Hoàng Sa bắt đầu vào năm 1909. Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) đã tuyên bố lần
đầu và chỉ đối với quần đảo Hoàng Sa vào năm 1932, trong một bản thông
cáo gửi cho người Pháp. THDQ nêu ra hai lý do, cả hai đều bất hợp pháp.
Lý do thứ nhất là do trong quá khứ Việt Nam là chư hầu của TQ nên quần
đảo này là của TQ. Lý do thứ hai, thường được chính quyền TQ nêu ra, là
thoả thuận đã ký kết tại Bắc Kinh vào năm 1887 (khoảng 70 năm sau tuyên
bố ban đầu của Gia Long) giữa Thống đốc Pháp ở Bắc Ký và TQ với tiêu đề “Công ước về phân định biên giới giữa TQ và Bắc Bộ”.
Thoả thuận này chỉ trên vịnh Bắc Bộ có nêu rằng các đảo phía đông kinh
tuyến 105° 43′ thuộc về TQ. Tuy nhiên, điều quan trọng là quần đảo Hoàng
Sa, tuy nằm về phía đông của 105° 43′ nhưng lại ở ngoài khơi bờ biển An
Nam, miền Trung Việt Nam hiện nay, không thuộc quyền quản hạt của Bắc
Bộ.
Chịu thua trước sức ép của các quan chức địa phương Việt và Pháp,[v] ngày 08 tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Pháp.[vi] Năm 1933, Pháp chính thức tái khẳng định chủ quyền.[vii]
Tuy nhiên, họ chỉ chiếm nhóm đảo Trăng Khuyết trong quần đảo Hoàng Sa, ở
đó họ đã xây dựng một căn cứ quân sự, trạm khí tượng, và đài phát thanh
vào năm 1937. Trong quảng thời gian Pháp xao lãng, ít nhất là một công
ty Nhật đăng ký dưới tên một người TQ và sử dụng công nhân TQ đã bắt đầu
khai thác phân chim trên đảo Phú Lâm, nằm trong nhóm An Vĩnh của quần
đảo. Pháp phái một nhóm cảnh sát bản địa tới đây vào năm 1939.[viii]
Sau Thế chiến II người Pháp không trở lại đảo Phú Lâm nhưng đã trở lại
đảo Hoàng Sa tái chiếm đóng nhóm Trăng Khuyết của quần đảo Hoàng Sa vào
năm 1956 rồi chuyển giao quyền kiểm soát chủ quyền cho chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa (VNCH). Sau khi Nhật thua trận, THDQ nắm quyền kiểm soát
đối với nhóm An Vĩnh, nhóm có đảo Phú Lâm. Năm 1955, CHNDTH nắm quyền
kiểm soát. Năm 1974, CHNDTH chiếm nhóm Trăng Khuyết bằng vũ lực, dẫn đến
cái chết của 54 lính Việt Nam và 48 người khác cùng một cố vấn quân sự
Mỹ bị tạm giữ. TQ vẫn tiếp tục kiểm soát bất hợp pháp toàn bộ quần đảo
Hoàng Sa từ năm 1974.
Quần đảo Trường Sa
Tiếp theo chúng ta chuyển sang quần đảo Trường Sa
và các vùng biển liền kề. Quần đảo Trường Sa bao gồm 36 đảo nhỏ và hơn
một trăm mỏm đá và bãi cát với tổng diện tích 5 km², nhưng lan rộng trên
một vùng biển khoảng 600.000 km². Đảo lớn nhất là đảo Ba Bình, 0,5 km²,
do Đài Loan chiếm đóng kể từ sau Thế chiến II. Quần đảo Trường Sa lần
đầu tiên được Pháp tuyên bố chủ quyền một phần vào năm 1887, và sau đó
toàn bộ năm 1933 nhưterra nullius (đất không chủ) để ngăn chặn Nhật Bản xâm nhập. Không có phản đối từ Đài Loan.
Sau Thế chiến II, Pháp đã không tái khẳng định
chủ quyền, nhưng VNCH đưa quân đến nhiều đảo, trong khi Philippines cũng
tuyên bố một số khu vực như terra nullius. Malaysia và Brunei đã tuyên
bố chủ quyền đối với nhiều rạn san hô và bãi cạn trong năm 1982 và 1983.
THDQ không yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa trong Thông
cáo năm 1932 của họ về quần đảo Hoàng Sa.[ix]
Năm 1946, lợi dụng nhiệm vụ do Đồng Minh giao bảo vệ các khu vực trên
vĩ tuyến 16, Tưởng Giới Thạch tuyên bố chủ quyền cả hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Những tuyên bố của TQ tiếp theo được CHNDTH thực hiện
vào năm 1951, khi Chu Ân Lai tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
luôn luôn là lãnh thổ của TQ. Dường như tuyên bố chủ quyền của TQ có rất
nhiều khả năng được tiến hành phối hợp với Liên Xô mà tại Hội nghị Hòa
bình San Francisco tổ chức chỉ một tháng sau tuyên bố của họ Chu, nước
này đã đưa ra 13 sửa đổi cho Hiệp ước, trong đó có một sửa đổi giao hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho TQ. Các sửa đổi này đã bị loại với tỉ
lệ phiếu là 48-3.[x]
Nhưng những nỗ lực của Bắc Kinh để phô trương sức mạnh chỉ mới bắt đầu
và các quan chức TQ vẫn tiếp tục lập luận sai trái rằng Hiệp ước hòa
bình San Francisco được ký kết giữa Nhật và Đồng minh kết thúc chiến
tranh thế giới II đã giao quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lại cho TQ.
Thật ra, hiệp ước quốc tế này chỉ đơn giản nói rằng “Nhật Bản từ bỏ mọi
quyền, danh nghĩa và yêu cầu đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo
Hoàng Sa.”[xi]
Hiệp ước hòa bình giữa THDQ (Đài Loan) và Nhật
vào ngày 28 tháng 4 năm 1952 chỉ lặp lại những gì đã được ký kết giữa
Nhật và Đồng minh. Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa, và yêu sách chủ
quyền đối với Đài Loan (Formosa) và Bành Hồ (Pescadores) cũng như quần
đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa theo quy định tại Điều 10 của Hiệp
ước San Francisco.[xii]
Không có chỗ nào trong tài liệu này nói rằng các đảo đó được trả lại
cho THDQ, nhưng từ đó Bắc Kinh cứ giải thích như thế. Không chỉ vậy, họ
còn nói rằng “Hoa Kỳ công nhận chủ quyền của TQ đối với quần đảo Nam Sa
[Trường Sa] trong một loạt các hội nghị quốc tế và thông lệ quốc tế sau
đó.”[xiii]
Nhưng khẳng định của TQ rõ ràng là trái với chủ trương của Hoa Kỳ
“không theo lập trường nào đối với giá trị pháp lý của các tuyên bố chủ
quyền đối chọi nhau”. Hoàn toàn ngược lại, “Hoa Kỳ sẽ xem xét nghiêm
ngặt bất kỳ yêu sách biển nào hoặc bất kỳ hạn chế nào đối với hoạt động
trên biển trong biển Đông mà không phù hợp với luật pháp quốc tế” (tuyên
bố Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 10 tháng 5 năm 1995).[xiv]
Ngoài ra, TQ cũng không có bằng chứng lịch sử nào
cho thấy họ đã từng thực hiện chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.
Cũng như với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa chưa bao giờ được mô
tả như là một phần của TQ trong các hồ sơ lịch sử. TQ cũng không chiếm
đóng bất kỳ đảo nào của quần đảo này bất kỳ thời điểm nào trước thập
niên 1980, kể cả trong thời hoàng kim của Trịnh Hòa. CHNDTH cho rằng
người TQ phát hiện, đặt tên, khai thác, tiến hành các hoạt động kinh tế
và thực thi quyền tài phán đầu tiên đối với các đảo trong biển Nam Trung
Hoa.[xv]
Tuy nhiên, người ta có thể chỉ ra rằng ranh giới của TQ kết thúc tại
đảo Hải Nam sau khi kiểm tra cẩn thận các tài liệu lịch sử chính thức
của TQ từ Lịch sử nhà Minh (Minh Sử / 明 史), Lịch sử nhà Thanh (Thanh Sử Cảo/
清史稿) và các bản đồ Quảng Đông đã được vẽ ra qua nhiều triều đại và
chính thức công bố trong bộ bản đồ tinh tuý của Quảng Châu (广州 历史 地图 精粹 /
Quảng Châu lịch sử địa đồ tinh túy).[xvi]
Nguồn này bao gồm các bản đồ hành chính xuống đến cấp huyện và được
biên soạn thời nhà Thanh và thời THDQ. Một bản đồ thẩm quyền hơn có tên
là Hoàng dư toàn lãm đồ (皇舆全览图) vì nó được Hoàng đế Khang Hi của
nhà Thanh ra lệnh làm. Bản đồ này được in trên gỗ năm 1717 sau 10 năm
nghiên cứu, vẽ bởi một nhóm giáo sĩ dòng Tên có kiến thức Bản đồ học
phương Tây. Lãnh thổ TQ cũng kết thúc tại đảo Hải Nam.[xvii]
Bản in sao chép trên đồng được giáo sĩ Dòng Tên Matteo Ripa thực hiện
vẫn còn lưu giữ ở một phần bộ sưu tập địa hình của vua George III tại
Thư viện Anh ở London.[xviii]
Tất cả những cuốn sách mà TQ kê ra nhằm mục đích
thể hiện một bằng chứng mơ hồ nào đó cho những hiểu biết của TQ về quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đều là những ghi chép của những nhà
du lịch và thám hiểm. Rõ ràng TQ không có bằng chứng lịch sử nào cho
thấy rằng chính phủ của họ đã có thẩm quyền, hay thậm chí đã xem quần
đảo Hoàng Sa như là một phần của TQ trước năm 1909. Do đó, tuyên bố “TQ
là nước đầu tiên phát hiện ra, đặt tên, khai phá, thực hiện các hoạt
động kinh tế và thực thi quyền chủ quyền” là không có giá trị. Về phần
Việt Nam, tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa chủ yếu dựa trên tuyên bố
của Pháp. Bằng chứng lịch sử khác khá mong manh, mặc dù có các ghi chép
về các hoạt động của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa ít ra từ năm
1776.
Điều này cuối cùng dẫn chúng ta tới công hàm gây
tranh cãi của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân
Lai vào năm 1958. Công hàm này đã trở thành tâm điểm cho các nỗ lực Bắc
Kinh vo tròn bóp méo lịch sử và suy diễn sai trái rằng Việt Nam đã từ bỏ
tuyên bố chủ quyền của mình, khi mà công hàm không hề nói điều đó. Nỗ
lực của Bắc Kinh khi chơi con bài Phạm Văn Đồng có ba vấn đề. Đầu tiên
và quan trọng nhất, công hàm Phạm Văn Đồng tỏ ý ủng hộ cho lãnh hải 12
hải lý trong bốn câu. Không chỗ nào Phạm Văn Đồng tỏ ý rằng Việt Nam
nhượng chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa cho TQ.
Thứ hai, Phạm Văn Đồng vào thời điểm đó thay mặt
cho VNDCCH, trong khi đó chính VNCH lại là nước đã nhận được sự chuyển
giao quyền lực từ tay người Pháp và đã thiết lập chủ quyền đối với quần
đảo này. Do đó, công hàm Phạm Văn Đồng không có hiệu lực về vấn đề chủ
quyền. Như một nhà quan sát nói: “Người ta không thể từ bỏ một cái gì đó
mà họ không nắm quyền kiểm soát.”[xix] Cả VNCH lẫn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đều phản đối tuyên bố của TQ.
Cuối cùng, Bắc Việt Nam vừa đã bị chiến tranh vừa
phụ thuộc nặng nề vào viện trợ của TQ. Trong tình cảnh đặc biệt đó,
ĐCSVN không có tư thế nào để phản đối. Sau đó, Chính phủ Cách mạng Lâm
thời miền Nam Việt Nam (được Bắc Việt Nam ủng hộ), khi lên tiếng phản
đối việc TQ chiếm đóng bằng bạo lực quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 đã
kêu gọi giải quyết trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và
láng giềng tốt.[xx]
Điều cần cho Bắc Kinh và những người ủng hộ là nên loại bỏ các cứ liệu
lịch sử mơ hồ để ủng hộ các bằng chứng đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trong
đánh giá các tuyên bố về chủ quyền.
Đường chữ U và luật pháp quốc tế
Điều này dẫn đến thành phần cuối cùng của những
rắc rối hiện tại. Tuyên bố chủ quyền của Pháp đối với quần đảo Trường Sa
vào năm 1933 không gặp sự phản đối của TQ. Tuy nhiên, tuyên bố của Pháp
đã khiến một quan chức THDQ là Bạch Mi Sơ bịa ra bản đồ hình chữ U 11
vạch, thu tóm 80 phần trăm biển Đông Nam Á vào lãnh thổ của TQ.[xxi]
Bản đồ này, in vào năm 1947, không có ghi tọa độ, và vẫn giữ nguyên
không có tọa độ. Hình chữ U 11 vạch đã được CHNDTH chỉnh thành hình chữ U
9 vạch và nộp cho Liên Hiêp Quốc (LHQ) năm 2009, yêu sách rằng khu vực
được phân định đó là lãnh thổ lịch sử của TQ. Cần nhấn mạnh rằng yêu
sách trong đường chữ U không được luật pháp quốc tế công nhận và do đó
là hoàn toàn bất hợp pháp. Có những dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh biết điều
này. Có cách giải thích nào khác việc Bắc Kinh cho rằng họ có “chủ
quyền không thể tranh cãi” lại đồng thời đề xuất cùng nhau khai thác tài
nguyên? Điều sau mâu thuẫn với điều trước hay tìm cách khôi phục lại
huyền thoại về lòng hào phóng của đế chế TQ xưa.
Những điều trình bày ở đây được định hướng theo
các tiêu chuẩn quốc tế đã được thiết lập liên quan đến các yêu sách chủ
quyền lãnh thổ có chủ quyền. Hai bộ tiêu chuẩn được sử dụng trong bài
viết này dựa trên các quyết định trước đây của Tòa Án Quốc tế và của các
Trọng tài quốc tế khác, Hiến chương LHQ và Công ước về Luật Biển của
LHQ (UNCLOS). Một tuyên bố chủ quyền phải được phản ánh trong
tuyên bố và các hành động công khai của một chính phủ cấp quốc gia, chứ
không phải chỉ do chính quyền địa phương. Một tuyên bố phải bao gồm hai
yếu tố, mỗi một yếu tố đó phải cho thấy sự tồn tại: chủ định và ý muốn
hành động như một chủ quyền và một thực thi thực tế nào đó hoặc thể hiện
tiếp tục thẩm quyền đó. Một tuyên bố phải không bị tranh chấp tại thời
điểm tới hạn (critical time – thời điểm mà những hành động của các bên
sau đó sẽ không được xét tới) của việc công bố. Im lặng có nghĩa là mặc
nhận. Một tuyên bố phải không được thực hiện bằng vũ lực hoặc đe dọa vũ
lực. Quyền lịch sử với đại dương không được luật pháp quốc tế công nhận.
Bằng chứng về chủ quyền lịch sử phải là văn bản chính thức,
chúng có ưu tiên cao hơn các tài liệu lịch sử khác ghi nhận các hành
động của một cơ quan quốc gia. Bằng chứng lịch sử cũng phải minh bạch
với các nguồn có thể kiểm chứng được.
Bằng chứng cho thấy tuyên bố chủ quyền lịch sử
trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Bắc Kinh là giả trá và vô căn
cứ. Kiểm tra cẩn thận các tài liệu lịch sử chính thức TQ của nhà Minh và
nhà Thanh đều cho thấy, ranh giới theo lịch sử của TQ kết thúc tại đảo
Hải Nam. Tất cả các sách Bắc Kinh kê ra làm bằng chứng cho hiểu biết của
TQ về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đều là những ghi chép của
các nhà du lịch và thám hiểm. Bắc Kinh không có bằng chứng lịch sử nào
cho thấy rằng chính phủ của họ đã có thẩm quyền, thậm chí đã coi quần
đảo Hoàng Sa là một phần của TQ trước năm 1909, hơn 130 năm sau khi Việt
Nam đã thiết lập tuyên bố chủ quyền.
Động lực chính trị: Trong nước và quốc tế
Không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam và TQ đều
thèm muốn kiểm soát chủ quyền đối với các đảo tranh chấp và các vùng
biển liền kề. Cũng sẽ không đáng ngạc nhiên là các bên thứ ba có quan
tâm, trong đó có Hoa Kỳ, có lợi ích trong cuộc xung đột này, vì tác động
của nó về phạm vi quả thực là tác động địa chính trị. Khu vực này rất
giàu sinh vật biển và nằm trên một trữ lượng dầu khí đáng kể dù chưa xác
định rõ. Khu vực này là một tuyến đường vận tải biển quan trọng và
chiến lược. Nhưng cũng đáng xem xét đến các động lực trong nước và quốc
tế của cuộc xung đột, chúng không phải luôn luôn rõ ràng.
Đối với Việt Nam, một đất nước có nền kinh tế
tương đối nhỏ và có đường bờ biển dài với dân cư sinh sống phụ thuộc vào
biển, tiếp cận/sử dụng biển Đông thực sự là một lợi ích quốc gia sống
còn. Tiềm năng đóng góp của tài nguyên cho nền kinh tế của Việt Nam là
to lớn. Không giống như TQ, Việt Nam không có cả ngàn tỉ đô la ngoại hối
và không có tầm với ra toàn cầu mà TQ đang nhanh chóng phát triển. Thậm
chí cơ bản hơn, tài nguyên thiên nhiên của biển Đông Nam Á là rất quan
trọng đối với sinh kế của hàng triệu người Việt. Hành vi gần đây của TQ,
bao gồm cả việc bắt giữ bất hợp pháp tàu Việt Nam, là đặc biệt đáng
tiếc. Cảnh một siêu cường đòi tiền chuộc từ kẻ nghèo quả thực không đẹp
chút nào. TQ cũng có những lợi ích trong nước quan trọng. Trong số những
lợi ích quan trọng nhất này là tiếp cận/ khai thác các nguyên liệu, bao
gồm hải sản và các loại nhiên liệu hóa thạch. Sự thèm khát vô độ của TQ
đối với nguyên liệu thô là mối quan ngại toàn cầu và khuyến khích TQ đi
đầu trong những nỗ lực phát triển năng lượng thay thế. Trong khi đó, TQ
không được phép gây sức ép lên các nước nhỏ. Một khía cạnh di sản Đông Á
có nhiều vấn đề liên quan đến thể diện. Bắc Kinh không muốn bị mất mặt
bằng cách thừa nhận rằng các tuyên bố chủ quyền của họ là quá đáng.
Cũng quan trọng là việc nhận ra các sắc thái
chính trị trong nước và quốc tế của Việt Nam. Trong một bài viết gần
đây, đồng nghiệp và cũng là bạn của chúng tôi, Joseph Cheng, khẳng định
rằng Hà Nội đã dung túng hay khuyến khích các cuộc biểu tình để làm
người dân quên đi sự yếu kém của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên điều
này rõ ràng là không đúng, và phản ánh sự thiếu thông thạo của giáo sư
Cheng với chính trị tại Việt Nam. Sau khi tham dự một trong những cuộc
biểu tình tại Hà Nội gần đây, một trong những tác giả hiện nay có thể tự
tin để nói rằng những người phản đối các hành động của TQ là những
người bình thường. Có chăng, chính quyền Việt Nam đã muộn màng nhận ra
rằng tính chính đáng pháp của chính họ đang có vấn đề nếu họ không chịu
đương đầu với TQ. Các cuộc nói chuyện với nhiều người Việt Nam lứa tuổi
trung niên mang lại một cảm giác chung: sợ hãi trước viễn cảnh chiến
tranh trở lại, nhưng cương quyết đối mặt với chủ nghĩa đế quốc TQ. Công
thức cũ mà mọi người Việt Nam đều biết. Nếu Việt Nam cúi đầu trước TQ
thì đơn giản là sẽ không có một Việt Nam. Có một ít điều về chính trị có
thể liên kết người Việt trên toàn cầu với nhau nhưng chắc chắn việc
tranh chấp biển với TQ nằm trong số đó. Có lẽ khía cạnh quốc tế quan
trọng nhất của cuộc xung đột đã nẩy sinh để đáp ứng với cách tiếp cận
vụng về và hung hăng của Bắc Kinh là: Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng việc bảo
vệ hoạt động tự do trong khu vực là một lợi ích an ninh quốc gia.
Giải pháp?
Đối với Việt Nam và TQ để đạt được một giải pháp
hòa bình, có ba rào cản cần phải vượt qua. Đầu tiên, điều cần thiết là
cả hai bên nên trình ra một đánh giá khách quan về tuyên bố chủ quyền
lịch sử do mỗi bên đưa ra. Tuy nhiên, Bắc Kinh khó có thể chấp nhận. Thứ
hai, có một nhu cầu TQ dừng và từ bỏ các hành vi bất hợp pháp của họ
trên vùng biển công (quốc tế). Nhưng điều này cũng khó có thể xảy ra.
Thứ ba, do tầm quan trọng của biển Đông Nam Á đối với thương mại khu vực
và thế giới, có một nhu cầu các cường quốc khu vực và trên thế giới –
và không chỉ TQ – đạt được một thỏa thuận đa phương có tính ràng buộc
đối với khu vực. Luật Biển của LHQ (UNCLOS) có thể đóng một vai trò ở
đó. Nó quy định rằng tất cả các cấu trúc trên biển trong trạng thái tự
nhiên của chúng, nếu là đảo nhỏ và bãi cát trên biển Đông không thể duy
trì sự sống của con người thì không đáng được hưởng vùng đặc quyền kinh
tế, ngoại trừ 12 hải lý lãnh hải. Cách giải thích đó nếu được chấp nhận
sẽ tách riêng ra được một mảng lớn của khu vực này hiện đang có các
tranh chấp lôi thôi và nguy hiểm giữa các nước và đặt chúng vào loại
biển công quốc tế. Tòa án quốc tế về UNCLOS phải ở trong vị thế để cho
ra ý kiến. TQ cũng có thể phản đối điều này. Họ chỉ muốn đàm phán song
phương về một vấn đề đa phương để họ có thể gây sức ép lên các nước nhỏ
hơn và yếu hơn. TQ đã nhiều lần thả nổi đề xuất chia sẻ cùng với họ một
số tài nguyên dầu khí nào đó và kiểm soát thủy sản cho tới khi nào mà
những nước khác chấp nhận chủ quyền của họ đối với biển Đông Nam Á. Điều
này là lố bịch. Nó trông giống như một tên khổng lồ côn đồ đến nhà
người khác đòi lấy hết của cải và đe dọa giết họ nếu họ không đồng ý với
một ít mẫu xương thừa mà anh ta đã rộng rãi ban cho. Đối với chúng
tôi, dường như giải pháp duy nhất hợp lý để chia sẻ tài nguyên trên các
vùng biển là phần phân chia thực (net) từ khai thác tài nguyên tỉ lệ với
chiều dài bờ biển liên quan của các quốc gia xung quanh vùng biển, bỏ
qua tất cả các cấu trúc quốc gia trong vùng biển. Các quốc gia này gồm
có TQ, Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam.
Nhìn trên bề mặt, ba điều kiện đặt ra ở trên có
vẻ như khá phải chăng. Tại sao không đưa vụ việc ra trọng tài? Tại sao
không dừng lại việc giam giữ bất hợp pháp tàu Việt Nam. Và tại sao không
tìm kiếm một giải pháp đa phương thừa nhận tầm quan trọng quốc tế của
biển Đông Nam Á. Để thấy lí do tại sao không đòi hỏi thẩm tra kỹ hơn các
yêu sách và tham vọng của Bắc Kinh trong khu vực, chúng là đế quốc chủ
nghĩa trong bản chất. Giáo sư Amitav đã đúng khi cho rằng TQ hiện nay
đang tìm cách để mở rộng học thuyết Monroe phiên bản TQ.
Có một nhu cầu thừa nhận rằng môi trường chính
sách đối ngoại của Bắc Kinh là một căn phòng phản âm trong đó tiếng vọng
lặp lại các tuyên bố mờ ảo được coi như là thật. Dù sự trỗi dậy của TQ
ấn tượng ra sao, không thể trông mong thế giới sẽ chấp nhận phiên bản Sự
thật của Bắc Kinh, vì phiên bản này thường là tự thoả mản mình
(self-serving). Có một nhu cầu cho các bên liên quan, trong đó có Mỹ,
bảo đảm rằng TQ ngưng và từ bỏ hành vi đáng khiển trách và thật ra là
phạm tội của họ, đặc biệt khi nó liên quan đến sinh kế của ngư dân Việt
Nam và sức khỏe thân thể bị đe dọa. Tất nhiên, làm thế nào để có thể đạt
được điều này thì chưa thật rõ ràng. Lạc quan nhất, tuyên bố của Bắc
Kinh dựa trên sự kết hợp của lịch sử hư ảo, bằng chứng mong manh, và các
phát biểu sai sự thật, như được minh họa ở trên. Mục tiêu của Bắc Kinh
rõ ràng nhiều hơn là việc sở hữu một vài đảo nhỏ và bãi cát. Họ muốn
kiểm soát cả biển Đông Nam Á và buộc các nước khác chịu sự kiểm soát,
hoặc ít nhất nằm vào phạm vi ảnh hưởng của họ trong khi chiếm hữu dầu
khí và nguồn lợi thủy sản ở biển Đông Nam Á.
Việt Nam: Con đường thứ ba?
Một đặc điểm thú vị của tình trạng khó khăn của
Việt Nam đã được lưu hành trong một thời gian. Đặc tính này được cho là
tiêu biểu cho các quan tâm cơ bản của các nhà lãnh đạo Việt Nam mà nguồn
gốc chính xác từ đâu chúng ta không biết, nói theo lời truyền miệng
sau: “Theo Mỹ thì mất chế độ, theo TQ thì mất nước”. Câu châm biếm này,
dù hài hước trong nhiều khía cạnh, nói lên một tình thế nan giải sâu sắc
mà ban lãnh đạo Việt Nam đang đối mặt, tiến thoái lưỡng nan, dù không
phải là mới nhưng có một sự thích đáng mới, và đòi hỏi một cách tiếp cận
mới. Trước hết, chúng ta hãy mổ xẻ nan đề này, cả điều kiện tổng quát
lẫn đối với biển Đông Nam Á. Sau đó chúng ta có thể quan sát các tác
động đối với Việt Nam. Điều này đưa chúng tôi đến việc đề xuất một con
đường thứ ba có liên quan đến việc không mất nước mà cũng không nhấn
Việt Nam chìm vào hỗn loạn.
Đối phó với một TQ bành trướng hay – nói một cách
xây dựng hơn – thiết lập quan hệ đối tác với một TQ đang trỗi dậy, có
thể là một vấn đề “mới” cho phần lớn các nước trên thế giới. Đối với
Việt Nam đang và luôn luôn là một thực tế sống còn. Đối với ĐCSVN, TQ
luôn luôn đặt ra những cơ hội và các đe dọa. Một mặt, ĐCSTQ đã từng viện
trợ Việt Nam về vật chất và phi vật chất tại nhiều thời điểm quan trọng
trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Mặt khác, ĐCSTQ đã tìm
cách thao túng, làm suy yếu, và thách thức nền độc lập của Việt Nam.
Đây cũng là trường hợp mà các mối quan hệ lịch sử của ĐCSVN với ĐCSTQ là
một điểm nhức nhối trong chính trị nội bộ của Việt Nam. Một phần là do
việc áp dụng tai hại cải cách ruộng đất theo gợi ý của ĐCSTQ và chính
sách văn hóa từ thập niên 1950 đến thập niên1970 và một phần là do vào
một số thời điểm nhất định, chẳng hạn như năm 1951 và năm 1974, có thể
ĐCSVN đã đặt tin tưởng quá nhiều vào tình đồng chí của Bắc Kinh, thể
hiện qua những nỗ lực vô bổ và tự chuốc lấy thảm hại để vun bồi sự ủng
hộ của Bắc Kinh vì một mối quan hệ hòa bình và thân thiện được xây dựng
trên sự tôn trọng lẫn nhau. Chỉ là phản bội. TQ nói chung và đặc biệt là
ĐCSTQ luôn luôn là một con dao hai lưỡi đối với Việt Nam và ĐCSVN. Liên
quan đến biển Đông Nam Á, ĐCSVN đối mặt với bề bén của con dao và vẫn
chưa tỏ ý muốn thoát ra khỏi vị trí này, tiết kiệm việc mua các rào chắn
quân sự (chẳng hạn như tàu ngầm, máy bay chiến đấu, công nghệ tên lửa,
tàu tuần tra và máy bay). Điều này, tự nó, là cách tiếp cận sai.
Về mặt lịch sử, mối quan hệ của ĐCSVN với Hoa Kỳ
có thể được mô tả hợp lý là thảm hại, ít nhất là cho đến gần đây. Tất
nhiên, lý do chính, là việc Hoa Kỳ không công nhận ĐCSVN cùng những nỗ
lực phá hoại, đánh bại, và tiêu diệt ĐCSVN bằng quân sự sau đó. Can
thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam, ban đầu dựa trên nguỵ tạo (ví dụ
như “Sự cố Vịnh Bắc Bộ”), đã diễn biến xấu đi thành một cuộc xung đột
giáng thiệt hại thảm khốc lên Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Chúng tôi
không muốn chăm chú vào cuộc chiến tranh bất hợp pháp của Chính quyền
Johnson và Nixon và nhiều hành vi phạm tội được những người như McNamara
và Kissinger giám sát, nhưng chúng tôi không thể không nắm bắt về sự
trớ trêu mà sự chiếm giữ bất hợp pháp Hoàng Sa của Bắc Kinh vào năm 1974
là kết quả trực tiếp của việc cò kè của cả ĐCSVN lẫn của chính quyền
Nixon trong việc vun quén mối quan hệ tốt hơn với ĐCSTQ, một chiến lược
ngắn hạn đã được chứng tỏ là gây tổn hại về lâu dài, không những vì
ĐCSVN đứng nhìn TQ chiếm quần đảo Hoàng Sa mà còn vì họ đã cho TQ một
chỗ đứng trong biển Đông Nam Á mà TQ liên tục tìm cách mở rộng. Đối với
Mỹ, động lực của Nixon-TQ là được hưởng lợi trong việc tăng sức ép lên
Liên Xô và xây dựng một mối quan hệ có tính xây dựng với một quốc gia sẽ
sớm thách thức vị trí bá chủ của chính Hoa Kỳ, kể cả ở Đông Á. Sự miễn
cưỡng của ĐCSVN vun bồi các quan hệ quân sự chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ được
sinh ra từ hai lý do cơ bản: một mặt, sợ làm ĐCSTQ nổi giận và mặt khác
sợ cho phép ‘diễn biến hòa bình’ mà cuối cùng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của
ĐCSVN. Nhưng cả hai lý do cơ bản là không có giá trị.
Liên quan đến Bắc Kinh, quả thực có một nhu cầu
thiết lập một mối quan hệ mang tính xây dựng và dựa trên sự tôn trọng
lẫn nhau. Không rõ là Bắc Kinh tôn trọng Hà Nội vượt trên mối quan hệ
Anh – Em đã liên tục mang lại tổn hại cho Việt Nam. Chúng tôi không có
ảo tưởng, khi đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam và khi cường quốc
quân sự tầm cỡ thế giới ngay bên cạnh, Việt Nam phải duy trì một
mối quan hệ tích cực và xây dựng với TQ. Mặt khác, ngồi im tổ chức một
vài hội nghị mà chúng hầu như không thu hút sự chú ý của quốc tế, là một
con đường chắc chắn để nhượng mất biển Đông Nam Á. Việt Nam là một nước
có chủ quyền không phải là một nước chư hầu và Việt Nam có lợi ích
chiến lược riêng của mình độc lập và, tất yếu, khác với TQ. Mối quan hệ
của ĐCSVN với ĐCSTQ và các mối quan hệ của Việt Nam với TQ phải dựa trên
nguyên tắc hợp tác và không gia trưởng.
Đối với Washington, ĐCSVN có quyền hoài nghi. Tất
cả các nước và các quốc gia cần hoài nghi về sự nhất định phá sản về
trí tuệ của Hoa Kỳ phụ thuộc vào thế giới theo các nguyên tắc thị
trường. Ngoài ra, ĐCSVN nên thận trọng về sự phân chia có mặc cả khu vực
ảnh hưởng giữa các cường quốc lớn, ở đó quyền lợi của đất nước bị giày
xéo. Mặt khác, có rất nhiều thứ thu lượm được về kinh tế và về các lĩnh
vực khác thông qua sự can dự tích cực và năng động hơn với Mỹ. Vun bồi
một mối quan hệ chặt chẽ hơn với Mỹ cũng không nhất thiết kéo theo một
trò chơi tổng bằng không đối với Bắc Kinh, như chúng tôi sẽ nhấn mạnh
hơn, dưới đây. Than ôi, quan hệ đối tác của ĐCSVN với Mỹ, và thực sự chỗ
đứng của Việt Nam trong các vấn đề quốc tế, hiện nay bị giới hạn do
ĐCSVN một mực muốn duy trì một hệ thống chính trị áp bức. Điều này đưa
chúng ta thẳng tới lý do rằng nếu ĐCSVN vun quén mối quan hệ sâu xa hơn
với Washington, Washington sẽ đòi hỏi giảm bớt các trói buộc lên các
quyền tự do cơ bản (ngôn luận, lập hội, vv…), thì sự cai trị độc đảng sẽ
bị đặt trong tình trạng nguy hiểm. Một cái nhìn như vậy là sai lầm, tuy
nhiên, trong chừng mực giả định rằng ĐCSVN không có khả năng tự cải
cách.
Làm thế nào mà một bài viết về tuyên bố chủ quyền
của Việt Nam ở biển Đông Nam Á lại dẫn chúng ta đến một cuộc thảo luận
về chính ĐCSVN? Điều này có thể được nêu ra bằng những ngôn từ rất đơn
giản. Chính quan điểm của chúng tôi là an ninh quốc gia của Việt Nam và
lợi ích quốc gia, về kinh tế và những mặt khác, sẽ được hưởng lợi to lớn
từ việc cải thiện tầm vóc quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, cải thiện
tầm vóc quốc tế của Việt Nam sẽ chỉ đi kèm với cải cách thể chế cơ bản,
trong đó có cải cách chính trị và kinh tế mà Việt Nam rõ ràng rất cần.
Có rất, rất nhiều người Việt Nam, kể cả hàng tá người có nhiều liên hệ
lâu dài với ĐCSVN nhận ra rằng Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ một chính
phủ có năng lực và có trách nhiệm hơn và một hệ thống chính trị và nền
dân chủ cởi mở hơn, hệ thống đó hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam
và nguyện vọng của mọi người Việt Nam. Thực hiện cải cách cơ bản không
nhất thiết có nghĩa là sự cáo chung của ĐCSVN. Có rất nhiều người thông
minh và có tài nhưng đã phải đứng bên lề một cách không cần thiết do sự
bảo thủ chính trị và chính trị của các nhóm lợi ích. Ngược lại, chúng
tôi tin rằng Việt Nam sẽ được hưởng lợi to tát từ những cải cách cơ bản.
Và rằng những cải cách như vậy sẽ không những mở đường cho một nền kinh
tế sôi động hơn mà cũng đưa Việt Nam ngang tầm với phần lớn các nước
trên thế giới có cùng khát vọng về tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng
và các giá trị con người khác, qua đó củng cố vị thế quốc tế của Việt
Nam và cuối cùng tăng cường vị trí của Việt Nam trong các vấn đề khu vực
và thế giới. Khi đó – và chỉ khi đó – Việt Nam và TQ sẽ có thể đứng
ngang nhau.
Ghi chú:
[i]
Ts. Jonathan D. London là giáo sư ĐH thành phố Hong Kong. Ts. Vũ Quang
Việt là một nhà phân tích độc lập và là cựu chuyên viên phân tích thống
kê LHQ.
[iii] Hành động này của vua Gia Long đã được hai người nước ngoài ghi nhận.
Giám mục Pháp Jean Louis Taberd viết rằng vua Gia
Long đã cắm cờ Việt Nam ở Hoàng Sa năm 1816 trong Note on the Geography
of Cochin China, xuất bản bằng tiếng Anh trong Journal of the Asiatic Society of Bengal, Issue 69, 1837, page 745. Taberd viết: “The
Pracel or Parocels, is a labyrinth of small islands, rocks and
sand-banks, which appears to extend up to the 11th degree of north
latitude, in the 107th parallel of longitude from Paris. Some navigators
have traversed part of these shoals with a boldness more fortunate than
prudent, but others have suffered in the attempt. The Cochin Chinese
called them Cón uáng [Cát Vàng – or Hoang Sa in Vietnamese which refers
to the Paracels]. Although this kind of archipelago presents nothing but
rocks and great depths which promises more inconveniences than
advantages, the king GIA LONG thought he had increased his dominions by
this sorry addition. In 1816, he went with solemnity to plant his flag
and take formal possession of these rocks, which it is not likely any
body will dispute with him.” [Quần đảo Pracel hoặc Parocels, là một
mê cung các đảo nhỏ, đá và bãi cát, nằm trãi rộng tới 11 độ vĩ bắc, ở
kinh tuyến 107 so với Paris. Một số nhà hàng hải đã dạn dĩ đi qua được
một phần những bãi cát ngầm này nhờ may mắn hơn là thận trọng, nhưng
những người khác đã nỗ lực nhưng bị trả giá. Người Nam Kì (Cochin
Chinese) gọi chúng là con uang [Cát Vàng - hay Hoàng Sa theo tiếng Việt
khi nói tới quần đảo này]. Mặc dù loại quần đảo này không có gì khác
ngoài các đảo đá và các độ sâu lớn hứa hẹn bất nhiều bất tiện hơn là
thuận lợi, vua Gia Long nghĩ rằng ông làm tăng lãnh địa của mình lên
bằng cách thêm vào các đảo cằn này. Năm 1816, ông đã long trọng cắm lá
cờ của mình và thực hiện việc chiếm hữu chính thức các đảo đá này, mà ít
có khả năng bất kỳ ai khác sẽ tranh chấp chúng với ông].
Taberd cũng vẽ ra một bản đồ An Nam (tên Việt Nam lúc đó) rất chuyên nghiệp – Annam Đại Quốc Họa Đồ – Tabula Geographica Imperii Ananmitici bao gồm quần đảo Hoàng Sa. Bản đồ này được in trong quyển tự điển của Ông tên Latin Vietnamese Dictionary.J. L Taberd, Dictionarium Anamitico Latinum,
xuất bản năm 1838, bởi J. Marshnam, in Serampore (Bengale) và được in
lại photocopy bởi NXB Văn Hóa và Trung Tâm Nghiên cứu Quốc học, 2004,
Vietnam.
Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825), là một lính hải quân và nhà thám hiểm Pháp, viết trong quyển Memoire sur la Cochinchine
(Hồi ức về xứ Nam Kì) về sự kiện xảy ra vào một lúc nào đó trước khi
ông chết vào năm 1825; quyển sách được xuất bản năm 1925 sau khi ông mất
trong Bulletin Des Amis du Vieux Hue, số. 2, 4, và 6.
[iv] Hành động của vua Minh Mạng được ghi chép trong lịch sử chính thức Ðại Nam Thực Lục Chính Biên (大南寔錄正編)
(q. 104, 122, 154, 165). Hành động của vua Thiệu Trị được ghi chép
trong các Châu Bản thờiThiệu Trị (q. 42 tr. 83, và q. 51 tr. 125)—dù
không được ghi chép trong lịch sử chính thức.
[v]
Sức ép lực của quan chức địa phương đã được phản ánh trong các thư do
Khâm Sứ An Nam, Huế, gửi Thống đốc Đông Dương vào ngày 22 tháng 1 năm
1929, lập luận sự kiện là quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam, kê ra các
hành động của vua Gia Long đã được Giám mục Taberd khẳng định, và Bộ
trưởng Bộ An Nam Thân Trọng Huề trước khi qua đời. Bức thư nói rằng Pháp
nên phản ứng tuyên bố chủ quyền vào năm 1909 của Tổng đốc tỉnh Quảng
Đông. (Xem Monique Chemillier-Gendreau, Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands,
Kluwer Law International, 2000, Annex 8, p.180-182.) Xem thêm thảo luận
về lịch sử quần đảo Hoàng Sa như một phần của sức ép liên tục của
Lacombe (Alexix Elijah), L’histore moderne des l’iles Paracels, L’Eveil de l’Indochine, Hanoi, Vietnam, No. 788, 22 Mai 1932.
[vi] Monique Chemillier-Gendreau, ibid., p. 37.
[vii] French Ministry of Foreign Affairs, French Journal Official, July 26, 1933 (page 7837).
[viii] Sự có mặt của người Nhật và Hoa ở Trường Sa được tường thuật trong Economie de L’Indochine 19 Mai 1929, (http://hoangsa.org/forum/downloads/63868-N5561322_PDF_1_-1EM.pdf)
published in Hanoi. Bài báo có một ảnh chụp hồi tháng 7/1926 cho thấy
một bến cảng dài 300m do người Nhật xây để vận chuyển phosphate xuống
tàu. Xem thêm Marwyn Samuels, Contest for the South China Sea, New York/London, 1982, p. 55-60.
[ix]
Monique Chemillier-Gendreau, ibid., Annex 10, pages -184-196: Note of
29 September 1932 from the Legation of the Chinese Republic in France to
the Ministry of Foreign Affairs, Paris.
[x] James William Morley, The Soviet-Japanese Peace Declaration, Political Science Quarterly, Summer 1957
[xi] Treaty of Peace with Japan. http://www.taiwandocuments.org/sanfrancisco01.htm
[xii] Treaty of Peace between the Republic of China and Japan. http://www.taiwandocuments.org/taipei01.htm
[xiii]
The Issue of South China Sea, Ministry of Foreign Affairs People’s
Republic of China June 2000. Posted on the website of Federation of
American Scientist: http://www.fas.org/news/china/2000/china-000600.htm.
[xiv] B.Raman, Re-visiting the South China Sea, 3 April 2001. http://www.southasiaanalysis.org/%5Cpapers3%5Cpaper222.htm
[xv] China’s Ministry of Foreign Affairs. http://www.fmprc.gov.cn/eng/topics/3754/t19231.htm
[xvi]
Xuất bản bởi Sở hồ sơ lịch sử Trung Quốc số 1 thành phố Quảng Châu,
Chính quyền quậnViệt Tú thành phố Quảng Châu People’s Government
Archives (广州市档案馆 中国第一历史档案馆 广州市越秀区人民政府), 2003.
[xvii]
Lịch sử của bản đồ này được mô tả trong Cordell D.K. Yee, Chapter 7,
Traditional Chinese Cartoghraphy and the Myth of Westernization trong The History of Cartography, Volume 2, Book 2, the University of Chicago Press, 1994.
[xviii] Ref. K.top. 116.15, 15a. 15b.2 (K.Top là cách viết tắt của King’s Topographical collection)
[xix] Monique Chemillier-Gendreau, Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands, Kluwer Law International, 2000, page 130.
[xx]
“Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra tuyên cáo
như sau: “Vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng
đối với mỗi dân tộc. Trong vấn đề biên giới lãnh thổ, các nước láng
giềng thường có sự tranh chấp do lịch sử để lại, có khi rất phức tạp,
cần được nghiên cứu. Trước sự phức tạp của vấn đề, các nước có liên quan
cần xem xét vấn đề này theo tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau,
hữu nghị và láng giềng tốt, và giải quyết bằng thương lượng.” Tuyên bố
của CPCMLT Miền Nam VN.
[xxi] Peter Kien-Hong Yu, “The Chinese (Broken) U-shaped line in the South China Sea: Points, Lines and Zones”, Current Southeast Asia,
vol. 25, no. 3, 2003. p. 407. Về việc vẽ ra tuỳ tiện đường chữ U 11
vạch do Bạch Mi Sơ, một viên chức của THDQ tưởng ra vào năm 1947, Yu
viết: “It is quite probable, however, that he was prompted by a
primordial possessive instinct (that as the adage goes, views possession
as nine-tenths of the law.) Indeed, Bai notes the French occupation
(from July 1933) of six islands in the Nansha (or Spratly) island group
the South China Sea (SCS) and states that or arguably felt that Chinese
sovereignty must somehow be protected.” [Tuy nhiên, có nhiều khả năng là
ông đã được thúc đẩy bởi bản năng sở hữu sơ khai (mà như câu ngạn ngữ
nêu, xem sở hữu như chín phần mười của pháp luật.) Thật vậy, Bạch Mi Sơ
lưu ý Pháp chiếm đóng (từ tháng 7 năm 1933) sáu hòn đảo trong nhóm đảo
Nam Sa (hay Trường Sa) ở biển Nam Trung Hoa (biển Đông) và nói rằng hay
cảm thấy rằng chủ quyền của Trung Quốc phải được bảo vệ bằng cách nào đó
]. Sau đó năm 1947 bản đồ này được THDQ phát hành (xem Li Jinming and
Li Dexia, The Dotted Line on the Chinese Map of the South China Sea: A
Note, Ocean Development & International Law, 34:287–295, 2003).