THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Sáu, ngày 22/2/2013
TTXVN (Hồng Công 18/2)
Từ lâu, mối quan hệ giữa Mỹ với Trung Quốc đã ẩn chứa nhiều vấn đề phức tạp do quan hệ của riêng hai nước này với Đài Loan, hòn đảo tự tách ra và tuyên bố độc lập với Trung Quốc trong nhiều năm qua. Mạng tin “Thời báo châuÁ trực tuyến” vừa đăng bài viết của Giáo sư BrantlyWomack, chuyên gia về các vấn đề đối ngoại thuộc Đại họcVirginia (Mỹ), trong đó tác giả cho rằng đã đến lúc phải thay đổi mối quan hệ tam giác Mỹ-Trung Quốc-Đài Loan. Dưới đây là nội dung bài viết:
Tương lai của Đài Loan là song hành với Trung
Quốc, chứ không phải chống lại Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn chưa có hình
ảnh mới nào về mối quan hệ tay ba của Oasinhtơn, Bắc Kinh và Đài Bắc để
thay thế cho tam giác an ninh Mỹ-Trung Quốc-Đài Loan được hình thành từ
kỷ nguyên Chiến tranh Lạnh.
Đài Loan sẽ không khoác thêm lên mình một phần
đồng phục của nước CHND Trung Hoa, cũng không đạt được sự công nhận trên
phạm vi toàn cầu là một quốc gia có chủ quyền, và vẫn sẽ có những cuộc
thảo luận về lựa chọn tái thống nhất hoặc độc lập của nước này.
Thân phận mơ hồ nhưng không bất ổn của Đài Loan
trong vai trò là một phần tự trị của Trung Quốc tạo ra một nền tảng quen
thuộc và vững chắc cho các hoạt động của khu vực Đông Á trên toàn cầu,
đặc biệt là trong lĩnh vực sáng tạo và tri thức. Vị trí của Đài Loan nên
được coi là một cơ hội. Thay vì coi Đài Loan là một nguy cơ an ninh, Mỹ
sẽ sử dụng hòn đảo này như một điểm tương tác trong quan hệ với Đông Á.
Tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải suy nghĩ lại về tam giác quan hệ
Mỹ-Trung Quốc-Đài Loan.
Tam giác an ninh Oasinhtơn-Bắc Kinh-Đài Bắc đã
trở nên nổi bật trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh như là kết quả của mối
quan hệ thù địch không thể hòa giải được giữa nước CHND Trung Hoa (Trung
Quốc) với Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và cường quốc quân sự Mỹ.
Những tuyên bố của CHND Trung Hoa và Trung Hoa
Dân Quốc rằng họ là chính quyền duy nhất của Trung Quốc và cam kết của
Mỹ kiềm chế chủ nghĩa Cộng sản đã khiến cho mối quan hệ tay ba này mang
đặc trưng không có tranh cãi ngoại giao cho đến khi Thông cáo Thượng Hải
1972 ra đời. Sau khi bình thường hóa quan hệ với nước CHND Trung Hoa,
người Mỹ cam kết đảm bảo hòa bình trong các mối quan hệ giữa hai bờ eo
biển Đài Loan, và điều này được soạn thành điều lệ trong Đạo luật quan
hệ với Đài Loan 1979, tiếp tục mối quan hệ an ninh với Đài Loan mặc dù
Mỹ cũng không công nhận Đài Loan là một quốc gia có chủ quyền.
Mối quan hệ trên trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh
là một tam giác an ninh không đối xứng cổ điển. Cường quốc mạnh nhất –
Mỹ – một “trục xoay bất đắc dĩ’ bởi vì nước này giành được ít lợi ích,
nhưng Oasinhtơn lại giữ vị trí là nước quyết định cuối cùng đối với tình
trạng căng thẳng liên tục giữa CHND Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc.
Trên thực tế, Mỹ là một nước duy trì hòa bình chứ không phải là kiến tạo
hòa bình.
Quốc gia mạnh thứ hai – nước CHND Trung Hoa, trở
nên chán nản bởi vì không có sự đe dọa can thiệp nào mà cho rằng họ có
thể thành công trong việc giải quyết căng thẳng. Kẻ yếu nhất – Đài Loan,
trở nên lo lắng vì họ biết rằng an ninh của họ phụ thuộc vào sự thù
địch giữa hai nước còn lại. Đó là một tam giác quan hệ độc nhât vô nhị:
Lợi ích của kẻ này phụ thuộc vào sự căng thẳng giữa hai kẻ còn lại. Tam
giác này cũng đòi hỏi sự ổn định cơ bản trong việc cân bằng giữa các lực
lượng.
Kể từ năm 2008, tam giác an ninh Oasinhtơn-Bắc
Kinh-Đài Bắc đã mang tính chất toàn cầu hơn, nhưng về cơ bản trở nên bất
ổn định. Mỗi một chân trong mối quan hệ tay ba này đã trở nên phức tạp
hơn. Sự thù địch trong mối quan hệ giữa Oasinhtơn và Bắc Kinh đã mang
tính chất toàn cầu hơn, nhưng cũng thận trọng hơn bởi vì mỗi nước đều
cần nước kia trong nhiều khía cạnh về mặt quản lý toàn cầu.
Trong khi đó, mối quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài
Loan đã trở thành một chỗ dựa chính đối với những triển vọng kinh tế
của Đài Loan và tránh khủng hoảng, giờ đây nó là điều sống còn đối với
sự nghiệp của các nhà lãnh đạo hai bên. Mối quan hệ giữa Mỹ và Đài Loan
đã trở nên căng thẳng bởi chính sách “bên miệng hố chiến tranh” thời
Trần Thủy Biển làm Tổng thống Đài Loan từ năm 2000 đến năm 2008, và
những nghi ngờ hiện nay xuất hiện là do các thương vụ vũ khí vẫn đang
diễn ra giữa hai bên.
Trong khi đó, Trung Quốc đã phát triển khả năng
quân sự để đáp lại sự hỗ trợ quân sự của Mỹ đối với Đài Loan. Vì vậy,
nhiều chuyên gia phân tích người Mỹ coi “vấn đề Đài Loan” là một điểm dễ
bùng nổ mang tính chất chiến lược nhất ở châu Á.
Tuy nhiên, đó là một mối quan hệ đặc biệt, trạng
thái tâm lý theo định hướng an ninh của tam giác chiến lược này mới là
vấn đề, chứ không phải là thực tế của mối quan hệ này. Các mối quan hệ
gắn kết hơn giữa Mỹ và Trung Quốc kiềm chế sự phiêu lưu giữa hai bên và
điều đó tốt cho Đài Loan. Việc cải thiện các mối quan hệ hai bờ eo biển
Đài Loan cũng mở ra những cơ hội mới cho Mỹ và họ giảm bớt nguy cơ xảy
ra các cuộc khủng hoảng.
Mối quan hệ giữa Mỹ và Đài Loan cũng có lợi cho
Trung Quốc. Những tập đoàn của Đài Loan như Foxconn đang thuê các công
nhân người Trung Quốc để sản xuất các sản phẩm dành cho người Mỹ. Lợi
ích chung trong tam giác an ninh này đã trở thành nội dung thực tế của
mối quan hệ tương tác tay ba. Hơn nữa, khả năng quân sự “chống xâm nhập
khu Vực” của Trung Quốc vẫn cho phép họ khiến Mỹ gặp nguy hiểm. Mối quan
hệ quân sự đang bùng nổ giữa Mỹ và Trung Quốc một phần trong thế bế tắc
mà ở đó cả hai bên đều có thể bị tổn thương.
Vì vậy, tam giác Oasinhtơn-Bắc Kinh-Đài Bắc cần
suy tính lại một cách cơ bản để khiến cho mối quan hệ này phù hợp hơn
với những thực tế hiện nay và trong tương lai. Những bất đồng về lợi ích
và tính chất dễ bị tổn thương vẫn tồn tại trong mối quan hệ tay ba này.
Câu chuyện của Tập đoàn Foxconn đã cho thấy một ví dụ rõ ràng, đó là
những thực tiễn lao động của tập đoàn này đã khiến các công nhân Trung
Quốc và các nhà thầu Mỹ của họ lo ngại.
Là đối tác gặp nhiều nguy hiểm nhất, Đài Loan có
lý do để thận trọng trong việc mở rộng cam kết của họ. Tuy nhiên, tam
giác quan hệ này đã trở thành một sự tương tác bao hàm cả kinh tế và xã
hội, trong đó những lợi ích giữa bất kỳ nhóm hai chủ thể nào cũng có thể
có lợi cho chủ thể thứ ba.
Đối với Mỹ, một sự tái cấu trúc tam giác quan hệ
này thành một tam giác toàn diện dựa trên những cơ hội, có thể là một
phần của chiến lược chuyển trọng tâm trở lại châu Á. Độ che phủ về mặt
tinh thần của tam giác an ninh đối với những lựa chọn của Mỹ là một tình
thế tiến thoái lưỡng nan trong quan hệ giữa nước này với một nước đang
ngày càng trở nên nguy hiểm và có ngân sách quốc phòng gia tăng mạnh.
Một mối quan hệ gắn kết và ổn định giữa hai bờ eo
biển Đài Loan là điều mong muốn. Đầu tiên, nó giảm bớt khả năng xảy ra
một cuộc khủng hoảng quân sự. Thứ hai, tam giác an ninh nói trên là gót
chân Asin của mối quan hệ Mỹ-Trung. Giảm thiểu những quan ngại của Bắc
Kinh về vai trò của Mỹ ở Đài Loan sẽ khiến cho toàn bộ mối quan hệ này
có một chỗ đứng vững chắc hơn. Thứ ba, trong một khuôn khổ đặc biệt, Đài
Loan chắc chắn lo ngại về các mối quan hệ giữa Oasinhtơn và Bắc Kinh,
nhưng trong một tam giác toàn diện họ có thể đóng vai trò sống còn và có
lợi cho sự tham gia của người Mỹ với những việc liên quan đến Trung
Quốc Đại lục. Việc coi Đài Loan là một cơ hội hơn là một vấn đề an ninh
sẽ là khuôn khổ mới và hữu ích đối với sự liên quan của Mỹ.
Có một số lợi ích đặc biệt của Mỹ cần phải tính
đến trong một tam giác toàn diện như mong muốn. Đầu tiên, một điều kiện
tiên quyết cơ bản là sự tin tưởng rằng tam giác này sẽ tạo ra một mối
quan hệ hòa bình có khả năng tự củng cố hơn là chỉ đơn giản là một giai
đoạn hòa bình có khả năng bị phá vỡ bởi sự đối đầu trong tương lai.
Sự hoạt động theo hướng một tam giác toàn diện
không đòi hỏi rằng “sự nghi ngờ chiến lược” giữa Oasinhtơn và Bắc Kinh
sẽ được thay thế hoàn toàn bàn? Sự tin tưởng chiến lược, nhưng nó đòi
hỏi sự tin tưởng của Oasinhtơn rằng Bắc Kinh hoàn toàn cam kết thực hiện
một mối quan hệ hòa bình giữa hai bờ eo biển Đài Loan và không giơ ra
một củ cà rốt mà sau đó sẽ được thay thế bằng một cây gậy.
Mối quan hệ tam giác này sẽ theo đuổi viễn cảnh
là mối quan hệ toàn diện hai bờ eo biển Đài Loan sẽ duy trì khả năng
không xảy ra các cuộc đối đầu và các vấn đề khác trong tương lai giữa
Oasinhtơn với Bắc Kinh và mối quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan sẽ không
được đưa ra để mặc cả hay làm con tin. Trong mối quan hệ này, tất cả các
bên sẽ cùng thúc đẩy những lợi ích chung thay vì chỉ tranh thủ giành
lợi ích riêng.
Thứ hai, tam giác quan hệ này phải đưa ra được
những lợi ích mới cho Mỹ. Ngoài những thiếu hụt do tam giác quan hệ gây
ra, cần phải tính đến những sự khuyến khích được tạo ra bởi mối quan hệ
toàn diện này. Đối với một vài khu vực, lợi ích có thể nhìn thấy trước
nhờ các mối quan hệ kinh tế tay ba đang tồn tại như Apple-Foxconn-Trung
Quốc. Tuy nhiên, một sự tương tác hòa bình và không gặp trở ngại trong
quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan có thể tạo ra nhiều hơn thế. Trong hơn
60 năm quan hệ kinh tế và xã hội gần gũi, Mỹ đã giúp Đài Loan có được vị
trí thuận lợi nhất ở châu Á với cả Mỹ và Trung Quốc, cũng như các mối
quan hệ gần gũi, thân thiết giữa Mỹ với Nhật Bản giúp cho Oasinhtơn, Đài
Bắc và Tôkyô có một tam giác văn hóa độc nhất vô nhị.
Mỹ và Trung Quốc có vấn đề điển hình của nước lớn
trong việc gặp khó khăn khi đương đầu trực tiếp với những hệ thống và
văn hóa khác nhau. Đài Loan có thể cung cấp một trung tâm tập trung và
phân phối nhiều phương hướng. Thương mại của Đài Loan liên quan mật
thiết với tất cả các bên; các trường đại học và các viện nghiên cứu khác
nhau của Đài Loan đang mở rộng sự hợp tác với Trung Quốc Đại lục.
Là một hòn đảo nằm ngoài khơi và dưới sự cai trị
của chính quyền riêng, Đài Loan có thể giúp bảo vệ các doanh nghiệp Mỹ
tránh khỏi những vấn đề dễ bị tổn thương như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
và các hệ thống pháp luật xa lạ. Khi thị trường Trung Quốc Đại lục trở
thành thị trường lớn nhất thế giới, một trung tâm tập trung và phân phối
với sự tiếp cận thông thoáng và không bị chính trị hóa trở nên đắt giá
hơn, và ở thời điểm đó các mối liên kết của Đài Loan với Mỹ và Nhật Bản
sẽ hấp dẫn những người làm kinh doanh ở Trung Quốc.
Thứ ba, sự thay đổi trong các mối quan hệ tay ba
sẽ tăng cường thay vì giảm bớt vai trò toàn cầu của Mỹ. Một trong những
lợi ích của mối quan hệ tay ba mới đối với việc dễ dàng rút khỏi các cam
kết quốc phòng với Đài Loan sẽ đến từ sự phát triển dựa trên cơ hội hơn
là dựa trên sự cần thiết. Điều này không chỉ đòi hỏi những cơ hội kinh
tế được tăng cường, mà còn đòi hỏi một vai trò có ảnh hưởng liên tục
trong mối quan hệ tay ba. Hơn nữa, ủng hộ một tam giác toàn diện sẽ thúc
đẩy hơn những cam kết của Mỹ đối với các giá trị như sự mở cửa, nhân
quyền, dân chủ và tự do hàng hải..
Mỹ có thể thực hiện những bước đi cụ thể nào để
tạo thuận lợi cho việc chuyển đổi từ một tam giác an ninh sang một tam
giác cơ hội? Sự ngoại giao tinh tế đă được kêu gọi thực hiện, bởi vì
hiện nay mỗi bên đang hoài nghi các sáng kiến đơn phương. Nước CHND
Trung Hoa theo dõi sự câu kết giữa Mỹ và Đài Loan, trong khi Đài Loan sợ
rằng các thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc có thể sẽ khiến hòn đảo này
trở thành vật hy sinh. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên là phải có một nhận
thức về khả năng thay đổi mô hình và sự sẵn sàng đón nhận các cơ hội
ngoại giao khi chúng xuất hiện.
Thứ hai, Mỹ nên khuyến khích đường đi của Trung
Quốc và Đài Loan cũng như các sáng kiến riêng giúp tăng cường sự toàn
diện của tam giác quan hệ mới. Thách thức cụ thể là củng cố các mối quan
hệ với Đài Loan trong bối cảnh có khả năng mạo hiểm với một mối quan hệ
hòa bình giữa hai bờ eo biển Đài Loan và có lợi cho tất cả các bên.
Thứ ba, Mỹ nên tập trung quan tâm vào các khía
cạnh kinh tế và xã hội trong mối quan hệ của nước này với Đài Loan. Đài
Loan hiện nay thường hay được thảo luận với tư cách là “vấn đề Đài Loan”
hoặc như là một khách hàng mua sắm vũ khí của Mỹ. Trên thực tế, mối
quan hệ Mỹ – Đài Loan luôn luôn là mối quan hệ nhiều mặt, chứ không phải
chỉ là những vấn đề an ninh này, sự đóng góp của Mỹ vào việc phát triển
kinh tế-xã hội của Đài Loan đã bị phủ bóng đen bởi tam giác an ninh nói
trên. Nhũng thực tế kinh tế hiện đang tôn tại và các cơ hội gắn liền
với khu vực trong tương lai nên được làm nổi bật.
Thứ tư, Mỹ cần cho thấy sự tôn trọng Đài Loan như
là một tiếng nói quôc tế. Đài Loan sẽ không bị loại ra khỏi hoạt động
ngoại giao của Mỹ liên quan đến các cuộc tranh chấp quần đảo Điếu
Ngư/Senaku và Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Đài Loan không phải là một
quốc gia có chủ quyền, nhung là một “cổ đông” trong những cuộc tranh
chấp lãnh hải này. Sự chiếm giữ liên tục của Đài Loan kể từ năm 1956 đối
với đảo Thái Bình (đảo Ba Bình của Việt Nam) ở quần đảo Nam Sa (Trường
Sa của Việt Nam) là một trong những cơ sở pháp lý mạnh mẽ nhất cho tuyên
bố chủ quyền của Trung Quốc ở khu vực này, và cam kết của Đài Loan về
một giải pháp hòa bình không thể bị nghi ngờ.
Tương tự, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối
với quần đảo Điếu Ngư/Senkaku dựa vào việc các hòn đảo này là một phần
của Đài Loan. Những đề xuất của Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu về việc
tham gia một giải pháp thương lượng sẽ được xem xét nghiêm túc.
Tam giác an ninh Oasinhtơn-Bắc Kinh-Đài Bắc đã có
lịch sử lâu dài và những sự trông đợi của tất cả các bên vẫn nằm trong
sự che phủ của tam giác này. Tuy nhiên, thực tế đã thay đổi vì một tương
lai tốt đẹp hơn. Đã đến lúc cần phải thay đổi mối quan hệ này để theo
kịp và chuẩn bị cho một sự tương tác khác trong tương lai có lợi cho tất
cả các bên.