Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

10. Mỹ trở lại châu Á- Thái Bình Dương và ứng phó của Nga

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Chủ nhật, ngày 7/4/2013
(Tạp chí “Chính trị quốc tế”, Trung Quốc, tháng 11/2012)
Học giả Vladimir Krakow thuộc Viện nghiên cứu Viễn Đông thuộc Học viện Mátxcơva nêu rõ Nga chưa có sự quan tâm đầy đủ tại thời điểm năm 2009 khi Chính phủ Obama lần đầu tiên tuyên bố Mỹ quay trở lại châu Á (nói đúng hơn là trở lại châu Á-Thái Bình Dương).
Tổng biên tập Tạp chí “Cuộc sống thế giới” thuộc Bộ Ngoại giao Nga Armen cho rằng Mỹ chưa có kế hoạch hành động để thực hiện mục tiêu chiến lược tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương trước khi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton viết bài “Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ” trên tạp chí “Chính sách ngoại giao” vào năm 2010. Quan điểm của giới học giả Nga đối với vấn đề Mỹ “quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương” được phản ánh qua nhiều bài viết trên các tạp chí chính trị học và phương Đông học như: “Nước Nga trong nền chính trị toàn cầu”,-“Cuộc sống thế giới”, “Vấn đề Viễn Đông”, “Nga và châu Á-Thái Bình Dương”, “Châu Á và châu Phi ngày nay” và các trang web như “Chính trị nước Nga hiện đại”, “Bình luận Đông phương mới”, “Bình luận Nga – Trung”. Lập trường và quan điểm của các nhà chính trị và học giả phương Đông của Nga đối với nguyên nhân, ảnh hưởng và ứng phó với việc Mỹ quay trở lại châu Á đã cung cấp cho chúng ta những đánh giá mới.
I) Nguyên nhân Mỹ “quay tr lại” châu Á-Thái Bình Dương
Học giả Nga phân tích nguyên nhân Mỹ quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương chủ yếu từ các góc độ như nguyên nhân kinh tế, cục diện chiến lược quốc tế…
Thứ nhất, việc Mỹ quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương là để thúc đẩy phục hồi kinh tế Mỹ, kiềm chế Trung Quốc, duy trì địa vị lãnh đạo kinh tế của họ. Có học giả nêu rõ Mỹ chưa bao giờ rời khỏi châu Á-Thái Bình Dương, việc nhấn mạnh quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương lần này có tính chất tiến hành một cuộc Chiến tranh Lạnh về kinh tế đối với Trung Quốc, cũng như có những tính toán kinh tế nhằm tăng cường sự phụ thuộc về an ninh của đồng minh đối với Mỹ và để xuất khẩu vũ khí. Thực chất việc Mỹ quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương là dùng sức mạnh quân sự và mạng lưới đồng minh đê bù đắp sự yếu kém và lo ngại về sức mạnh kinh tế. Chẳng hạn, Mỹ hy vọng dùng “sức mạnh mềm” và “sức mạnh thông minh” để bù đắp vào sự thiếu hụt sức mạnh cứng của họ. Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Viễn Đông thuộc Học viện Mátxcơva Sergei Lukin cho rằng việc lưỡng cực hóa Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) đã phản ánh sự tranh chấp địa vị lãnh đạo kinh tế khu vực châu Á- Thái Bình Dương giữa Trung Quốc và Mỹ. Ông nói: “Mỹ cố gắng tranh thủ quay trở lại khu vực châu Á-Thái Bình Dương là nhằm chiếm lấy một không gian để thực hiện phương án thị trường chung của mình. Tại Hội nghị thượng đỉnh APEC tổ chức vào tháng 11/2011, Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) do Mỹ đưa ra đã gây tranh cãi quyết liệt. Hơn nữa, Mỹ còn cố ý quên mời Bắc Kinh tham gia”.
Về TPP, các học giả Nga nêu rõ hiệp định này thực tế là biện pháp để chèn ép Trung Quốc, làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nghiên cứu viên Viện nghiên cứu an ninh quốc tế thuộc Học viện khoa học Nga Alexei Fenenko cho rằng xây dựng TPP là thử nghiệm của Mỹ một là nhằm làm cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương phát triển theo hướng có lợi cho họ, động cơ chủ yếu của họ là xây dựng quan hệ kinh tế với các quốc gia hai bờ Thái Bình Dương. Hai là làm suy yếu và kiềm chế các tổ chức liên kết khu vực như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ngăn chặn sự liên kết của các quốc gia Đông Nam Á. Ba là Mỹ và Nhật Bản muốn thông qua TPP để lôi kéo các nước ASEAN đã ký hiệp định tự do thương mại với Trung Quốc, làm suy yếu ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc đối với các nước ASEAN, ngăn chặn việc xây dựng Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN trong tương lai. Bốn là phá vỡ hệ thống hiệp thương chính trị trong khuôn khổ các tổ chức chính trị đã được thừa nhận rộng rãi như ASEAN + 3, ASEAN+6. Ôxtrâylia, Niu Dilân, Nhật Bản càng muốn tham gia nhiều hơn khuôn khổ TPP do Mỹ lãnh đạo. Các nước như Malaixia, Xinhgapo, Việt Nam… đang xây dựng hệ thống hiệp thương TPP để thay thế ASEAN. Năm là thông qua TPP để điều chỉnh hệ thống đồng minh xuyên Thái Bình Dương do Mỹ lãnh đạo, bao gồm đồng minh Mỹ – Nhật Bản, ANZUS (Hiệp ước an ninh Ôxtrâylia, Niu Dilân, Mỹ), quan hệ đối tác Mỹ – Mỹ Latinh (Chilê, Pêru).
Học giả Nga nêu rõ Mỹ cho rằng Trung Quốc có dã tâm địa chính trị, muốn quảng bá mô hình chính trị của mình, điều này làm Mỹ lo ngại. Nhà nghiên cứu lịch sử Igor Vladimirovich nêu rõ Obama đưa ra chiến lược mới là để ngăn chặn sự phát triển của Trung Quốc, làm yếu đi ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nhà ngoại giao Boris Gryzlov cho rằng: “Giới tri thức và tinh hoa chính trị của Mỹ lo ngại sự tăng cường địa vị kinh tế của Trung Quốc có thể thay đổi ảnh hưởng chính trị toàn cầu, trở thành kẻ cạnh tranh mạnh mẽ đối với Mỹ. Do đó, trong bất kỳ tình huống nào, họ đều có ý nhấn mạnh thế kỷ của Mỹ còn lâu mới kết thúc”. Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tình hình chính nước Nga Pavel Saleen nhấn mạnh Mỹ không thể chấp nhận Bắc Kinh có ý đồ chuyển sức mạnh kinh tế sang thách thức Mỹ về chính trị. Trọng điểm của việc Mỹ ngăn chặn chiến lược toàn cầu của Trung Quốc hiện nay là lấy kinh tế làm biện pháp chủ yếu, lấy quân sự để hỗ trợ, trên nhiều phương diện, chẳng hạn như những cuộc gây hỗn loạn ở Libi và Xuđăng là nhằm đánh vào lợi ích kinh tế của Trung Quốc. Krakow nêu rõ học giả Nga đã thừa nhận thực tế Mỹ “quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương”, đồng thời giải thích mục đích của Mỹ là tăng cường địa vị và uy tín quốc tế đang bị lung lay của họ. Mỹ chú ý đến tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế thế giới của các nước châu Á-Thái Bình Dương, nên hy vọng biến chính sách châu Á-Thái Bình Dương của mình thành công cụ chiến lược hiệu quả để thúc đẩy phục hồi kinh tế Mỹ, việc “quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương” đã xem xét vấn đề công khai kiềm chế “sự trỗi dậy của Trung Quốc”.
Một quan điểm khác nêu rõ việc Mỹ quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương là để cân bằng so sánh lực lượng tại khu vực này, thực hiện trách nhiệm đối với đồng minh, duy trì địa vị lãnh đạo tại khu vực này. Tổng biên tập Tạp chí “Nước Nga trong nền chính trị toàn cầu” Fyodor Romanov nhấn mạnh một số quốc gia châu Á-Thái Bình Dương hy vọng được bảo vệ với sự giúp đỡ của Mỹ, nhằm tránh các rủi ro do sự hùng mạnh của Trung Quốc gây ra. Ý đồ đó bị Mỹ lợi dụng, tôn chỉ ngoại giao chủ yếu của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương là tăng cường quan hệ với những quốc gia mong muốn Mỹ làm đối trọng với Trung Quốc hoặc liên kết đồng minh mới, như một số đồng minh truyền thống như Ôxtrâylia, Phillíppin, Xinhgapo, Thái Lan, Nhật Bản…. và các nước mới như Việt Nam, Ấn Độ… Việc Trung Quốc có cảm giác bị bao vây là có thật. Viện trưởng Viện khoa học về vấn đề địa chính trị Nga Leonid Ivashov cho rằng: “Tăng cường sự hiện diện tại Xinhgapo là một bộ phận cấu thành sự đối đầu quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc”. Học giả Armen nhấn mạnh “Chúng ta sẽ nhanh chóng nhìn thấy sự tăng cường tổ chức chính trị quân sự cũ và nảy sinh những tổ chức chính trị quân sự mới”. Mỹ và đồng minh của họ có thế phát triển thành “NATO của châu Á”.
Đài Tiếng nói nước Nga nêu rõ Mỹ có ý đồ dựa vào các đồng minh và đối tác để xây dựng bức tường thành chống Trung Quốc tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Mục đích của cuộc tập trận chung “Balikatan” không những là để cảnh báo Bắc Triều Tiên, mà còn có ý đồ gây sức ép chính trị quân sự với Trung Quốc. Học giả Alexei Maslov thuộc Đại học Kinh tế nói: “Khoảng 10 năm trước, chỉ dùng phương thức chính trị để giải quyết xung đột, còn hiện nay các bên đang trở lại khái niệm duy trì răn đe quân sự trong xung đột. Ở khu vực này, ngày càng có nhiều quốc gia ASEAN và láng giềng của họ tham gia tập trận chung”. Mỹ còn lợi dụng sức mạnh mềm văn hóa như điện ảnh để thâm nhập vào Trung Quốc, chẳng hạn như bộ phim “Chiến hạm” (Battleship) ra mắt ở Trung Quốc tháng 4/2012 đã ra sức giương cao cuộc tập trận chung Mỹ – Nhật, tác động tiêu cực đến tâm lý của dân chúng Trung Quốc.
Học giả Nga coi việc Mỹ “quay trở lại châu Á” là biện pháp đánh đòn phủ đầu để bảo vệ địa vị lãnh đạo của Mỹ, kiềm chế những đối thủ cạnh tranh tại châu Á-Thái Bình Dương. Học giả Sergei Mikhnevich coi hành động của Mỹ tại châu Á là biện pháp phòng ngừa. Ông cho rằng Mỹ thấy các quốc gia ở châu Á có thể đoàn kết với nhau dưới sự lãnh đạo của Trung Quốc, Mỹ không thể chấp nhận một quốc gia chuẩn bị thách thức địa vị lãnh đạo thế giới của họ đang phát triển mạnh mẽ. Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu vấn đề Mỹ và Canada thuộc Học viện khoa học Nga Paevl Solotarow cho rằng: “Chiến lược quốc phòng mới là sự kéo dài chính sách quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương, đó là tăng cường quan hệ với đồng minh hiện có và câu kết đồng minh mới tại khu vực này, mục đích chủ yếu của họ là kiềm chế Trung Quốc”.
II) Ảnh hưởng của việc Mỹ “quay trở lại” châu Á-Thái Bình Dương
Học giả Nga cho rằng Mỹ sẽ coi châu Á-Thái Bình Dương là một vành đai quan trọng trên thế giới để kiềm chế Trung Quốc, đồng thời tăng cường gây áp lực chiến lược đối với Xyri và Iran, chèn ép không gian quốc tế của Trung Quốc, bóp nghẹt yết hầu năng lượng của Trung Quốc, đồng thời làm suy yếu, thậm chí loại bỏ sức mạnh quân sự nòng cốt của Nga. Chiến lược “quay trở lại” châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ có ảnh hưởng sâu rộng đến quan hệ Nga – Mỹ, quan hệ Trung – Mỹ và cục diện châu Á- Thái Bình Dương.
1) nh hưởng đi với quan hệ Nga – Mỹ
Việc Mỹ “quay trở lại” châu Á-Thái Bình Dương đã xâm phạm đến lợi ích của Nga, làm gia tăng mâu thuẫn giữa Nga và Mỹ, đồng thời thúc đẩy Nga hướng về châu Á-Thái Bình Dương. Nhà nghiên cứu chính trị Sergei Mikheyev nêu rõ Mỹ tích cực thúc đẩy chủ trương xây dựng TPP, nhưng họ không mời Nga, cũng không mời Trung Quốc tham gia hiệp định này. APEC không thể tiếp tục là công cụ để Mỹ gây ảnh hưởng đến Thái Bình Dương. Việc Mỹ phản đối ý kiến của Nga liên quan đến việc xây dựng Quỹ chuyển giao công nghệ trong khuôn khổ APEC vừa là hành động chống Mátxcơva, vừa là hành động chống Bắc Kinh, vấn đề hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo làm cho quan hệ Nga – Mỹ đã xấu lại càng xấu hơn. Krakow cho rằng Mátxcơva coi hệ thống lá chắn tên lửa mà Mỹ triển khai ở châu Âu (lần này là Ba Lan và Rumani) là hành động phá hoại nguyên tắc “an toàn bình đẳng”. Trong bài viết “Trở thành cường quốc: Bảo đảm an ninh quốc gia Nga”, Tổng thống Nga Putin nêu rõ: “Phải có những bước đi kiên định về mặt tăng cường hệ thống phòng thủ không gian quốc gia”. Ông giải thích: “Chính sách của Mỹ và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) trong vấn đề triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa buộc chúng ta phải lựa chọn hành động trên”. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nga Anatoly Anonov cũng nêu rõ: “Bộ phận cấu thành hệ thống phòng thủ tên lửa toàn cầu của Mỹ tại các khu vực khác cũng có tiềm năng nhằm vào Nga. Việc kết hợp lá chắn tên lửa tại châu Âu với các căn cứ của hệ thống phòng thủ tên lửa tại Alaska và khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ nâng cao khả năng tổng hợp phòng thủ của hệ thống lá chắn tên lửa Mỹ”. Putin nhấn mạnh chuyển hướng quân sự sang châu Á-Thái Bình Dương, nêu rõ phục hưng thực sự hải quân “viễn dương”, trước hết là phục hưng sức mạnh hải quân ở khu vực phía Bắc và Viễn Đông, là một trong những phương hướng nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay của Nga.
Krakow cho rằng hy vọng “tái khởi động” hoặc cải thiện quan hệ Nga – Mỹ được thực hiện trong mấy lĩnh vực: Thúc đẩy đàm phán về hạn chế vũ khí tấn công chiến lược; Mỹ từ bỏ kế hoạch xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa tại Cộng hòa Séc và Ba Lan được xây dựng dưới thời Tống thống Bush con. Mỹ ngừng kế hoạch lôi kéo các quốc gia Đông Âu thuộc Liên Xô trước đây như Grudia và Ưcraina gia nhập NATO. Đúng như những điêu mà Putin nói: “Trong quan hệ Nga – Mỹ, chúng ta mong muốn phát triển quan hệ lâu dài hơn với Mỹ, có sự đột phá mang tính thực chất hơn. nhưng điều kiện là Mỹ phải thực sự tuân thủ nguyên tắc quan hệ đối tác bình đăng và tôn trọng lẫn nhau”.
2) Ảnh hưởng đối với quan hệ Trung – Mỹ
Học giả Nga đã phân tích vấn đề, hiện trạng và xu hướng của quan hệ Trung – Mỹ và ảnh hưởng của việc Mỹ “quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương” đối với quan hệ Trung – Mỹ, bao gồm vấn đề cục diện Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), tranh chấp lãnh thổ.
Học giả Nga nêu rõ tương lai quan hệ Trung – Mỹ rất có khả năng sẽ là hợp tác trong đấu tranh, nếu Trung Quốc và Mỹ chưa thể kiềm chế nhân tố mang tính xung đột trong quan hệ song phương, thì sẽ dẫn đến đối đầu nhiều hơn. Học giả Andrei Davvdov ở Viện nghiên cứu Viễn Đông thuộc Học viện khoa học Nga cho rằng: Vấn đề quan trọng nhất của quan hệ Trung – Mỹ không phải là nhân tố kinh tế, mà là nhân tố chiến lược quân sự. Hai bên ở vào thời kỳ hình thành một mô hình đối tác toàn cầu mang một nhân tố cạnh tranh. Krakow nêu rõ: Việc Mỹ “quay frở lại châu Á-Thái Bình Dương” có thể làm cho mâu thuẫn trong quan hệ Trung – Mỹ trở nên sâu sắc hơn. Tình cảm tốt đẹp mà dân chúng Trung Quốc dành cho Mỹ giảm đi, đánh giá tiêu cực của giới học giả đối với chính sách của Mỹ ở châu Á chiếm vai trò chủ đạo. Các phương tiện truyền thông của Nga chú ý đến quan điểm “sự tin cậy lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ giảm đi, hai nước có thể xảy ra xung đột trong 10 năm nữa” nêu trong Báo cáo “Sự nghi ngờ chiến lược Trung – Mỹ: Phân tích và ứng phó”, Họ cho rằng nếu những dự báo của báo cáo này thành hiện thực, khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ trở thành chiến trường đối đầu quyết liệt giữa Trung Quốc và Mỹ. Đương nhiên, giới học giả Nga cũng đánh giá lạc quan về quan hệ này. Cùng quan điểm với Henry Kissinger, Viện trưởng Học viện ngoại giao Nga Evgeniya Bazanov cho rằng Trung Quốc và Mỹ có thể tránh thành được sự đối đầu nghiêm trọng: “Hai nước đều hiểu đa số vấn đề toàn cầu đều không thể tự giải quyết hoặc dùng biện pháp đối đầu để giải quyết. Thế là xuất hiện một tình thế rất phức tạp: Một mặt là đấu tranh, mặt khác là hợp tác”.
Học giả Nga cho rằng vấn đề Biển Đông trở thành cái cớ để Mỹ can thiệp vào quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN. Học giả Ana thuộc Đại học Saint Petersburg nhận định những tranh chấp này (tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN tại Biển Đông) đã tạo ra môi trường có lợi để Mỹ thực hiện chính sách “quay trở lại châu Á”, một mặt giúp Mỹ mở rộng hợp tác với ASEAN, mặt khác kiềm chế ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực. Một học giả Nga cho rằng: “Vấn đề Biển Đông của Trung Quốc hiện nay đã bước vào giai đoạn phân chia phạm vi quyền lực. Trung Quốc có trọng điểm của mình, Mỹ cũng có trọng điểm của họ. Mặc dù Bộ Quy tắc về cách ứng xử của các bên Biển Đông đang được soạn thảo, nhưng chẳng nước nào có thể tuân thủ, tất cả mọi vấn đề sẽ được giải quyết cứng rắn thô bạo bằng bạo lực”.
Chuyên gia Nga còn chú ý đến việc các nước phương Tây như Mỹ lợi dụng các quốc gia như Mianma để kiềm chế Trung Quốc, Học giả Boris thuộc Viện nghiên cứu chiến lược nêu rõ: “Sau khi phe đối lập giành thắng lợi trong cuộc bầu cử quốc hội bổ sung tại Mianma, Trung Quốc, Ấn Độ và các nước phương Tây đã bắt đầu một cuộc đấu mới vì lợi ích của mình. Các nước phương Tây ra sức giúp bà Aung San Suu Kyi trở thành lãnh tụ tiềm năng của đất nước, nhằm chặt một tay của Trung Quốc. Học giả Felix Yurlov thuộc Viện Đông phương thuộc Học viện khoa học Nga cho rằng: “Mianma đã trở thành chiến trường xung đột lợi ích giữa Trung Quốc với thế giới phương Tây”. Cũng có học giả cho rằng sự can dự của Mỹ vào quan hệ Trung Quốc – Mianma là rất hạn chế. Tuy Mỹ đã gây thiệt hại cho Trung Quốc, làm cho Mianma ngừng xây dựng đập thủy điện Myitsone đe dọa đường ống dẫn khí đốt giữa Trung Quốc và Mianma, làm yếu đi ảnh hưởng của Trung Quốc tại Mianma, nhưng Chính quyền Thein Sein không thể duy trì quyền lực nếu không có sự ủng hộ của Trung Quốc, bởi vì chính
quyền hiện nay của Mianma được Trung Quốc đảm bảo cho vay nợ. Trung Quốc có ưu thế mà Mỹ không thể so sánh được về mặt duy trì ổn định tình hình chính trị tại Mianma.
3) nh hưởng đi với cục diện châu Á-Thái Bình Dương
Các phương tiện truyền thông và học giả Nga thể hiện sự quan tâm cao độ đối với vấn đề điều chỉnh chiến lược quân sự mới của Mỹ như mở rộng sự hiện diện quân sự tại Ôxtrâylia, cục diện bán đảo Triều Tiên. Cơ quan ngoại giao Nga nhận định đây là hành động làm cho tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương phức tạp hơn.
Học giả Victor Nikolaevich ở Viện nghiên cứu Viễn Đông thuộc Học viện khoa học Nga nêu rõ chiến lược “quay trở lại châu Á” là sự bổ sung để tiếp tục tăng cường ưu thế về sự hiện diện quân sự và sức mạnh quân sự của Mỹ tại khu vực này. Trong tình hình thu hẹp lực lượng quân sự tại khu vực khác, Mỹ đã điều chỉnh trọng tâm chiến lược sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương, về tổng thể, có thể dự báo, chính sách châu Á- Thái Bình Dương của Mỹ là để tăng cường sức mạnh hải quân và không quân, tiếp tục triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa nhằm vào khu vực Đông Á, tăng cường căn cứ quân sự tại Guam và Okinawa, tăng cường viện trợ cho các đồng minh tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương; xây dựng tổ hợp quân sự hùng mạnh mới mang tính thực chất tại phía Tây Nam Thái Bình Dương; triển khai 2500 lính thủy đánh bộ, tàu chiến và lực lượng không quân đi cùng tại thành phố Darwin ở miền Bắc Ôxtrâylia. Thực thi hàng loạt biện pháp này rõ ràng là nhằm vào Trung Quốc và khu vực Biển Đông, Mỹ đã thực hiện chính sách công khai đối đầu vói Trung Quốc.
Về vấn đề bán đảo Triều Tiên, Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu Triều Tiên thuộc Viện nghiên cứu Viễn Đông – Học viện khoa học Nga Alexander quy kết tình hình bán đảo Triều Tiên xấu đi trong năm 2010 hoàn toàn do lỗi của Mỹ. Ông cho rằng Hàn Quốc mong muốn đẩy nhanh sự sụp đổ của chế độ Bắc Triều Tiên và thiết lập sự kiểm soát trên toàn bán đảo Triều Tiên, từ đó trực tiếp đưa vũ khí của mình đến biên giới Trung – Nga. Tuy nhiên, đến năm 2011, Chính quyền Obama đã ý thức được rằng sách lược dùng vũ lực đế gây sức ép với Bắc Triều Tiên là không khả thi, vì thế Mỹ đã bổ nhiệm đặc phái viên mới của ngoại trưởng phụ trách Triều Tiên và Trưởng đoàn đàm phán của Mỹ tham gia Đàm phán Sáu bên về vấn đề hạt nhân của bán đảo Triều Tiên để khôi phục lại sự tiếp xúc giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên. Từ ngày 29-30/3/2012, Viện nghiên cứu Viễn Đông của Nga và Viện nghiên cứu quốc gia của Hàn Quốc đã tổ chức “Hội thảo về vấn đề an ninh trên bán đảo Triều Tiên”. Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu Triều Tiên thuộc Đại học Mátxcơva nêu rõ không thể hy vọng chính quyền Bắc Triều Tiên sụp đổ (hoặc thực hiện một cuộc “Cách mạng sắc màu”), mà phải tích cực chờ đợi và hướng theo tiến trình cải cách mở cửa của Bắc Triều Tiên. Lựa chọn duy nhất của Nga chính là tích cực tham gia cải cách mở cửa mà Bắc Triều Tiên có khả năng thực hiện, chuyển hướng chính sách bị động về Bắc Triều Tiên sang chính sách hợp tác láng giềng thiết thực một cách tích cực chủ động.
Học giả Nga coi việc Mỹ quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương và hành động có liên quan là việc làm gây rối tại khu vực này. Tổng biên tập Tạp chí “Quốc phòng” Igor nêu rõ: “Không loại trừ khả năng cục diện căng thẳng thời kỳ Chiến tranh Lạnh sẽ được tái diễn tại châu Á-Thái Bình Dương”. Tuy nhiên, nếu cuộc chạy đua vũ trang tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương trước kia là do Liên Xô và Mỹ gây ra, thì cuộc đấu tranh chấp địa vị lãnh đạo của khu vựchiện nay được Trung Quốc và Mỹ tiến hành. Những năm gần đây, Mỹ rõ ràng đã thực hiện chiến thuật bao vây Trung Quốc thông qua chiến lược quân sự. Cùng với ý đồ làm suy yếu Trung Quốc, là nước giữ vai trò lãnh đạo khu vực, Mỹ cũng tăng cường ủng hộ về ngoại giao đối với những nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, thậm chí muốn đóng vai trò trung gian hòa giải trong cuộc xung đột này. Mỹ càng công khai ý đồ can dự vào tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, thì càng có khả năng làm tình hình căng thẳng hơn, dẫn đến xung đột quân sự.
III) Phương hướng chiến lược ứng phó của Nga
Để giảm bớt ảnh hưởng từ việc Mỹ “quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương”, Nga tích cực điều chỉnh chiến lược và chính sách tại châu Á-Thái Bình Dương, tích cực ứng phó trên nhiều lĩnh Vực chính trị, kinh tế, quân sự tổ chức quốc tế… nhằm ổn định tình hình châu Á-Thái Bình Dương, mượn “cơn gió phương Đông” để xây dựng môi trường quốc tế tốt đẹp.
1) Tư duy ứng phó với vic Mỹ “quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương
Chủ trương thứ nhất được gọi là “Thuyết về việc giúp Mỹ kiềm chế Trung Quốc”, đề xuất Nga phải giữ vai trò trung lập trong quan hệ Trung – Mỹ, thậm chí phải giúp Mỹ kiềm chế Trung Quốc, thực hiện tối đa hóa lợi ích quốc gia của Nga. Những người theo quan điểm này có ý muốn ly gián quan hệ Trung -Nga, Học giả Dmitry thuộc Tổ chức nghiên cứu phương Tây tại Nga là đại diện cho quan điểm này. Chủ trương thứ hai có thể gọi là “Thuyết về việc hợp tác để kiềm chế Mỹ”, cho rằng ảnh hưởng của Mỹ gia tăng tại châu Á-Thái Bình Dương làm tổn hại lợi ích của Nga, có thể gọi là “môi hở răng lạnh”, chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác với các nước mới nổi tại châu Á-Thái Bình Dương như Trung Quốc để cân bằng ảnh hưởng của Mỹ tại châu Á-Thái Bình Dương. Đại diện cho trường phái này là các học giả Krakow, Alexander Rogin…
Khi dự báo tình hình nước Nga trong cục diện châu Á-Thái Bình Dương, những người theo “Thuyết về việc trợ giúp Mỹ kiềm chế Trung Quốc” cho rằng Nga vừa phải đối mặt với rủi ro bị cuốn vào xung đột giữa các siêu cường, vừa phải đối mặt với một cơ hội, mà theo cách nói của người Trung Quốc là “Tọa sơn quan hổ đấu”, tìm cách “ngư ông đắc lợi”. Chủ nhiệm Trung tâm Carnegie Moscow Dmitry cho rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc là thách thức to lớn đối với Nga, đặc biệt là đối với khu vực Tây Xibêri. Trong lịch sử, Nga đã lần lượt đóng vai trò “người thầy”, “kẻ thù”, đến nay lại là nơi cung cấp nguyên liệu thô cho Trung Quốc. Mátxcơva nên tránh đơn phương hướng về Bắc Kinh, phải tăng cường quan hệ với các quốc gia xung quanh Trung Quốc, đặc biệt là hợp tác với siêu cường hạng hai như Ấn Độ ở châu Á, nhằm kiềm chế Trung Quốc. Tốt nhất là Mátxcơva thực hiện chính sách trung lập trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông và đảo Điếu Ngư (Nhật Bản gọi là Senkaku). Đối với việc Nga lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Việt Nam… với Trung Quốc, lấy ưu thế về năng lượng, vũ khí, nâng cao địa vị của họ tại châu Á-Thái Bình Dương, Viện trưởng Viện nghiên cứu vấn đề địa chính trị Leonid Ivashov thừa nhận: “Nga và Ấn Độ tăng cường quan hệ đối tác để kiềm chế Trung Quốc”.
“Thuyết về việc giúp Mỹ kiềm chế Trung Quốc” thực chất là phiên bản của “Thuyết về mối đe dọa từ Trung Quốc”, đã đã phản ánh sự lo ngại của người Nga đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc, chủ trương thực hiện chính sách vừa hợp tác vừa ngăn chặn. Những luận điệu này phải được Trung Quốc thật sự coi trọng, đồng thời tìm cách để giải quyết vấn đề đó. Sự lo ngại của một bộ phận người Nga chủ yếu là lo ngại ảnh hưởng của Trung Quốc tại châu Á-Thái Bình Dương tăng lên sẽ làm giảm đi vị thế của Nga ở châu Á-Thái Bình Dương và Trung Á, phá hoại “Liên minh Âu – Á” do Nga xây dựng. Chuyên gia nghiên cứu vấn đề Đông Nam A Dmitry Moxia cho rằng Trung Quốc thực hiện chính sách bành trướng tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, hoạt động đầu tư đã làm gia tăng sự phụ thuộc của các quốc gia tại châu Á-Thái Bình Dương vào Trung Quốc, tình hình tương tự cũng xuất hiện trong quan hệ giữa Trung Quốc với một số nước Trung Á. Giám đốc Trung tâm phân tích tình hình chính trị nước Nga Pavel Saleen nêu rõ trong cuộc đấu Mỹ – Trung tại châu Á-Thái Bình Dương,- Nga lợi dụng sự kiềm chế của Mỹ đối với Trung Quốc về năng lượng, tìm cách mở rộng khả năng cung ứng đối với Trung Quốc, kiếm lợi từ năng lượng của Nga. Ông nói: “Một khi xung đột Mỹ – Trung gia tăng, việc cung ứng năng lượng trên biển của Trung Quốc rất dễ bị Mỹ cắt đứt, Nga có thể lợi dụng địa vị nước cung ứng năng lượng trên đất liền duy nhất cho Trung Quốc, nâng cao thị phần của Nga trong thị trường năng lượng Trung Quốc”.
Về chiến lược, những người theo “Thuyết về việc hợp tác kiềm chế Mỹ” nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng và vai trò của châu Á-Thái Bình Dương đôi với Nga, cho rằng lợi ích của Nga đang tập trung tại khu vực châu Á, phải thông qua chiến lược “quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương” (Đông tiến) để thực sự thực hiện chiến lược “chim ưng hai đầu”. Krakow nêu rõ từ năm 2011 đến đầu năm 2012, sự quan tâm của Nga đối với công việc châu Á-Thái Bình Dương ngày càng nhiều hơn. Oasinhtơn khôi phục và tăng cường quan hệ với các đồng minh cũ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời xây dựng chính sách mới với mục đích kiềm chế Trung Quốc. Ở mức độ nào đó, việc làm này đụng chạm đến lợi ích của Nga. Chủ tịch Uy ban quốc phòng và ngoại giao Nga Sergei Karagamov cho rằng nước Nga bị ảnh hưởng của văn hóa châu Âu sẽ “châu Á hóa kinh tế” trong tương lai. Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu Đông Á thuộc Viện Đông phương thuộc Học viện khoa học Nga Dmitry Murcia nói: “Nước Nga là quốc gia Thái Bình Dương, đối với tất cả các quốc gia thuộc Nga, khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng rất hấp dẫn”.
“Thuyết về việc hợp tác kiềm chế Mỹ” được đại bộ phận các học giả Nga ủng hộ, chủ trương tăng cường hợp tác chiến lược với các quốc gia mới nổi, trong đó có Trung Quốc, chính sách hợp tác trong khuôn khổ đa phương như BRICS (Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi), Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) và cân bằng ảnh hưởng với Mỹ và các đồng minh của họ. Krakow cho rằng Mỹ quay trở lại châu Á, tăng cường sức mạnh quân sự tại khu vực này, sự phức tạp trong quan hệ Trung – Mỹ tại Đông Á và Đông Nam Á do Oasinhtơn gây ra chắc chắn sẽ đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích của Nga. Nga phải duy trì và hoàn thiện quan hệ đối tác hợp tác chiến lược với Trung Quốc, đồng thời cũng từ chối cùng Mỹ và các nước phương Tây kiến tạo quan hệ mang tính xây dựng hài hòa. Học giả thuộc Học viện Ngoại giao cho rằng: “Chính do quan hệ giữa Trung Quốc với các đối tác kinh tế khác tại châu Á, Nga mới ở trong trung tâm có ảnh hưởng đến thế giới”. Bắc Kinh coi Nga là đối tác để cân bằng trong cạnh tranh với Mỹ và châu Âu, cũng được coi là để bảo đảm sự độc lập chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Viện trưởng Viện nghiên cứu Viễn Đông thuộc Học viện khoa học Nga Mikhail Leonid phát biểu rằng Nga và Trung Quốc cần coi nhau là đối tác, quan hệ họp tác giữa hai nước láng giềng là sự bảo đảm cho nhau về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Tuy nhiên, đối với sự kết thành liên minh giữa Nga và Trung Quốc, phần lớn các học giả Nga luôn giữ thái độ bảo lưu. Chuyên gia về vấn đề địa chính trị của Nga Konstantin Sivkov nêu rõ việc kết thành liên minh Nga – Trung thực tế có thể bao trùm cả lục địa Âu – Á. về mặt chính trị quân sự, liên minh nảy sẽ rất mạnh, nhưng nhiều quan điểm chiếm số đông hơn cho rằng thảo luận vấn đề này còn hơi sớm.
2) Biện pháp ứng phó: Điu chnh chiến lược và chính sách tại châu Á-Thái Bình Dương
“Thuyết về việc hợp tác để kiềm chế Mỹ” cũng nhận được sự ủng hộ của những nhà hoạch định chính sách cao cấp ở Nga, trong cương lĩnh tranh cử ngoại giao “Nước Nga và thế giới không ngừng thay đổi” của mình, Putin đặc biệt nhấn mạnh đến việc nâng cao vai trò của khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong công việc quốc tế, đồng thời trình bày và phân tích đánh giá quan hệ Nga – Trung. Putin nêu rõ: “Nga cần một Trung Quốc phồn vinh và ổn định, Trung Quốc cũng cần một nước Nga lớn mạnh và thành công”. Putin khẳng định Ấn Độ là một đối tác hợp tác chiến lược quan trọng của khu vực, đồng thời phải tăng cường vai trò của các tổ chức đa phương như Liên hợp quốc, BRICS, Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giói (G-20), Nhóm 8 nước công nghiệp phát triển (G- 8), Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), ASEAN, APEC… Tổng biên tập Tạp chí “Nước Nga trong nền chính tị toàn cầu” Feodor Luki cho rằng Putin nhấn mạnh nước Nga quan tâm nhiều hơn Trung Quốc và toàn bộ châu Á, đương nhiên đã xem xét đến sự phát triển tại phía Tây Xibêri và vùng Viễn Đông.
Trên cơ sở đó, nước Nga tích cực điều chỉnh chiến lược và chính sách tại châu Á-Thái Bình Dương, phản ánh chiến lược “tiến sang phía Đông” quay trở lại khu vực châu Á-Thái Bình Dương theo mô hình của Nga dần dần đã hình thành. “Báo cáo chiến lược năm 2020” đã đề cập đến vai trò thúc đẩy của Trung Quốc đối với nền kinh tế Nga, kiến nghị một mặt cần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế Nga, mặt khác phải lợi dụng cơ hội mới trong hợp tác Nga – Trung. Báo cáo “Tiến về phía Đông: Nước Nga và châu Á hay nước Nga trong châu Á” của Hội nghị câu lạc bộ Lauderdale gửi cho Putin đã nêu rõ chiến lược “tiến sang phía đông” của Nga. Đó là cùng với việc quan tâm đến lợi ích của các nước tham gia công việc khu vực châu Á-Thái Bình Dương khác, Nga phải tăng cường hợp tác hơn nữa với các nước châu Á, đặc biệt là hợp tác chính trị và quan hệ thương mại với Trung Quốc. Sự xác lập toàn diện hình tượng nước lớn của Nga tại khu vực này phải có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược châu Á của Nga.
Về mặt an ninh, Nga thực hiện chính sách khá trung lập và hợp tác đa phương nhằm phản ứng lại với chiến lược quân sự của Mỹ. Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov cho rằng Nga có đầy đủ lý do để được coi là nhân tố quan trọng nhằm ổn định chính trị quân sự và phát triển bền vững tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Giữa Nga và các quốc gia khác trong khu vực không tồn tại vấn đề không thể thông qua đối thoại hòa bình để giải quyết. Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam là đối tác chiến lược của Nga tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tăng cường hợp tác chiến lược Trung – Nga trong lĩnh vực an ninh là khâu quan trọng để ổn định thế cờ châu Á-Thái Bình Dương, về cuộc tập trận chung “Liên hợp trên biển 2012” giữa Nga và Trung Quốc vào ngày 24/4/2012, Chuyên gia Andhra Davidoff thuộc Viện nghiên cứu Viễn Đông nêu rõ: Hai nước Trung Quốc và Nga đột nhiên tiến hành hợp tác về hải quân, vấn đề chính do sự gia tăng căng thẳng ở khu Vực Biển Đông. Ngoài ra, Mỹ và Philippin cũng tập trận chung tại vùng biển này. Ở mức độ nhất định, tập trận chung giữa Nga và Trung Quốc là sự phản ứng với thực tế trên. Thượng tướng Gennady Yefstafiyev, nhà phân tích quân sự của Nga, cho rằng: “Mỹ đã chuyển trọng tâm sức mạnh quân sự và chính trị của mình sang khu vực châu Á- Thái Bình Dương, chuẩn bị đối đầu với Trung Quốc. Ở mức độ nào đó, nhiều sự kiện hiện nay đã xảy ra tại khu vực biển châu Á-Thái Bình Dương có liên quan chặt chẽ đến việc làm đó của Mỹ”.
Nga tăng cường hơn nữa ngoại giao châu Á-Thái Bình Dương trong hình thức đa phương. Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov nêu rõ: “Nga đã tăng cường chính sách tập trung cho châu Á trong năm 2011. Đây không phải do sức ép về tình hình chính trị hiện nay mà nhằm từng bước thực hiện phương châm chiến lược nâng cao địa vị của Nga tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Nga, trước hết là đưa khu vực Tây Xibêri và Viễn Đông hội nhập có hiệu quả vào tiến trình liên kết khu Vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong mô hình tổ chức BRICS, Nga đã tăng cường quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi, ở nhiều cấp độ, đồng thời phát triển quan hệ với các nước chủ yếu ở châu Á, đặc biệt coi trọng phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược với Trung Quốc và Ấn Độ, đưa hợp tác trên nhiều lĩnh vực với Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước ASEAN và khu vực châu Á-Thái Bình Dương đi vào chiều sâu, cùng với Mỹ tham gia Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS).
Triển vọng trong tương lai, Nga sẽ tham gia nhiều hơn hoạt động của các cơ chế đa phương tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương như: “ASEAN+1”, Diễn đàn an ninh ASEAN, Hội nghị thượng đỉnh BRICS, Đàm phán Sáu bên về vấn đề hạt nhân của Triều Tiên, SCO. Hợp tác năng lượng đa phương với ASEAN là biện pháp quan trọng để Nga tăng cường ảnh hưởng về kinh tế tại châu Á-Thái Bình Dương. Trên Tạp chí “Nước Nga trong nền chính trị toàn cầu”, Viện trưởng Viện nghiên cứu quan hệ quốc tế Xinhgapo Simon Tai nêu rõ “Nga không quan tâm nhiều đến Đông Nam Á và ASEAN trong quá khứ, do đó Nga phải thông qua ASEAN để tăng cường quan hệ với từng nước Đông Nam Á”. Học giả Kabaev thuộc Trung tâm nghiên cứu châu Á-Thái Bình Dương Mátxcơva cho rằng không lâu nữa, đặc biệt là sau khi tuyến đường ống dẫn dầu từ Tây Xibêri sang Thái Bình Dương đi vào hoạt động, Nga sẽ phát huy vai trò ngày càng lớn về bảo đảm an ninh năng lượng khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tuyến đường ống dẫn dầu Skovorodino – Đại Khánh giữa Nga và Trung Quốc sẽ giúp Nga có thể xuất khẩu dầu mỏ sang các nước Đông Nam Á. Học giả Ramon Pedrosa cho rằng Nga ngày càng gắn bó chặt chẽ với khu vực Đông Nam Á về thương mại, năng lượng, du lịch, quan hệ giữa Nga và ASEAN cũng bước vào tuần trăng mật mới.
Việc Nga tổ chức Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2012 đã tạo điều kiện để Nga đẩy nhanh kế hoạch phát triển kinh tế khu vực Viễn Đông, đồng thời giúp Nga hội nhập tích cực hơn vào đời sống kinh tế và tiến trình liên kết khu vực. Trong bài viết “Liên kết để phát triển, đổi mới để phồn vinh”, Thủ tướng Medvedev cho rằng chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia là nhiệm vụ quan trọng nhất khi Nga đảm nhiệm chức Chủ tịch luân phiên của APEC; kiến nghị các nước thành viên của APEC tăng cường hợp tác để chiến thắng thiên tai và địch họa; các nền kinh tế của APEC cần tăng cường nỗ lực, nâng cao cảnh giác đối với tai họa. Chuyên gia nghiên cứu Andre Varro thuộc Viện nghiên cứu Viễn Đông cho rằng nhiệm vụ chủ yếu của Nga khi tổ chức APEC là hội nhập tích cực hơn vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ông nói: “Nếu Nga gia nhập khu vực mậu dịch tự do châu Á, cánh cửa lớn đầy triển vọng cho sự phát triển của Nga sẽ mở ra”. Học giả Dimensional Slavic cho rằng: “Nga muốn tận dụng đầư tư nước ngoài, tri thức nước ngoài và ưu thế thương mại quốc tế để phát triển kinh tế xã hội trong khu vực. Đối với các quốc gia đối tác, ưu thế của chúng ta trước hết là tài nguyên thiên nhiên phong phú và du lịch. Nga có khả năng trở thành một mắt xích trong tiến trình xây dựng quan hệ hợp tác cùng có lợi với các quốc gia khác trong khu vực này./.