Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

13. Biển Hoa Đông và Biển Đông: Các nước trong khu vực cần làm thế nào để hạ nhiệt

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Sáu, ngày 1/3/2013
TTXVN (Angiê 28/2)
Theo ông Kevin Rudd, cựu Thủ tướng và cựu Ngoại trưởng Ôxtrâylia, tình hình ở Đông Á lúc này là không bình thường. Trong khi xung đột lãnh thổ làm gia tăng căng thẳng ở các biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa (Biển Đông), vùng này ngày càng khiến người ta nghĩ đến khu vực Bancăng cách đây 100 năm, nhưng là phiên bản biển.
Lý giải điều này trên tạp chí “Statafrik“, ông Kevin Rudd gọi đó là “thùng thuốc súng trên mặt nước”. Tâm lý dân tộc chủ nghĩa đang thiêu đốt các vùng lãnh thổ ở đây, đồng thời khiến không gian chính trị nội tại thu hẹp lại. Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản đang ở mức thấp nhất kể từ khi hai nước bình thường hóa vào năm 1972. Đầu tư và thương mại song phương giảm đáng kể và chính quyền các nước trong vùng đang mong mỏi bất kỳ một sự phát triển nào, dù là nhỏ. Mối quan hệ giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là Việt Nam và Philippin cũng xấu đi đáng kể và tình hình này làm nảy sinh căng thẳng trong các tổ chức khu vực như Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Về an ninh, khu vực này chưa bao giờ lâm vào tình trạng mong manh kể từ khi Sài Gòn thất thủ năm 1975.
Tại Bắc Kinh, các vấn đề hiện nay với Tôkyô, Hà Nội và Manilla cũng rất được quan tâm, đồng thời là chủ đề chính trên các phương tiện truyền thông chính thức và các mạng xã hội, với lời lẽ thực sự hiếu chiến. Các vấn đề đó cũng bao trùm các cuộc tranh luận giữa lãnh đạo Trung Quốc và các vị khách đến từ nước ngoài. Mối quan hệ với Nhật Bản đặc biệt trở thành trọng tâm của gần như tất cả các cuộc thảo luận chính thức vì giới chức Trung Quốc tìm cách kiểm nghiệm sự thay đổi sâu sắc mà họ nghĩ là đã xác định được trong chính sách đối nội của Nhật Bản và về vị trí của Trung Quốc trong cuộc tranh luận tại Nhật Bản. Bắc Kinh không muốn các cuộc tranh cãi lãnh thô dẫn đến xung đột vũ trang, nhưng thể hiện rõ ràng rằng có một ranh giới đỏ không được vượt qua vì những lý do nội tại, và Trung Quốc sẵn sàng đề phòng mọi bất trắc xảy ra.
Giống như vùng Bancăng cách đây một thế kỷ, môi trường chiến lược ở Đông Á là phức tạp do vùng này bị chia rẽ bởi các liên minh, các mối quan hệ lâu đời và những thù hận chồng chất. Ít nhất có sáu nước hay thực thể chính trị có tranh cãi về lãnh thổ với Bắc Kinh. Ba trong số các nước đó là các đối tác chiến lược quan trọng của Mỹ. Đây là chưa nói đến nhiều tổ chức có chân rết ở mỗi nước trong số đó. Liên quan đến Trung Quốc chẳng hạn, Nhóm khủng hoảng quốc tế xác định chỉ riêng ở biển Nam Trung Hoa có tới 8 tổ chức như vậy.
Yêu sách lãnh thổ lại rất nhiều, giống như cái được mất về tài nguyên khoáng sản, biển và năng lượng. Mỹ nhìn chung vẫn tỏ thái độ trung lập, nhưng có nhiều đan xen giữa lợi ích cục bộ của các nước có liên quan và sự cạnh tranh chiến lược tổng thể giữa Mỹ và Trung Quốc và những đan xen đó là hoàn toàn không dễ kiểm soát. Như để làm cho sự việc phức tạp thêm, vùng Đông Á bị giằng xé mãnh liệt giữa hai trào lưu đối lập nhau. Một bên là các lực lượng toàn cầu hóa đang xích lại gần dân chúng, các nền kinh tế và các Nhà nước ở các nước này, còn gần hơn cả trong lịch sử. Bằng chứng là sự phát triển thương mại trong vùng hiện chiếm tới gần 60% lượng trao đổi hàng hóa trong các vùng lãnh thổ này. Bên kia là các lực lượng dân tộc chủ nghĩa nguyên thủy, thậm chí mang tính di truyền, vẫn luôn đe dọa làm tan nát vùng này.
Kêt quả là ở vùng này, ý nghĩ về một cuộc xung đột vũ trang – cho dù dường như trái ngược với lợi ích dân tộc hợp lý của các nước này vốn đang hưởng sự năng động kinh tế chưa từng thấy – trở thành chủ đề tranh luận gây lo ngại nhưng thông thường, do các cuộc xung đột lãnh thổ mới đây cũng như tâm lý thù hận văn hóa và lịch sử ăn sâu bén rễ trong tiềm thức con người. Hai thế giới hoàn toàn khác biệt cùng tồn tại ở vùng Đông Á đương đại này.
Rạn nứt đáng lo ngại nhất nảy sinh giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng như giữa Trung Quốc và Việt Nam. Tháng 9/2012, Chính phủ Nhật Bản mua lại của một chủ sở hữu tư nhân ba hòn đảo thuộc Senkaku, một quần đảo nhỏ mà cả hai nước đòi chủ quyền (người Trung Quốc gọi là Điếu Ngư), về vấn đề này, Trung Quốc kết luận rằng Nhật Bản, nước trên thực tế kiểm soát các hòn đảo này về phương diện hành chính trong quãng thời gian dài nhất trong thế kỷ qua, dự tính tăng cường chủ quyền của mình ở đây.
Đáp lại, Bắc Kinh tung ra cái mà họ gọi là “kết hợp các cú đánh”: trả đũa về kinh tế, đưa tàu tuần tra biển vào các vùng tranh chấp, tập trận chung giữa các binh chủng quân đội và biểu tình rầm rộ, đôi khi đi liền với bạo lực, trước các tòa nhà ngoại giao hạy thương mại của Nhật Bản ở trong nước. Xuất khẩu của Nhật Bản sang Trung Quốc đột ngột giảm mạnh trong quý IV/2012. Bỏi lẽ Trung Quốc trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Nhật Bản, nên xuất khẩu suy sụp có thể sẽ tác động mạnh vào việc giảm tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản trong cùng thời kỳ đó.
Vào trung tuần tháng 12/2012, Nhật Bản khẳng định lần đầu tiên kể từ năm 1958 đến nay, máy bay Trung Quốc xâm phạm không phận Nhật Bản trên các hòn đảo tranh chấp. Sau một sự cố khác, Tôkyô đưa 8 máy bay chiến đấu F-15 đến các hòn đảo này. Hai bên chắc chắn đều không triển khai tàu chiến, nhưng mối lo ngại trước việc quân sự hóa gia tăng do khả năng quân sự được chuyển sang tàu kiểu hải giám.
Trong khi giới quân sự Nhật Bản ngày càng chủ trương không nhân nhượng, Thủ tướng Shinzo Abe, người lên nắm quyền từ trung tuần tháng 12/2012, tìm cách làm dịu những tuyên bố của mình trước công luận về Trung Quốc, có thể để cho nước này thấy ông muốn tìm kiếm một mối quan hệ ổn định. Ngoài ra còn có lá thư hòa giải của Nhật Bản được ông chuyển tới Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình, ngày 25/1 trong chuyến thăm Trung Quốc của lãnh đạo Công Minh Mới, đảng thành viên liên minh cầm quyền cùng với Đảng dân chủ tự do.
Đây là một bước đi được Bắc Kinh hoan nghênh, về công khai cũng như trong các cuộc tiếp xúc cá nhân, như tuyên bố của Tập Cận Bình ngay ngày hôm sau, đã cho thấy rõ. Trung Quốc đề nghị Nhật Bản chính thức thừa nhận có xung đột lãnh thổ để tăng cường vị thế chính trị và tư pháp của mình đối với tương lai của các hòn đảo này. Nhưng Trung Quốc cũng muốn bất đồng hiện nay không đe dọa an ninh trong vùng, để giữ gìn sự ổn định cần thiết cho mục tiêu hàng đầu của mình là cải cách kinh tế và tăng trưởng.
Như vậy, bầu không khí có thể dịu đi giữa Trung Quốc và Nhật Bản về ngắn hạn, nhưng thực tế ngoại giao và chiến lược về cơ bản vẫn không thay đổi. Cuộc tiến công ngoại giao chưa từng thấy của cả Thủ tướng Shinzo Abe lẫn Ngoại trưởng Nhật Bản, Fumio Kishida – cả hai đi thăm 7 nước Đông Á – cho thấy căng thẳng vẫn còn cao giữa hai nước. Thông báo hồi cuối tháng 1/2013 về việc thành lập lực lượng bảo vệ bờ biển đặc hiệt của Nhật Bản, bao gồm 12 tàu mới và 600 lính có nhiệm vụ chuyên trách bảo vệ quần đảo Senkaku, cho thấy vụ việc này con lâu mới được giải quyết.
Mối lo ngại hiện nay là không một nước nào có thể tự cho phép mình lùi bước trước dư luận ở trong nước. Trung Quốc cho rằng Nhật Bản đã xóa bỏ nguyên trạng, còn Nhật Bản nghĩ không liên quan đến phải nhân nhượng vì mình không có vấn đề gì liên quan đến chủ quyền. Như vậy, cả hai nước tiếp tục rình rập mọi hoạt động trên không và ngoài khơi và chỉ cần một sự cố nhỏ cũng có thể nhanh chóng làm cho tình hình xấu đi.
Để tránh xảy ra điều đó, cả hai nước có thể sẽ phải kiên trì lập trường của mình trước công luận vì lý do đối nội, đồng thời lùi từng bước và cùng một lúc trong việc triển khai lực lượng trên biển và trên không. Mọi thứ sẽ phải tuân theo một kế hoạch được thương lượng thông qua một bên thứ ba hay mạng lưới ngoại giao của chính hai nước, trong hậu trường. Nếu thương lượng bí mật như vậy vẫn chưa diễn ra (và dường như đúng là như vậy), cần phát động tiến trình đó vì lợi ích của cả hai nước.
Nhật Bản không nên lắp đặt bất kỳ một trang thiết bị nào, thiết lập bất kỳ một căn cứ nào cũng như không đưa bất kỳ người lính nào đến các hòn đảo này – vốn là những kế hoạch có lúc được Tôkyô dự tính – vì điều đó có thể sẽ khiến Bắc Kinh áp dụng biện pháp trả đũa, từ đó làm cho cuộc khủng hoảng trầm trọng thêm. Nếu các bước đi này có thể được thực hiện và tình hình ổn định trở lại, lúc đó cần tính đến việc về lâu dài, mỗi một thể chế môi trường quốc tế chuyên nghiệp quản lý các hòn đảo này và các vùng phụ cận, đồng thời thống nhất để tàu của hai nước không vào gần quần đảo này nữa.
Yêu sách lãnh thổ ở biển Nam Trung Hoa còn phức tạp hơn. Theo một số cơ quan của Mỹ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc khẳng định vùng biển này có trữ lượng tới 213 tỷ thùng dầu mỏ (gấp 10 lần trữ lượng của Mỹ, nhưng các nhà khoa học Mỹ không tin điều này) và 25.000 tỷ mét khối khí đốt (nhìn chung bằng trữ lượng đã được khẳng định của Cata). Biển Nam Trung Hoa cũng chiếm tới 10% lượng cá đánh bắt được hàng năm trên thế giới. Vùng này hiện là nơi diễn ra các cuộc thăm dò gây tranh cãi về nguồn tài nguyên năng lượng ở vùng biển sâu. Hoạt động đánh bắt cá cũng gây ra nhiều vụ đối đầu giữa các tàu. Hơn nữa, không giống như ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, nhiều hòn đảo ở biển Nam Trung Hoa đã có lính đóng doanh trại và căn cứ hải quân. Sáu bên, trong đó có Đài Loan, có yêu sách lãnh thổ đối với vùng này. Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xung đột nghiêm trọng nhất. Hai nước đã đụng độ nhau về vấn đề này vào các năm 1974 và 1988 và đã tiến hành chiến tranh ở biên giới. Tháng 5/2011 một quan chức cấp cao của Hà Nội tóm lược rất rõ ràng mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc rằng: “Hai nước là bạn cũ và kẻ thù cũ của nhau”.
Hiện nay, Trung Quốc rõ ràng có lợi thế hơn Việt Nam về phương diện kinh tế, đến mức một quan chức Việt Nam mới đây nhấn mạnh không úp mở rằng Trung Quốc có thể đơn giản đánh sập nền kinh tế Việt Nam nếu họ muốn. Nhưng không nên từ đó suy ra rằng, xét về tâm lý thù hận lịch sử, sự phụ thuộc về kinh tế đó có thể có khả năng ngăn chặn mọi hành động ngoại giao hay quân sự của Việt Nam trong vấn đề biển Nam Trung Hoa.
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc xấu đi kể từ khi tàu đánh cá Trung Quốc cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Việt Nam vào tháng 5/2011, rồi tháng 12 cùng năm đó. Theo hãng Reuters, Việt Nam sau đó tuyên bố bắt đầu từ tháng 1/2013 sẽ triển khai tàu dân sự được cảnh sát biển hộ tống để ngăn chặn tàu nước ngoài thâm nhập vùng lãnh hải của mình. Ấn Độ, đối tác của Việt Nam trong một số dự án thăm dò, cũng nói sẽ tính đến việc đưa tàu đến biển Nam Trung Hoa để bảo vệ lợi ích của mình.
Cùng lúc đó, tỉnh Hải Nam của Trung Quốc cảnh báo từ năm 2013, tàu bảo vệ bờ biển của địa phương này bắt đầu chặn, khám xét và xua đuổi tàu nước ngoài xâm phạm vùng lãnh hải của Trung Quốc, kể cả trong các vùng biển tranh chấp. Những thông báo không giống nhau này về phương thức khám xét tàu thuyền nước ngoài, vốn mâu thuẫn nhau, cho thấy năm 2013 sẽ còn xảy ra xung đột lớn. Việt Nam và Trung Quốc đang rình rập nhau và những người theo dõi chặt chẽ tiến triển mối quan hệ này lo ngại sẽ lại xảy ra xung đột vũ trang.
Để tránh leo thang, đã đến lúc Bắc Kinh và Hà Nội phải nhượng bộ nhau. Hai nước trước hết cần thống nhất với nhau để xác định vấn đề cần ưu tiên là soạn thảo bộ quy tắc ứng xử rất được mong đợi giữa ASEAN và Trung Quôc ở biến Nam Trung Hoa, một văn bản phải bao gồm cả các dự án khai thác nguồn năng lượng chung trên một vùng lãnh thổ mà hai nước tranh chấp, Chính phủ hai nước cần xác định một dự án chung duy nhất và bắt đầu thương
lượng cụ thể phương thức thực hiện. Nếu điều đó là quá khó, hai nước cần tham khảo nhau để hoạch định một dự án đánh bắt cá chung trong một vùng duy nhất được xác định rõ ràng. Điều sẽ cho phép quên đi những vấn đề chủ quyền nhạy cảm hơn là vấn đề khai thác tài nguyên.
Nói cách khác, bắt đầu xây dựng lòng tin bằng cách hợp tác trong một dự án thực sự hay hơn là chờ đợi cuộc thương lượng qua con đường ngoại giao vốn phức tạp của bộ quy tắc ứng xử kết thúc. Nếu cách tiếp cận này mang lại kểt quả, một số dự án phát triển chung giữa hai nước có thể được thực hiện với một số nước khác nếu họ muốn.
Nhưng tất cả điều đó cũng có thể không thực hiện được. Chủ nghĩa dân tộc có thể sẽ thắng thế. Các nhà hoạch định chính sách có thể bằng lòng để cho sự việc tự diễn biến như họ đã làm cách đây một thế kỷ. Trong cuốn sách mới nhất của mình có tựa đề “The Sleepwalkers: How Europe Went to War in 1914″, nhà sử học Christopher Clark thuật lại chủ nghĩa dân tộc nhỏ nhen ở khu vực Bancăng kết hợp với trò chơi chính trị của các cường quốc và sự thiếu khéo léo ngoại giao của các nhà lãnh đạo lúc đó, đã dẫn đến vụ thảm sát trên quy mô lớn trong Chiến tranh thế giới thứ Nhất.
Vào thời kỳ đó, toàn cầu hóa kinh tế còn sâu rộng hơn hiện nay và chính phủ các nước châu Âu, cho đến năm 1914, cho rằng một cuộc chiến tranh trên toàn châu Âu là không thích hợp và như vậy là không thể nổ ra. Theo cựu Thủ tướng Kevin Rudd, có lẽ chiến tranh sẽ không nổ ra trên toàn châu Á. Nhưng đối với người dân trong vùng đang phải đối mặt với căng thăng leo thang ở các biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa, lịch sử châu Âu là một lời cảnh báo đáng được suy ngẫm.