I. Mở đầu: Thế nào là một trật tự mới tại Á châu?
Từ sau Thế chiến thứ II,
kinh tế Nhật Bản hồi phục nhanh chóng và bước vào giai đọan phát triển
được xem là thần kỳ (1955-1973). Giai đọan 18 năm sau đó, tốc độ phát
triển chậm lại nhưng Nhật duy trì ở mức trung bình năm 6% nhờ thành công
trong việc khắc phục hai cuộc khủng hoảng năng lượng (1973 và 1979) và
sự kiện đồng yen lên giá đột ngột (1985-87). Nhật cũng thành công trong
việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao hơn, hình thành sự phân công
mới với các nền kinh tế đang lên ở Đông Á. Do đó, trong thập niên 1980,
Nhật vươn lên thành cường quốc kinh tế có ảnh hưởng nhiều mặt trên thế
giới (mậu dịch, đầu tư nước ngoài, ODA -viện trợ và vốn vay ưu đãi cho
các nước đi sau). Từ đầu thập niên 1990, kinh tế Nhật suy thoái, trì trệ
hơn 10 năm nhưng về mặt đối ngoại, nhất là đối với khu vực Đông Á, Nhật
vẫn giữ vai trò quan trọng và có chiến lược củng cố vai trò đó như sẽ
thấy dưới đây. Từ năm 2003 kinh tế hồi phục càng làm cho Nhật tự tin hơn
trong chiến lược đối ngoại. Đặc biệt cũng từ năm 2003 Nhật tích cực vận
động để được trở thành uỷ viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
Hiệp Quốc.
Trong giai đoạn kinh tế
Nhật suy sụp cũng là lúc Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ. Suốt hơn 20 năm
cải cách, mở của, kinh tế Trung Quốc phát triển trung bình mỗi năm 10%.
Bước qua thế kỷ 21, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO (2001), các chỉ
tiêu kinh tế chính như tổng sản phẩm trong nước (GDP), kim ngạch xuất
khẩu, v.v.. cho thấy Trung Quốc ngày càng tiến vào hàng ngũ những nước
lớn. Hiện nay Trung Quốc đứng thứ ba thế giới về ngoại thương và thứ tư
về GDP (Trung Quốc sắp vượt Đức trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế
giới) . Trong thời kỳ Giang Trạch Dân cầm quyền (1992-2002), ý thức nước
lớn và quyết tâm thực hiện chiến lược “Đại phục hưng dân tộc Trung Hoa”
được giương cao. Trước sự cảnh giác của nhiều nước Á châu lân cận,
Trung Quốc đưa ra khái niệm “hoà bình quật khởi” để nhấn mạnh là Trung
Quốc sẽ vươn lên thành nước lớn nhưng bằng các biện pháp hoà bình như mở
rộng ngoại thương, tận dụng tư bản và công nghệ thế giới, v.v.
Tóm lại, có thể nói từ
giữa thập niên 1990, Nhật Bản từ một cường quốc kinh tế muốn vươn lên
thành một cường quốc nhiều mặt, kể cả chính trị và các quan hệ quốc tế.
Còn Trung Quốc từ một nước có tiếng nói mạnh trên chính truờng quốc tế
đã vươn lên thành một nước lớn về kinh tế. Trong lịch sử Á châu, đây là
lần đầu tiên cả Nhật Bản và Trung Quốc đều trở thành cường quốc và đang
tranh nhau củng cố vai trò của mình tại khu vực nầy. Trong trật tự mới
nầy, chiến lược, chính sách của hai nước đang dĩễn ra như thế nào và có ý
nghĩa nhu thế nào đối với các nước thứ ba ở Á châu? Đây là vấn đề nhiều
người đang quan tâm.
Nhưng đây cũng là vấn đề
lớn. Bài viết nầy phải đặt tiêu điểm vào một số mặt của vấn đề đó. Dưới
đây ta sẽ chọn tiêu điểm là các nước ASEAN, khu vực mà cả Nhật Bản và
Trung Quốc đều đang tranh thủ, và tập trung vào các mặt về kinh tế như
cuộc khủng hoảng tài chánh ở Á châu, hợp tác Tiểu vùng lưu vực sông Mê
Kông, quá trình chuẩn bị hình thành Cộng đồng Đông Á, v.v.. Đây là những
vấn đề kinh tế nhưng có ý nghĩa chiến lược khá toàn diện đối với Trung
Quốc và Nhật Bản. Phần lớn các vấn đề nầy cũng xoay quanh các nước
ASEAN. Phần kết luận của bài viết sẽ rút ra một vài hàm ý đối với Việt
Nam.
II. Vị trí kinh tế của Nhật Bản và Trung Quốc tại ASEAN
Trước khi khảo sát chiến lược của Nhật Bản và Trung Quốc, thử điểm qua vị trí của hai cường quốc nầy tại ASEAN.
Nhật vốn đã có quan hệ
kinh tế mật thiết với năm nước thành viên cũ của ASEAN (Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Phi-lip-pin và Singapore) từ gần nửa thế kỷ nay,
nhất là từ năm 1977 khi Thủ tướng Nhật đương thời Fukuda Takeo công du
năm nước và phát biểu chính sách đặc biệt dùng ODA để vừa giúp từng nước
thành viên vừa xây những ngành công nghiệp chung cho toàn khối. Quan hệ
Nhật ASEAN lại phát triển một bước lớn khi các công ty Nhật ào ạt sang
đầu tư trưc tiếp (FDI) tại Thái, Malaysia, Singapore và Indonesia sau
khi đồng yen tăng giá đột ngột từ cuối năm 1985. Cùng với mậu dịch, ODA
và FDI của Nhật đã tạo ra một sự gắn bó mật thiết giữa Nhật với ASEAN
trong mấy thập kỷ qua. Do vậy, hiện nay Nhật vẫn giữ một vị trí quan
trọng trong ngoại thương, đầu tư và ODA tại các nước nầy.
Tuy nhiên, Trung Quốc,
với một nên kinh tế lớn nhanh và có khuynh hướng hướng ngoại, đã theo
kịp hoặc vượt qua vị trí của Nhật trong ngoại thương đối với nhiều nước
ASEAN. Tại một số nước thành viên mới của ASEAN như Lào, Campuchia và
Myanmar, Trung Quốc chiếm vị trí khá cao trong cả ODA và FDI.
Về ngoại thương, như Hình
1 cho thấy, cho đến khoảng năm 1995, Nhật chiếm tới trên 20% trong tổng
nhập khẩu của ASEAN trong khi Trung Quốc chỉ có vài phần trăm. Sau đó
thị phần của Nhật giảm liên tục trong khi của Trung Quốc tăng nhanh. Đến
năm 2006, Trung Quốc đã vượt Mỹ và tiến gần bằng thị phần của Nhật. Tại
các nước thành viên mới của ASEAN, vị trí của Trung Quốc vượt Nhật từ
nhiều năm truớc và khoảng cách giữa hai nước ngày càng lớn. Tại Việt
Nam, Trung Quốc cũng đã vượt Nhật từ năm 2003 trở thành nước lớn nhất
trong tổng nhập khẩu của Việt Nam (xem Hình 2).
Về đầu tư nước ngoài
(FDI), Trung Quốc phát biểu chính sách nầy lần đầu năm 1998 và chiến
lược đẩy mạnh chính sách nầy được ghi rõ trong Kế họach 5 năm lần thứ X
(2001-2005). Vào cuối năm 2005, tại ASEAN, tích lượng (stock) FDI của
Trung Quốc nhiều nhất là tại Singapore (hơn 300 triệu USD), sau đó tới
Malaysia (200 triệu USD) và các nước khác. Tuy nhiên so với Nhật là nước
đã đầu tư nhiều tại các nước thành viến cũ của ASEAN từ gần nửa thế kỷ
nay, vị trí của Trung Quốc không đáng kể. Tại Việt Nam, từ khỏang năm
2001, Trung Quốc bắt đầu đầu tư nhiều trong ngành xe máy, đồ điện gia
dụng, v.v. nhưng so với Nhật vị trí của Trung Quốc còn rất thấp. Vào
cuối năm 2006, tích lượng FDI tại Việt Nam theo vốn đăng ký là 60 tỉ USD
trong đó Nhật 7,4 tỉ (chiếm 12,3%), Trung Quốc chỉ có hơn 1 tỉ (1,8%),
và Mỹ là 2,2 tỉ (3,7%).
Đáng chú ý là vai trò của
Trung Quốc tại Lào, Campuchia và Myamar. Mấy năm gần đây, Trung Quốc là
nước dẫn đầu FDI tại Campuchia (chủ yếu sản xuất hàng may mặc). Tại
Lào, tích lượng FDI (từ năm 2000 đến tháng 3 năm 2007) của Trung Quốc
xếp hàng thứ hai, sau Thái Lan, còn Nhật ở vị trí thứ năm. Tại Myanmar,
cả Trung Quốc và Nhật Bản đều đầu tư ít, nhưng về ODA thì Trung Quốc độc
chiếm vì Nhật và các nước khác tiếp tục chính sách chế tài kinh tế đối
với Myanmar, trong khi Trung Quốc muốn thừa cơ nầy củng cố thế lực ở
phía tây nam. Từ cuối thập niên 1990, Trung Quốc liên tục viện trợ cho
Myanmar, bao gồm nhiều lãnh vực từ xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác
năng lượng đến các dự án phát triển công nghiệp. Theo nhiều nhà nghiên
cứu về Myanmar như Ebashi Masahiko (2007), số dự án hợp tác mà Trung
Quốc triển khai ở nước nầy vừa nhiều vừa có tính chiến lược ở những điểm
sau: Thứ nhất, Trung Quốc củng cố được con đường tiến ra Ấn độ dương mà
không phải qua eo biển Malacca. Thứ hai, Trung Quốc khai thác được
nhiều nguồn năng lượng, nguyên liệu và bảo đảm nguồn cung cấp lúa gạo
trong tương lai. Thứ ba, lập quan hệ gắn bó chiến lược với Myanmar (và
với Pakistan), Trung Quốc sẽ từng bước hình thành một mặt trận bao vây,
kiềm chế Ấn Độ.
Tình hình chính trị ở
Myanmar và môi trường quốc tế chung quanh nước nầy đã thay đổi hẵn vị
trí của Nhật và Trung Quốc. Cho đến thập niên 1980, Nhật Bản chiếm vị
trí áp đảo trong ngoại thương và ODA tại Myanmar. Thời đó, Nhật chiếm
tới phân nửa tổng kim ngạch nhập khẩu cung như tổng kim ngạch ODA của
nước nầy. Cho đến cuối thập niên 1980, Myanmar là một trong những nước
nhận ODA nhiều nhất của Nhật, chỉ sau Indonesia, Thái Lan và
Phi-lip-pin.
Nhìn từ phía ASEAN, sự
trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc đã gây ra một số hiệu ứng phức tạp, nhất
là trong giai đoạn truớc năm 2000. Vì cơ cấu xuất khẩu của Trung Quốc
và nhiều nước ASEAN khá giống nhau, ASEAN chịu sức ép taị các thị trường
lớn trước sự phát triển mạnh mẽ và hướng ngoại của Trung Quốc. Tại Mỹ
chẳng hạn, thị phần của 5 thành viên cũ của ASEAN từ năm 1992 đến năm
2005 giảm từ 7,3% xuống 5,4% trong khi Trung Quốc tăng từ 5,8% lên
14,4%. Tại thị trường Nhật, ASEAN có được ưu thế nhờ các công ty đa quốc
gia Nhật đầu tư tại ASEAN và xuất khẩu trở lại Nhật nên thị phần của
ASEAN được duy trì ở vị trí 13% từ 1992 đến 2005, nhưng trong thời gian
đó, thị phần của Trung Quốc tăng nhanh, từ 7,3 lên 21%.
Về đầu tư nước ngoài, từ
giữa thập niên 1990, trước làn sóng đầu tư đổ dồn vào Trung Quốc, nhiều
nước ASEAN rất lo ngại. Trên thực tế, FDI vào Trung Quốc tăng đột biến
từ năm 2000, nhất là từ khi nước nầy gia nhập WTO năm 2001. FDI đổ vào
Trung Quốc năm 1999 là 40 tỉ USD đã tăng lên gần 160 tỉ năm 2006 trong
khi 5 nước ASEAN cũ chỉ tăng từ 24 tỉ lên 28 tỉ USD trong cùng thời kỳ.
Tuy nhiên, gần đây ASEAN
ngày càng nhận thấy sự lớn mạnh của kinh tế Trung Quốc cũng đem lại cơ
hội thị trường cho mình. Từ năm 1990 đến 2005, xuất khẩu của Trung Quốc
tăng 12 lần, từ 621 tỉ lên 7.620 tỉ USD nhưng nhập khẩu cũng tăng cùng
tốc độ, từ 534 tỉ lên 6.601 tỉ USD. Nhiều nước ASEAN cũng thành công
trong việc xâm nhập vào thị trường Trung Quốc. Chẳng hạn từ năm 1992 đến
2004, xuất khẩu hàng công nghiệp của ASEAN tăng 3 lần, nhưng riêng xuất
khẩu sang Trung Quốc tăng tới 16 lần. Hiện nay thị phầncủa ASEAN trong
tổng nhập khẩu của Trung Quốc chiếm độ 10%, tương đương với Mỹ và Hàn
Quốc.
Vì vậy khỏang từ năm
2000, nhiều nước ASEAN đã không còn xem sự trỗi dậy của Trung Quốc là
một nhân tố tiêu cực đối với sự phát triển của mình mà ngày càng xem đó
là cơ hội để ASEAN phát triển nhanh hơn. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc
tích cực mở rộng chiến lược Á châu nhắm vào ASEAN.
III. Tranh chấp giữa Nhật Trung tại một số vũ đài chính
1. Nhật Bản và Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng tiền tệ Á châu
Khác với Nhật Bản, một
nước đã có quan hệ mật thiết với hầu hết các nước ASEAN từ nửa thế kỷ
trước, quan hệ Trung Quốc và ASEAN tuơng đối mới nhưng triển khai rất
nhanh từ thập niên 1990. Sau sự cố Thiên An Môn năm 1989, một số nước
phương Tây phê phán và áp dụng nhiều biện pháp chế tài với Trung Quốc
(kéo dài cho đến năm 1991). Trong thời gian đó Trung Quốc tích cực, chủ
động lập lại quan hệ bình thường với nhiều nước ASEAN. Phần lớn việc lập
lại quan hệ bình thường nầy được thực hiện năm 1990 trong chuyến công
du của Thủ tướng Lý Bằng sang Indonesia, Singapore, Malaysia, Thái Lan
và Lào
Cuộc khủng khoảng tiền tệ
Á châu (1997-98) trở thành cơ hội cho Trung Quốc bắt đầu chiến lược
kinh tế với ASEAN. Trung Quốc giúp ngay 1 tỉ USD cho Thái Lan, nước chịu
ảnh hưởng nặng nhất trong cuộc khủng hoảng nầy. Vào tháng 12/1997,
Trung Quốc tuyên bố sẽ không giảm giá đồng nhân dân tệ, một hành động
được các nước Á châu hoan nghênh, vì thái độ đó góp phần quan trọng vào
việc ổn định tình hình tiền tệ và kinh tế, tránh được một sự cạnh tranh
giảm giá đồng tiền để duy trì hoặc đẩy mạnh xuất khẩu. Đặc biệt nhiều
nước ASEAN có cơ cấu xuất khẩu giống Trung Quốc nên thái độ của Trung
Quốc được xem là “hào hiệp”. Trung Quốc đã lợi dụng dịp nầy để tỏ ra
mình có trách nhiệm của một nước lớn.
Về phía Nhật, cuộc khủng
hoảng tiền tệ Á châu cũng là dịp để họ thi thố vai trò của một nước lớn
có trách nhiệm tại khu vực nầy. Tuy kinh tế Nhật đang ở trong thời kỳ
suy thoái nặng nhưng họ đã đưa ra các chính sách rất tích cực. Ngay sau
khi cuộc khủng hỏang xảy ra tại Thái Lan (7/1997), Nhật chủ trì hội nghị
quốc tế để giúp nước nầy giải quyết tình trạng thiếu ngoại tệ (8/1997).
Tháng 10/1998, Nhật đưa ra Sáng kiến mới Miyazawa cam kết sẽ xuất ra 30
tỉ USD giúp 6 nước Á châu chịu ảnh hưởng nặng trong cuộc khủng hỏang.
Ngoài ra, tháng 12/1998, Nhật cam kết lập chương trình Yen cho vay đặc
biệt (Special Yen Loan) gồm 650 tỉ yen thực hiện trong 3 năm, giúp các
nước Á châu cải thiện, xây dựng thêm cơ sở hạ tầng kinh tế. Qui mô tài
chánh của các chương trình hợp tác của Nhật như vậy là rất lớn, không
nước nào hoặc cơ quan quốc tế nào có mức cam kết nhiều như vậy. Đặc biệt
khác với IMF hay Ngân hàng thế giới chỉ chú trọng giúp giải quyết khó
khăn nhất thời về tài chánh, tiền tệ, Nhật có cái nhìn dài hạn, chú
trọng giúp các nước ASEAN xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu
công nghiệp để phục hồi sản xuất, cải thiện sức cạnh tranh. Các công ty
đa quốc gia Nhật cũng có chính sách bám trụ tại ASEAN, nỗ lực tái hồi
phục sản xuất, củng cố sức cạnh tranh của các công ty con tại vùng nầy.
Nhìn chung chính sách của chính phủ và thái độ của xí nghiệp Nhật được
các nước ASEAN đánh giá cao. Mahathir, Thủ tướng đương thời của
Malaysia, trong cuốn sách xuất bản năm 1999, đã đánh giá cao vai trò của
Nhật trong quá trình công nghiệp hóa của ASEAN, và lên tiếng phê phán
tư bản tài chính Mỹ mà ông ta cho là thủ phạm của cuộc khủng hỏang tài
chánh Á châu.
Một vấn đề đáng chú ý
trong cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu là Nhật đã tích cực đưa đề án
thành lập Quỹ tiền tệ châu Á (Asian Monetary Fund, AMF) nhưng bị cả Mỹ
và Trung Quốc phản đối. Trong đề án nầy, AMF sẽ có một ngân quỹ 100 tỉ
USD đủ để đối phó các cuộc khủng hỏang tài chánh tương tự và Nhật hứa sẽ
đóng góp phần lớn nếu đề án được thực hiện. Cũng theo lập luận của
Nhật, giống như Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), tuy đã có Ngân hàng
thế giới nhưng ở Á châu vẫn cần một tổ chức riêng, thì việc lập AMF ở Á
châu dù đã có IMF cũng là chuyện thường. Nhưng Mỹ sợ mất vai trò tại Á
châu nên cương quyết phản đối, cho là đã có IMF thì không cần AMF. Trung
Quốc cũng phản đối mạnh vì sợ ảnh hưởng của Nhật sẽ mạnh hơn tại Á
châu.
2. Nhật Bản và Trung Quốc trong tầm nhìn về Cộng đồng Đông Á
Từ cuối thập niên 1990,
các nước Đông Á tích cực trong việc xây dựng một định chế hợp tác khu
vực vì hai lý do: Một là, cuộc khủng hoảng tiền tệ ở châu Á cho thấy cần
có một định chế hợp tác khu vực để ngăn ngừa những bất ổn tương tự. Hai
là, song song với sự bế tắc trong các vòng đàm phán do WTO chủ trương,
chủ nghĩa khu vực đã phảt triển mạnh tại nhìều nơi khác trên thế giới và
xu thế nầy đã thúc đẩy các nước Đông Á chuyển hướng theo trào lưu chung
nầy.Đây là vũ đài sôi động nhất với hai diễn viên chính là Nhật Bản và
Trung Quốc.
Vấn đề hợp tác để tiến
tới Cộng đồng Đông Á đang được triển khai theo hai hướng: Một là, ký kết
các hiệp định tự do thương mại (Free Trade Agreement, FTA) song phương.
Song phương ở đây kể cả trường hợp Nhật hay Trung Quốc ký kết với tòan
khối ASEAN. Hai là, xây dựng các định chế hợp tác cho tòan vùng Đông Á.
Trong cả hai hướng, cạnh tranh giành quyền chủ đạo giữa hai nước lớn
ngày càng gay gắt.
Về song phương, FTA được
bắt đầu bàn đến từ năm 1999 bằng sự kiện Nhật Bản và Hàn Quốc thoả thuận
cùng nghiên cứu khả năng và hiệu quả của một FTA giữa hai nước. Hiện
nay hai nước vẫn chưa đi đến một sự thoả thuận cụ thể nhưng sự kiện nầy
đã châm ngòi cho những thảo luận, những đề án về FTA rất sôi nổi tại
Đông Á. Sau đó, Nhật và Singapore bắt đầu thảo luận từ tháng 11/1999 và
đã ký kết Hiệp định hợp tác kinh tế (Japan-Singapore Economic
Partnership Agreement, JSEPA) vào tháng 1/2002. Sau đó, từ năm 2004,
Nhật đã xúc tiến thương lượng và cuối cùng đã ký kết FTA song phương với
Phi-lip-pin, Malaixia và Thái Lan trong năm 2006 và với Inđonesia năm
2007.
Cũng vào thời điểm Nhật
và Singapore ký kết JSEPA, Thủ tướng Nhật Koizumi Jun-ichiro đề xướng
lập Quan hệ đối tác toàn diện Nhật ASEAN (Japan-ASEAN Comprehensive
Economic Partnership) và tháng 11/2002 lãnh đạo 10 nước ASEAN đã đồng ý
sẽ bàn thảo về đề án nầy. Đặc biệt Nhật Bản tỏ ra tích cực trong hoạt
động nầy sau khi Trung Quốc bắt đầu đưa ra đề án lập FTA với 10 nước
ASEAN vào tháng 11/2001, như sẽ bàn dưới đây. Tuy nhiên, mặc dù đã được
đề xướng từ năm 2002, đến năm 2005 mới bắt đầu thương lượng và cho đến
nay chưa thấy tiến triển cụ thể. Lý do chính một phần do Nhật muốn xây
dựng một thể chế hợp tác tòan diện với các nước ASEAN, không chỉ riêng
trong lãnh vực ngoại thương, và một phần do áp lực trong nước muốn tiếp
tục bảo hộ nông phẩm.
Trong lúc Nhật còn lúng
túng, chậm chạp trong quá trình triển khai hợp tác nầy thì Trung Quốc
đưa ra và thúc đẩy tiến hành nhanh chóng một chiến lược rất dứt khóat,
rõ ràng và hấp dẫn đối với ASEAN. Đó là Hiệp định tự do thương mại
ASEAN-Trung Quốc (ACFTA). Trung Quốc và 10 nước ASEAN qua các Hội nghị
thượng đỉnh ở Brunei (2001), Pnom Penh (2002), Bali (2003) và Vientiane
(2004) đã lần lượt thoả thuận các bước chuẩn bị để cuối cùng đi đến ký
kết các hiệp ước liên quan đến FTA.
Điểm nổi bật của Hiệp
định nầy là Trung Quốc đã nhượng bộ tối đa, đưa ra một đề án với nội
dung hấp dẫn để các nước ASEAN dễ chấp nhận. Ngoài kế hoạch giảm thuế
nói chung, hiệp định bao gồm một chương trình gọi là Thu hoạch sớm
(Early Harvest) để giảm thuế ngay (từ đầu năm 2004) những mặt hàng nông
phẩm mà đa số các nước ASEAN đặc biệt quan tâm. Trong hiệp định, Trung
Quốc cũng đặc biệt chiếu cố các thành viên mới của ASEAN (Việt Nam,
Lào, Myanmar và Cambodia): Trung Quốc dành sự đãi ngộ tối huệ quốc (MFN)
cho cả các nước chưa gia nhập WTO, trì hoãn nghĩa vụ thực hiện FTA đối
với các thành viên mới, viện trợ 5 triệu USD cho chương trình phát triển
lưu vực sông Mê Kông, phụ đảm 1/3 phí tổn xây đường cao tốc nối Côn
Minh với Bangkok. Tóm lại, Trung Quốc đơn phương mở cửa thị trường trước
cho hàng hoá của ASEAN và chịu phụ đảm nhiều hơn cho các chương trình
xây dựng hạ tầng kinh tế khu vực.
Có nhiều yếu tố giải
thích thái độ tích cực của Trung Quốc: Thứ nhất, trong ý thức cạnh tranh
với Nhật, Trung Quốc muốn tạo sẵn vị trí chủ đạo trong quá trình hình
thành cộng đồng hợp tác Đông Á trong tương lai. Cho đến cuối thập niên
1990, Trung Quốc bận tâm trong việc chuẩn bị gia nhập WTO, chưa rảnh tay
nghĩ về cơ chế hợp tác khu vực Đông Á. Sau khi đạt được thoả thuận tay
đôi với Mỹ vào tháng 11 năm 1999, Trung Quốc xem như việc gia nhập WTO
chỉ còn là vấn đề thời gian (thực tế Trung Quốc gia nhập năm 2001),
Trung Quốc bắt đầu triển khai chiến lược Đông Á mà điểm đột phá được
chọn là ASEAN vì ở đây Nhật và Mỹ cũng đang chú trọng, Trung Quốc thấy
cần tạo ngay ảnh hưởng. Ngoài ra, quá trình hình thành cộng đồng hợp tác
Đông Á sẽ phải bắt đầu từ ASEAN, không thể từ Nhật, Trung Quốc hay Hàn
Quốc vì các quan hệ phức tạp về lịch sử đương tồn tại. Thứ hai, từ thập
niên 1990, kinh tế Trung Quốc phát triển quá nhanh, cạnh tranh với ASEAN
trên khắp các thị truờng lớn trên thế giới, tạo ra mối lo ngại tại các
nước nầy. Để xoa dịu mối lo nầy ở ASEAN, Trung Quốc thấy cần gây ấn
tượng là kinh tế Trung Quốc lớn mạnh cũng đưa lại cơ hội phát triển cho
các nước ASEAN. Khái niệm quật khởi hòa bình đã được đề cập ở trên cũng
ra đời trong bối cảnh nầy. Có thể có thêm một số lý do khác nữa làm cho
Trung Quốc tích cực trong chiến lược FTA với ASEAN, nhưng nhìn trên tổng
thể và xét các diễn tiến khác ta thấy ý thức cạnh tranh của Trung Quốc
đối với Nhật để xác lập quyền chủ đạo tại vùng Đông Á là quan trọng
nhất. Có thể nói, trong việc thỏa thuận ký kết ACFTA, ASEAN nhắm cái lợi
kinh tế, còn Trung Quốc nhắm cái lợi về chính trị.
Chính sự kiện nầy đã làm
cho Nhật tỉnh ngộ, thấy cần phải đặt lại chiến lược ASEAN để vừa duy trì
ảnh hưởng tại vùng nầy, vừa giữ thế chủ động trong quá trình hình thành
cộng đồng kinh tế Đông Á trong tương lai. Đây là bối cảnh ra đời của
Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Nhật ASEAN vào tháng 12 năm 2003 tại
Tokyo. Gọi là “đặc biệt” vì đây là lần đầu tiên một hội nghị như vậy
được tổ chức tại một nước không phải thành viên ASEAN. Hai ngày của hội
nghị thượng đỉnh được kết thúc bằng Tuyên ngôn Tokyo và Kế hoạch hành
động cho giai đoạn trung và dài hạn sắp tới. Theo Tuyên ngôn Tokyo, Nhật
và các nước ASEAN quyết tâm tiếp tục mở rộng, đẩy mạnh hợp tác trên
tinh thần đối tác chiến lược (strategic partnership). Nhật sẽ đặt ưu
tiên cao cho nỗ lực giúp các nước ASEAN phát triển và hội nhập
(integration) với nhau hơn nữa. Trong phương châm đó, Nhật sẽ ưu tiên
cấp tiền viện trợ và vốn vay ưu đãi (ODA) cho ASEAN, đặc biệt trong lãnh
vực đào tạo nhân tài, phát triển xí nghiệp nhỏ và vừa, và giúp phát
triển các nước thuộc lưu vực sông Mê Kông để rút ngắn khoảng cách giữa 2
nhóm nước (6 nước thành viên cũ và 4 nước thành viên mới) trong khối
nầy. Mặt khác, Nhật và ASEAN sẽ tăng cường sự liên kết kinh tế về mọi
mặt. Cho đến năm 2012, hai bên sẽ cụ thể hoá ý tưởng nầy bằng việc ký
Hiệp định liên kết kinh tế toàn diện Nhật ASEAN (JACEP) mà Thủ tướng
Koizumi đề xướng tại Singapore tháng 1 năm 2002. Sự liên kết nầy có phạm
vi rộng, từ trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đến hợp tác đầu tư, tài chánh,
tiền tệ, công nghệ thông tin, năng lượng, v.v.. Trên quan hệ đặc biệt
nầy, Nhật và ASEAN sẽ hợp tác trong các vấn đề của khu vực và thế giới.
Một số nội dung cụ thể
trong Kế hoạch hành động là quyết định lấy năm 2005 làm thời điểm bắt
đầu thương lượng để tiến tới việc ký kết Hiệp định JACEP. Nhật cũng đã
cam kết trong 5 năm tới sẽ đưa 1 vạn sinh viên và thực tập sinh ASEAN
sang Nhật học hoặc tu nghiệp, trong 3 năm tới sẽ chi ra 1,5 tỉ USD để
giúp ASEAN đào tạo nhân tài và 1,5 tỉ USD để giúp phát triển khu vực
sông Mê Kông Nhật cũng sẽ giúp tăng cường cơ sở hạ tầng và đào tạo nhân
tài để phát triển công nghệ thông tin, xe hơi, điện tử,..., tại ASEAN và
xúc tiến FDI từ Nhật sang các nước nầy.
Đặc điểm của Tuyên ngôn
Tokyo và Kế hoạch hành động là sự cam kết cao độ của Nhật trong việc
giúp các nước ASEAN hơn nữa. Đây là chiến lược của Nhật nhằm tranh dành
ảnh hưởng với Trung Quốc tại vùng Đông Nam Á.
Về việc xây dựng cơ chế
hợp tác cho toàn vùng Đông Á để tiến tới việc thiết lập một cộng đồng ở
vùng nầy, ta cũng thấy có sự cạnh tranh giằng co giữa Trung Quốc và Nhật
Bản. Ở đây có thêm sự hiện diện của Hàn Quốc, và ba nước Đông Bắc Á nầy
bắt đầu gặp định kỳ từ năm 1999 trong dịp các nước ASEAN họp hội nghị
thượng đỉnh để trao đổi về khả năng hợp tác trong vùng. Do bối cảnh nầy,
các cuộc thảo luận và quyết định về sự hợp tác trong vùng được thực
hiện trong khuôn khổ 3 nước Đông Bắc Á và ASEAN, thường được gọi là thể
chế ASEAN+3.
Vấn đề Cộng đồng Đông Á
lần đầu tiên được chính thức bàn đến là vào năm 2001 khi Nhóm bàn thảo
về tầm nhìn Đông Á (East Asian Vision Group) được thành lập gồm các thức
giả trong vùng, theo sự gợi ý của Tổng thống Hàn Quốc đương thời Kim
Dae Jung. Từ đó vấn đề được bàn thảo từ nhiều góc độ, bao gồm nhiều lãnh
vực, kể cả kinh tế, chính trị, an ninh khu vực, văn hoá,... Tại Hội
nghị thượng đỉnh ASEAN+3 ở Vientiane vào tháng 11/2004, các nước đã
quyết định tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (kết cuộc, vào tháng 12
năm 2005, lần đầu tiên Hội nghị nầy đã được thực hiện tại Kuala Lumpur).
Từ thời điểm nầy tranh chấp giữa Nhật và Trung Quốc biểu hiện rõ nét
hơn. Trước hết là tranh chấp về thanh phần tham dự Hội nghị thượng đỉnh.
Thành phần tham dự mặc nhiên sẽ là thành viên của Cộng đồng Đông Á một
khi được thiết lập. Nhật muốn đưa Ấn Độ và Úc (cùng với New Zealand) vào
để kìm chế Trung Quốc. Nhật cũng chủ trương mời Mỹ làm quan sát viên.
Thêm Ấn Độ, Úc và New Zealand (những nước có quan hệ thân thiết với
Nhật) vào, lập thành thể chế ASEAN+3+3 hoặc ASEAN+6 rõ ràng có lợi cho
Nhật hơn là thể chế ASEAN+3. Trung Quốc cũng biết vậy nên cương quyết
chủ truơng tiếp tục duy trì thể chế ASEAN+3 vì trong thể chế nầy tương
quan lực lượng nghiêng về Trung Quốc hơn, nhất là trong 3 nước có nền
kinh tế lớn ở Đông Bắc Á, có tới hai nước phê phán Nhật về quan điểm
lịch sử và không ủng hộ Nhật trong các quan hệ quốc tế (như phản đối
Nhật trong vận động để trở thành thành viên thường trực Hội đồng Bảo an
LHQ).
Cuối cùng hai bên thoả
hiệp với kết luận không mời Mỹ làm quan sát viên nhưng mời Ấn Độ và hai
nước ở Úc châu tham gia. Thật ra, vị trí của Ấn Độ trong các quan hệ mậu
dịch và đầu tư với Nhật cũng như các nước khác ở Đông Á quá nhỏ. Chẳng
hạn vào năm 2005, Ấn Độ chỉ chiếm 0,6% trong tổng xuất khẩu hàng công
nghiệp của Nhật. Con số tương ứng của Trung Quốc và ASEAN cao hơn nhưng
cũng chỉ trên dưới 2% (Biểu 1). Như Biểu 1 cho thấy, ASEAN+3 ngày càng
phụ thuộc vào thị trường của nhau (từ 1992 đến 2005 xuất khẩu từ ASEAN+3
sang ASEAN+3 tăng từ 23% đến 35%) nên việc thiết lập một thể chế hợp
tác để duy trì, xúc tiến sự phân công trong vùng là có ý nghĩa. Ngược
lại, về ý nghĩa kinh tế, sức hút của Ấn Độ vào vùng Đông Á quá yếu. Do
đó có thể nói, kéo Ấn Độ vào vũ đài xây dựng cộng đồng Đông Á, Nhật có ý
thức về lợi ích chính trị hơn là kinh tế.
Biểu 1: Ma trận thị trường xuất khẩu hàng công nghiệp của các nước Á Châu (1992-2005)
Dư luận nói chung ở Nhật
ngày càng cảnh giác phương thức ASEAN+3 vì không những lo ngại Trung
Quốc sẽ năm quyền chủ đạo mà còn sợ ảnh hưởng đến quan hệ đồng minh với
Mỹ. Watanabe Toshio, giáo sư nổi tiếng trong nghiên cứu và bình luận về
kinh tế và chính trị Á châu, cho rằng ASEAN+3 là chiến lược ly gián đồng
minh Nhật Mỹ của Trung Quốc. Cũng theo Watanabe, đồng minh Nhật Mỹ hiện
nay giống như đồng minh Nhật Anh ký kết năm 1902, và trong các thập
niên đầu thế kỷ 20, Mỹ đã dần dần ly gián được Nhật Anh, phá vỡ đồng
minh Nhật Anh, cuối cùng Nhật thua Mỹ trong thế chiến thứ hai. Watanabe
lập luận rằng qua việc lập Cộng đồng Đông Á chỉ gồm ASEAN+3, đồng minh
Nhật Mỹ sẽ bị phá vỡ và hậu quả sẽ không lường được đối với Nhật.
Watanabe cũng chủ trương từng bước tạo ra một liên minh Nhật Mỹ Ấn Úc là
tốt nhất.
Kojima Tomoyuki, một nhà
Trung-quốc-học Nhật Bản chuyên về quan hệ quốc tế, cho rằng Trung Quốc
có ý đồ biến Đông Á thành “Thế giới Trung Hoa” nhưng Nhật Bản không yếu
đến nỗi bị Trung Quốc nuốt chửng, trừ trường hợp Nhật không có chíến
lược đúng đắn.Nhiều ý kiến khác cho rằng, với Trung Quốc, Nhật chỉ có
thể hợp tác trong khuôn khổ mậu dịch và đầu tư chứ không thể đi xa hơn,
vì thể chế chính trị hai nước quá khác nhau. Nhưng chỉ giới hạn trong
mậu dịch và đầu tư thì lại không có lý do để loại trừ Mỹ. Như Biểu 1 cho
thấy, các nước Đông Á vẫn còn phụ thuộc phần khá lớn vào thị truờng Mỹ.
Cũng vì lý do nầy, không ít người trong giới lãnh đạo chính trị và kinh
tế Nhật chủ trương xúc tiến trở lại thể chế hợp tác của Diễn đàn kinh
tế châu Á Thái bình dương (APEC). Điều nầy lại phù hợp với chiến lược
của Mỹ (tại Hội nghị thượng đỉnh APEC ở Hà Nội tháng 11/2006, tổng thống
Bush đã đề xướng việc thiết lập FTA cho tòan thành viên của tổ chức
nầy).
Do các lý do trên, tầm nhìn về Cộng đồng Đông Á sẽ ngày càng phức tạp hơn vì tranh chấp giữa hai nước lớn tiếp tục gay gắt.
IV. Thay lời kết: Vài hàm ý đối với Việt Nam
Bàn về một trật tự mới ở Á
châu mà chủ yếu nói về kinh tế thì không đủ. Nói về chiến lược, chính
sách của các cường quốc đang diễn ra tại Á châu mà không cho Mỹ lên vũ
đài thì cũng không thực tế. Trên nhiều phương diện, đặc biệt là quân sự
và chính trị, đối thủ chính của Trung Quốc ở Á châu là Mỹ chứ không phải
Nhật.Tuy biết vậy, tôi vẫn cho rằng một khảo sát về chiến lược của Nhật
và Trung Quốc về các vấn đề kinh tế tại Á châu vẫn hữu ích, vì, như đã
thấy ở các phần trên, các chính sách đối ngoại kinh tế thường phản ảnh
chiến lược tổng hợp của các nước lớn, và ở Á châu, Nhật Bản lại là nước
có lợi thế trong các công cụ kinh tế như ODA, FDI, công nghệ,... qua đó
họ có thể phát huy các lợi thế khác.
Riêng đối với Việt Nam,
trước sự trỗi dậy của Trung Quốc ngày nay và những bài học ngày xưa,
chiến lược trước mắt và lâu dài là phải phát triển, phải thật sự mạnh
lên về mọi mặt, trong đó nếu mạnh lên về kinh tế sẽ kéo theo những cái
mạnh khác. Trong ý nghĩa đó, lợi dụng sự cạnh tranh của hai cường quốc ở
Á châu, Việt Nam có thể tranh thủ công nghệ, FDI, ODA, v.v.. của Nhật,
một nước công nghiệp tiên tiến, để phát triển nhanh và mạnh hơn. Điều
nầy cũng đúng trong trường hợp Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh giữa Mỹ
và Trung Quốc: Tận dụng tối đa thành quả khoa học, công nghệ, giáo dục,
v.v.. của Mỹ để phát triển nhanh và mạnh hơn.
Việt Nam cần tận dụng
thời cơ hiếm có hiện nay để phát triển nhanh và mạnh hơn, tạo tiền đề
xác lập, duy trì quan hệ bình đẳng với Trung Quốc, bảo đảm cho quan hệ
biểu hiện bằng 16 chữ Láng giềng hữu nghị, hợp tác tòan diện, ổn định
lâu dài, hướng tới tương lai thực sự có ý nghĩa.
Trần Văn Thọ
GS Đại học Waseda, Nhật Bản