THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Ba, ngày 9/4/2013
TTXVN (Hồng Công 8/4)
Theo báo Hồng Công “Văn Hối”
số ra gần đây, tại kỳ họp Lưỡng hội (Quốc hội và Hội nghị chính trị
hiệp thương toàn quốc) của Trung Quốc, công tác chuyển giao chính phủ ở
Trung Quốc đã chính thức được triển khai. Đối diện với những thách thức
mới từ bên ngoài, ngoại giao trong tương lai của Trung Quốc sẽ như thế
nào đang thu hút sự quan tâm lớn của dư luận. Giới chuyên gia phổ biến
cho rằng đội ngũ lãnh đạo mới của Trung Quốc sẽ duy trì tính tiếp tục
của chính sách ngoại giao, đồng thời cũng sẽ có những điều chỉnh mới
trên cơ sở thay đổi của tình hình quốc tế cũng thực lực của mình, Trung
Quốc sẽ triển khai hợp tác thêm một bước trong các lĩnh vực kinh tế và
văn hóa, song liên quan đến lợi ích cốt lõi quốc gia, ví như vấn đề chủ
quyền, quyền lợi biển, Trung Quốc sẽ giữ nghiêm ranh giới đỏ.
Trong một năm qua, những người đứng đầu đất nước ở
gần 10 quốc gia quan trọng như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc… đã thay đổi
ban lãnh đạo mới, sự thay đổi trên chính trường thế giới đã ảnh hưởng
đến kinh tế chính trị toàn cầu và cục diện thế giới. Báo cáo tại Đại hội
18 Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra một cách sáng tạo “thúc đẩy xây
dựng quan hệ nước lớn kiểu mới ổn định lâu dài, phát triển lành mạnh”.
Phó Viện trưởng Học viện quan hệ quốc tế Đại học Bắc Kinh Giả Khánh Quốc
cho biết đây là cách nói mới về chính sách đối ngoại vô cùng quan trọng
của Trung Quốc tiếp theo sau “phát triển hòa bình”, tìm kiếm xây dựng
quan hệ nước lớn kiểu mới sẽ trở thành một phương hướng của Trung Quốc
trong việc xây dựng quan hệ với các nước lớn chủ yếu bên ngoài.
Trung Quốc trỗi dậy nhanh chóng, tìm kiếm sự định vị mới với Mỹ
Cuối năm 2012, Obama đã tái đắc cử Tổng thống Mỹ,
giới phân tích bên ngoài đều cho rằng trong nhiệm kỳ 2, Obama sẽ tiếp
tục chính sách đối với Trung Quốc trong nhiệm kỳ 1. Nhưng Phó Viện
trưởng Học viện quan hệ quốc tế Đại học Nhân dân Trung Quốc Kim Xán Vinh
lại cho rằng sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc cùng với việc Mỹ
dần mất tự tin sau cuộc khủng hoảng tài chính đã khiến nhiều nhận thức
chung chiến lược trước kia giữa Mỹ và Trung Quốc đã bị mất đi. Hiện nay,
thách thức lớn nhất trong quan hệ Trung – Mỹ là cần tìm kiếm một định
vị chiến lược mới.
Ngoài quan hệ nước lớn, mấy năm gần đây, phương
diện cùng nhau có lợi và cùng thắng giữa Trung Quốc và các nước xung
quanh cũng đang dần bị tan vỡ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền
và lợi ích biển giữa Trung Quốc và các nước xung quanh tại Biển Đông và
Biển Hoa Đông ngày càng nổi cộm.
Trợ lý Viện trưởng Học viện ngoại giao, Giám đốc
phòng nghiên cứu quan hệ quốc tế Vương Phàm cho rằng nguyên nhân gây nên
những vấn đề này có rất nhiều, do vấn đề giữa Trung Quốc và các nước
láng giềng, cũng do bên ngoài tác động thêm. Cùng với việc chuyển dịch
trọng tâm chiến lược sang phía Đông và quay trở lại châu Á-Thái Bình
Dương của Mỹ, quan hệ giữa Trung Quốc và các nước xung quanh cũng trở
nên ngày càng phức tạp hơn. Giáo sư Học viện Quan hệ quốc tế Đại học
Nhân dân Bắc Kinh Thời Ân Hoằng cho rằng xử lý quan hệ với các nước láng
giềng châu Á như thế nào, làm thế nào để khiến các nước láng giềng chấp
nhận một Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ nhưng không ngừng tự tin sẽ là
thách thức lớn trong giai đoạn về sau trong chiến lược và lĩnh vực ngoại
giao của Trung Quốc.
Kiên trì chủ quyền lãnh thổ, một tấc không nhượng bộ
Tổng Bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhấn mạnh
Trung Quốc cần kiên trì đi theo con đường phát triển hòa bình, nhưng
quyết không từ bỏ những quyền lợi chính đáng của mình; quyết không hy
sinh lợi ích cốt lõi của quốc gia. Không ít chuyên gia cho rằng trong
tương lai, về mặt xử lý quan hệ đối ngoại, Trung Quốc sẽ có thể mềm dẻo
hơn nữa, còn trong lĩnh vực kinh tế thương mại, văn hóa thì tăng cường
hợp tác cùng có lợi với các nước xung quanh, đồng thời, liên quan tới
lợi ích cốt lõi của quốc gia sẽ càng cứng rắn hơn, vạch ra rõ ràng ranh
giới, những vấn đề liên quan tới chủ quyền lãnh thổ, thậm chí có thể sẽ
ra tay khi cần ra tay.
Vương Phàm cho rằng trong tương lai, Trung Quốc
vẫn duy trì phương châm “giấu mình chờ thời”, chỉ là trong các biện pháp
cụ thể, Trung Quốc cần xóa đi những suy nghĩ sai lầm của các nước xung
quanh rằng Trung Quốc không tiếc nhượng bộ về vấn đề chủ quyền lãnh thổ
để phát triển hòa bình. Trung Quốc kiên trì tàu tuần tra ở Điếu
Ngư/Senkaku là một cách làm tốt, bằng hành động thực tế để nói cho Nhật
Bản rõ không nên tính toán sai lầm, những vấn đề nguyên tắc liên quan
đến chủ quyền lãnh thổ, Trung Quốc không nhượng bộ một tấc.
Chính sách chú trọng cả trong lẫn ngoài, xây dựng quy tắc quốc tế
Hiện nay, Trung Quốc đã từ một nước nghèo khó trở
thành một nước lớn có tầm ảnh hưởng quan trọng trên trường quốc tế. Giả
Khánh Quốc cho rằng sự thay đổi về thân phận khiến Trung Quốc cần phải
chú ý tới trách nhiệm quốc tế và nhu cầu trong nước khi nghiên cứu các
sách lược ngoại giao, cũng khiến chính sách đối ngoại của Trung Quốc cần
đưa ra những thay đổi và điều chỉnh thích đáng. Vương Phàm nhấn mạnh
sau quá trình hội nhập quốc tế cơ bản hoàn chỉnh, trọng tâm tiếp theo
của Trung Quốc nên là cố gắng tham gia nhiều hơn vào việc xây dựng quy
tắc quốc tế phù hợp hơn với nhu cầu phát triển của các nước đang phát
triển, công bằng hơn và phát huy vai trò quan trọng.
Ngoại giao nước lớn luôn là một trọng điểm lớn
của ngoại giao Trung Quốc, còn ngoại giao với Mỹ là hàng đầu trong những
vấn đề quan trọng của ngoại giao Trung Quốc. Chuyên gia chỉ ra rằng
theo tiền lệ trong lịch sử, trong tiến trình kinh tế phát triển nhanh,
một nước lớn thường nảy sinh xung đột quân sự với các nước xung quanh,
đặc biệt là các nước siêu cường. Một nước lớn mới nổi trong thời kỳ mới
với một nước lớn bảo thủ, giữa Trung Quốc và Mỹ có thể xảy ra bi kịch
của các nước lớn truyền thông hav không, điều này còn cần hai bên nghiên
cứu tìm kiếm con đường phát triển mới cho quan hệ nước lớn.
Lo lắng về một Trung Quốc trỗi dậy chưa chấm dứt
Nhìn lại mấy năm trước, quan hệ Trung-Mỹ đã duy
trì sự phát triển ổn định về tổng thể, lãnh đạo cấp cao của hai nước qua
lại thường xuyên, chỉ trong 4 năm đã có tới 12 cuộc “gặp mặt Hồ cẩm Đào
– Obama”, mức độ dựa vào nhau giữa hai nước ngày càng mạnh mẽ. Năm
2012, kim ngạch thương mại song phương đã lên tới gần 500 tỷ USD, lập
mốc kỷ lục mới. Ngoài ra, về các vấn đề quốc tế và khu vực như chủ nghĩa
khủng bố, an ninh lương thực…, Trung Quốc và Mỹ cũng đã tiến hành trao
đổi và hợp tác có hiệu quả.
Vương Phàm cho rằng Trung Quốc và Mỹ đã xây dựng
được con đường giao lưu thông suốt, nhưng quan hệ Trung – Mỹ vẫn phải
đối mặt với nhiều thách thức.
Kim Xán Vinh nói cùng với sự tăng mạnh không
ngừng của quốc lực Trung Quốc và sự sa sút của quốc lực Mỹ, Mỹ đã có
những lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc, điều này đã khiến nhiều
nhận thức chung chiến lược trước kia của Trung Quốc và Mỹ bị mất đi. Sau
khi xảy ra khủng hoảng tài chính, sự tự tin của Mỹ không còn như trước,
điều này khiến vấn đề quan hệ Trung – Mỹ bị phóng đại lên.
Kim Xán Vinh cho rằng 3 vấn đề là Đài Loan, Tây
Tạng và thương mại trong quan hệ Trung – Mỹ vẫn tồn tại, nhưng cùng với
sự quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ và sự trỗi dậy nhanh chóng
của Trung Quốc, rất nhiều vấn đề mới cũng không ngừng xuất hiện. Trung
Quốc và Mỹ có thể xuất hiện sự cạnh tranh quyền lãnh đạo khu Vực ở châu
Á-Thái Bình Dương, sự hiện đại hóa quân sự và chiến lược vươn ra đại
dương của Trung Quốc đã khiến Mỹ căng thẳng. Sự cạnh tranh không gian vô
hình như vũ trụ, mạng Internet giữa Trung Quốc và Mỹ cũng đang tăng
mạnh. Nhưng Kim Xán Vinh nhấn mạnh thách thức lớn nhất mà quan hệ Trung –
Mỹ hiện phải đối mặt là tìm kiếm một định vị chiến lược mới.
Xây dựng quan hệ mới cần chính sách cụ thể
Đầu năm 2012, Tập Cận Bình khi thăm Mỹ đã đề ra
tư tưởng xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới và được Mỹ phản hồi tích
cực. Giả Khánh Quốc cho rằng chỉ có mục tiêu không thì chưa đủ, quan
trọng là phải thực hiện. Từ nay về sau, khi xây dựng chính sách ngoại
giao, Trung Quốc cần phải tăng thêm nội dung cụ thể về quan hệ nước lớn
kiểu mới.
Giả Khánh Quốc cho rằng việc Obama tái đắc cử
tổng thống Mỹ và những bài phát biểu công khai của John Kerry sau khi
nhậm chức Ngoại trưởng Mỹ có thể thấy chính sách đối với Trung Quốc của
Chính phủ Mỹ trong nhiệm kỳ mới này vẫn khá tích cực, còn sau khi Tập
Cận Bình lên giữ chức Chủ tịch nước thì chính sách đối với Mỹ của Trung
Quốc cũng sẽ có thể tiếp diễn. Nếu không có điều bất ngờ lớn nào xảy ra,
có thể dự đoán, quan hệ Trung – Mỹ từ nay về sau sẽ tiếp tục phát triển
theo quỹ đạo tương đối ổn định và mang tính xây dựng.
***
Trước sự lớn mạnh cũng như các động thái gia tăng
chi phí quốc phòng của Trung Quốc, nhiều nước đang ngày càng cảnh giác
với nền kinh tế số hai thế giới. Báo Bưu điện Hoa Nam buổi sáng (Hồng Công)
gần đây đăng bài “Chiến lược quyền lực mềm để tái cân bằng châu Á” của
chuyên gia phân tích chính trị Andrew Leung, trong đó cho rằng một trật
tự thế giới hòa bình không thể được xây dựng trên giả định về một trò
chơi được mất ngang nhau, thay vào đó, các nước nên giúp một nước Trung
Quốc đang trỗi dậy nắm giữ vị trí là một thành viên chủ chốt.
Sau nhiều tháng căng thẳng ở Biển Hoa Đông, cuộc
gặp giữa Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình với đặc phái
viên của Thủ tướng Shinzo Abe, ông Natsuo Yamaguchi, Chủ tịch Đảng Công
Minh mới trong liên minh cầm quyền Nhật Bản, đã gửi đi một tín hiệu rõ
ràng rằng trong khi không có bên nào được thuyết phục bởi tuyên bố chủ
quyền lãnh thổ của bên kia, cả hai bên nhận thấy rằng các cuộc đối đầu
leo thang chỉ có thể khiến cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn.
Trong khi đó, chiến lược chuyển trọng tâm quay
trở lại châu Á của Mỹ là điều đã được khẳng định rõ ràng trong phiên
điều trần của Thượng Nghị sĩ John Kerry đối với việc ông này được đề cử
làm Ngoại trưởng Mỹ thay bà Hillary Clinton. Tại phiên điều trần, ông
John Kerry nói rằng ông không bị thuyết phục về sự cần thiết gia tăng
quân sự mạnh mẽ của Mỹ ở châu Á, và ông này đã kêu gọi đưa ra suy nghĩ
mới về các mối quan hệ với Trung Quốc. Đặc biệt, ông John Kerry nhận
thức được những nghi ngờ ngày càng gia tăng của Trung Quốc về một “chính
sách kiềm chế” của Mỹ. Vị tân Ngoại trưởng Mỹ nói: “Bạn biết đấy, người
Trung Quốc nhìn vào điều đó và nói ‘Mỹ đang làm gì? Họ đang tìm cách
bao vây chúng ta? Điều gì sẽ xảy ra?’”
Có một số tín hiệu đáng hoan nghênh. Tuy nhiên,
những tín hiệu đó chưa chắc đã thay đổi được sự hồi sinh của phái chính
trị hữu khuynh ở Nhật Bản, hoặc sự cảnh giác của Mỹ đối với những ý định
của Trung Quốc khi người khổng lồ châu Á này giành lại được ảnh hưởng
toàn cầu của mình.
Theo kết quả một cuộc khảo sát ý kiến chính trị
công chúng Mỹ gần đây về chính sách ngoại giao của Oasinhtơn, do Hội
đồng các vấn đề Toàn cầu ở Chicago thực hiện, hầu hết người Mỹ tiếp tục
coi sự lãnh đạo của Mỹ là một điều đáng kỳ vọng nhưng họ muốn Mỹ có một
lập trường hợp tác hơn nữa. Đối với Trung Quốc, trong khi tỷ lệ người
nói rằng Trung Quốc là một đối tác (48%) gần ngang bằng với tỷ lệ người
nói rằng Trung Quốc là một đối thủ, thì hiện nay số người nói rằng Trung
Quốc là một đối tác đã gia tăng. Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế và
những hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông là một điều lo ngại
rõ ràng. Phần lớn những người được hỏi (54%) ủng hộ viẹc chuyển hướng
các nguồn lực quân sự và ngoại giao của Mỹ sang châu Á.
Chúng ta có thể ít thấy nói đến chiến lược
“chuyển trọng tâm sang châu Á” và thấy nói nhiều hơn đến “sự tái cân
bằng.” Tuy nhiên, việc Mỹ tăng cường các mối quan hệ quân sự và ngoại
giao với các nước láng giềng của Trung Quốc đang giúp cho một số nước
ngày càng quyết đoán hơn, khiến những nỗ lực tái cân bằng của Mỹ trong
khu vực trở nên phức tạp hơn.
Một bài báo gần đây của Chuyên gia bình luận Francesco Sisci đăng trên tờ“Thời báo châu Á”
tranh luận rằng việc giảm bớt căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước
thuộc nhóm G2 (Mỹ và Trung Quốc) có thể là một phương pháp tốt hơn để
đạt được sự ổn định trong khu vực, ngay cả khi Trung Quốc phản ứng thờ ơ
đối với một đề nghị như vậy. Giáo sư Hugh White thuộc Đại học Quốc gia
Ôxtrâylia đã đưa ra ý tưởng về một “châu Á hòa hợp” để tránh khả năng
xảy ra một “sự thù địch chiến lược chết người.” Theo ý tưởng này, Mỹ cần
phải là một đối tác và chia sẻ quyền lực khu vực với Trung Quốc, cùng
với Ấn Độ và Nhật Bản.
Zbigniew Brzezinski, một chuyên gia kỳ cựu về
chính sách đối ngoại của Mỹ vừa thúc đẩy một quan điểm của Mỹ về thế
giới bao gồm một “phương Tây rộng lớn hơn,” bằng cách gộp cả Nga và Thổ
Nhĩ Kỳ vào một Liên minh châu Âu mở rộng, và một “phương Đông phức tạp,”
nơi mà Mỹ sẽ hành động như một “người cân bằng khu vực,” giống như vai
trò của Anh ở chính trường châu Âu trước thời gian đầu thế kỷ 20.
Trong khi mỗi một chiến lược trong số những chiến
lược nói trên đều có ưu điểm, tất cả chúng đều có vẻ là một trò chơi
được mất ngang nhau, chưa chắc đã đảm bảo được sự hài hòa hay ổn định
của khu vực. Có lẽ đã đến lúc phải có những cách suy nghĩ mới mẻ như ông
John Kerry đã gợi ý.
Đầu tiên, cần phải thừa nhận rằng Trung Quốc sẽ
phải cải cách chính trị và điều này phải diễn ra sớm chứ không thể muộn,
khi cả sự ổn định của Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc đang đối mặt
với những nguy hiểm. Rõ ràng, Trung Quốc vẫn không được thuyết phục bởi
quan điểm rằng mô hình phương Tây dân chủ đa đảng có thể được “sao
chép” an toàn ở nước họ, nơi có tình hình hoàn toàn khác.
Tuy nhiên, Bắc Kinh có vẻ như phải theo đuổi các
cuộc cải cách trong lĩnh vực kinh tế và xã hội, như đã được nhấn mạnh
trong báo cáo do Ngân hàng Thế giới (WB) và Trung tâm Nghiên cứu Phát
triển của Quốc Vụ viện Trung Quốc đồng chủ trì. Những cải cách này bao
gồm tự do hóa tài chính, cải cách các doanh nghiệp nhà nước, phát triển
một nền kinh tế xanh và thúc đẩy xã hội dân sự. Việc hỗ trợ Trung Quốc
thực hiện được những cải cách này sẽ có nhiều khả năng giúp Trung Quốc
trở thành một thành viên được cộng đồng quốc tế chào đón, trong khi một
chính sách “kiềm chế” sẽ dẫn tới kết quả ngược lại.
Thứ hai, do thế giới không những đã trở thành một
trật tự đa cực, mà còn ngày càng phụ thuộc nhau nhiều hơn, nên đã dẫn
đến câu hỏi là liệu cách nghĩ truyền thống về những liên minh cố định có
còn phù hợp? Có thể hiểu các nhóm quốc gia khác nhau và các khu vực,
vùng lãnh thổ không phải là quốc gia, theo tư tưởng hay sự phân chia
chính trị, có thể hợp tác dựa trên một cơ sở đặc biệt để cùng giải quyết
những vấn đề chung. Những vấn đề này bao gồm sự thay đổi môi trường,
tình trạng cạn kiệt tài nguyên, khan hiếm nước sạch, xóa đói giảm nghèo,
chống cướp biển và chủ nghĩa khủng bố. Trong những vấn đề này, Trung
Quốc có một vai trò quan trọng, bởi hiện nay Trung Quốc đã phát triển
thành một nước lớn, có ảnh hưởng quan trọng trong nhiều lĩnh vực và tại
nhiều khu vực.
Thứ ba, có nguồn tin nói rằng Thượng nghị sĩ, tân
Ngoại trưởng John Kerry cũng muốn Mỹ đóng một vai trò lớn hơn ở châu
Phi, nơi sự can dự của Trung Quốc đã đem lại những bài học quan trọng
cho tất cả. Mặt khác, trong cuốn “Món quà của Rồng: Câu chuyện thực về
Trung Quốc ở châu Phi”, chuyên gia Deborah Brautigam đã chỉ ra trong
nhiều thập kỷ qua vốn sống dựa vào nguồn viện trợ của phương Tây, đến
nay nhiều nước nghèo ở châu Phi đã đạt được những tiến bộ kinh tế thực
sự. Dấu chân của Trung Quốc ở châu Phi đã đánh thức sự phản kháng của
người dân địa phương đối với tình trạng thiếu trách nhiệm xã hội, trong
đó có việc xâm phạm kinh tế địa phương một cách tùy tiện, coi nhẹ trách
nhiệm bảo vệ môi trường, cướp đi việc làm của lao động địa phương, và
các mối quan hệ nghèo nàn với người lao động.
Làm việc với Trung Quốc để khắc phục những vấn đề
này, có lẽ theo cơ chế hợp tác với Chương trình Phát triển Liên Hợp
Quốc (UNDP) và các cơ quan phi chính phủ khác, nhiều khả năng sẽ tạo ra
những lợi ích chung và lợi ích song phương.
Quan hệ Trung-Mỹ sẽ xác định rõ hình hài của thế
kỷ 21, và một chiến lược đối tác quyền lực mềm để giải quyết các vấn đề
toàn cầu với mục đích cao nhất là đưa Trung Quốc vào một trật tự thế
giới bền vững, hài hòa hơn, và mối quan hệ này được xây dựng trên sự hợp
tác song phương thay vì đối đầu và thù địch. Đây là điều mà một chiến
lược dịch chuyển trọng tâm quyền lực cứng và chiến lược tái cân bằng
chưa chắc đã có thể giải quyết được.
TTXVN (Angiê 7/4)
Theo bài phân tích của tác giả Henri Paris đăng trên mạng tin “Nghiên cứu chiến lược quốc tế”,
hiện cuộc đọ sức tranh giành bá quyền thế giới chỉ diễn ra giữa hai
cường quốc Mỹ và Trung Quốc. Chính vì vậy, rất lý thú khi phân tích
không gian mở và kín mà hai cường quốc này đang phải đối đầu. Một trong
những điểm xích mích mà năm 2013 chứng kiến đó là cuộc xung đột Xyri,
trong đó hành động của Trung Quốc tỏ ra kín đáo, song không kém phần
cứng rắn. Cũng vẫn với biện pháp cứng rắn và kín đáo này, Trung Quốc đã
thiết lập thành công tại châu Á hàng loạt căn cứ, một “chuỗi ngọc trai”
dọc trục hàng hải cung ứng nguyên liệu, nhất là dầu lửa. Nhưng một trong
những hạt ngọc trên là Mianma đã nhanh chóng giải quyết những bất ổn
đang tàn phá đất nước này và người Mỹ không còn xa lạ tại đây. Mỹ và
Trung Quốc là hai gã khổng lồ, hai siêu cường đang mở rộng ảnh hưởng của
mình ra toàn hành tinh. Trung Quốc đã thành công trên cương vị cường
quốc kinh tế thứ hai thế giới, vượt qua Nhật Bản ngay cuối thập kỷ đầu
của thế kỷ 21. Quả thực, Trung Quốc chưa thể đuổi kịp Mỹ, song thực tế
sẽ được thừa nhận trong tương lai giai đoạn năm 2030,- 2040. Tuy nhiên,
Trung Quốc vẫn còn là một cường quốc mới nổi, vừa mới thoát ra khỏi quy
chế nền kinh tế đang phát triển, song vẫn còn những dấu tích xác thực về
nhiều lĩnh vực chậm phát triển cũng như những bất công lớn về kinh tế
và xã hội trong lòng xã hội nước này. Hai cường quốc đang nuôi tham vọng
bá quyền, trước tiên là tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nhưng những
khát vọng của Trung Quốc đang vượt ra khỏi không gian chật hẹp so với
nước này tại khu vực, trong khi Mỹ tuyên bố muốn kiểm soát. Tháng
1/2012, Mỹ đã tuyên bố tập trung nỗ lực chiến lược vào khu vực châu
Á-Thái Bình Dương. Tuyên bố trên không còn là một bức thư chết: yếu tố
đầu tiên là một sự tái cân bàng toàn bộ hạm đội Mỹ và củng cố nhiều căn
cứ quân sự tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nhất là những căn cứ tại
Nhật Bản cũng như thiết lập những căn cứ mới trong đó có tại Ôxtrâylia.
Trung Quốc có tham vọng vượt ra khỏi không gian châu Á-Thái Bình Dương
bởi một phần hiển nhiên nguồn cung cấp năng lượng đên từ nước ngoài.
Những nguồn dầu khí nhập khẩu qua các tuyến hàng hải có tâm quan trọng
đặc biệt. Ngoài ra còn những hoạt động kinh tế của Trung Quốc tại châu
Phi và tham vọng thâm nhập lục địa Nam Mỹ. Hơn nữa, Vốn đầu tư của Trung
Quốc cũng đang hướng tới toàn thế giới. Sự va chạm trong tham vọng bá
quyền giữa Mỹ và Trung Quốc là không thể tránh khỏi trong các điều kiện
trên và có tác động tới toàn thế giới. Chính vì vậy, trong năm 2013, rất
lý thú khi điểm lại những vấn đề đối đầu trực tiếp hay qua các đồng
minh trung gian, nơi người Trung Quốc và Mỹ đối đầu nhau. Đầu tiên, Xyri
thu hút sự chú ý bởi cuộc nội chiến của họ. Nhưng liệu có cần phải đánh
giá một cách chính xác những thách thức và dự báo kết quả. Một cuộc
xung đột khác cũng phát sinh, song hầu như bị bỏ quên. Đó là người Trung
Quốc đang âm mưu kiểm soát eo biển Malacca – tuyến thông thương hàng
hải sống còn đối với nguồn cung nhiên liệu cho Trung Quốc, vấn đề đặt ra
cuối cùng là việc đánh giá tương quan lực lượng hạt nhân và không gian
của hai nước Mỹ và Trung Quốc.
Liên minh Trung-Nga tại Trung Đông
Chính vì sự thận trọng mà Trung Quốc đã xây dựng
một hệ thống liên minh, và điều quan trọng trong đó là một loạt thỏa
thuận với Nga. Thỏa thuận đầu tiên và quan trọng nhất liên quan đến Tổ
chức Hợp tác Thượng Hải (SCO). Được thành lập vào cuối thế kỷ 20, SCO đã
từng bước phát triển để trở thành một liên minh thực sự bao gồm các
nước Trung Á xung quanh Nga và Trung Quốc, trừ Tuốcmênixtan. Việc thành
lập SCO đã diễn ra thành công tại thành phố Thượng Hải và trụ sở được
đặt tại Bắc Kinh, cùng một hội nghị thượng đỉnh thường niên nhóm họp các
nguyên thủ nhà nước và chính phủ. Ban đầu với đường hướng chống chủ
nghĩa khủng bố Hồi giáo, SCO đã mở rộng phạm vi hoạt động để bao quát
toàn cầu, thu hút người Trung Quốc và Nga. Xyri nằm trong số các vấn đề
trên, cho thấy phạm vi hoạt động tầm xa của SCO. Hơn nữa, một loạt thỏa
thuận gắn kết người Nga với Trung Quốc, trong đó có các thỏa thuận quân
sự, đã được ký kết bên cạnh các cuộc tập trận hải quân chung tại Hồng
Hải diễn ra trong năm 2012. Ngày 4/12/2012, Trung Quốc và Nga đã ký kết
tại Bắc Kinh một loạt thỏa thuận song phương về hợp tác kỹ thuật và quân
sự. Các thỏa thuận này được ký kết tại phiên họp ủy ban liên chính phủ
hai nước lần thứ 13. Trong khuôn khổ hợp tác quốc tế, Trung Quốc luôn
hợp tác chặt chẽ với Nga, Braxin, Ấn Độ và Nam Phi, các nước thành viên
Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS), Cuối cùng, Trung Quốc và Nga đều
là thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và sở hữu khả năng hạt nhân
quân sự. Để chứng minh sự hợp tác Trung-Nga tại các diễn đàn quốc tế,
cần điểm lại hoạt động của hai nước tại các tổ chức G-20 và WTO. Tháng
6/2012 trong chuyến thăm Bắc Kinh ngay sau khi trở lại điện Cremli, Tổng
thống Nga Putin đã được Chủ tịch nước Trung Quốc tương lai Tập Cận Bình
đón tiếp trong khuôn khổ hội nghị SCO. Các bên liên quan đã tuyên bố
thể hiện tham vọng tiếp tục hợp tác trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt,
hai nước đã cam kết hành động thống nhất về vấn đề Xyri và mở rộng tầm
ảnh hưởng tại Ápganixtan ngay sau khi NATO rút quân, về tình hình Xyri,
trong tuyên bố chung Bắc Kinh và Mátxcơva cho thấy kiên quyết phản đối
mọi âm mưu can thiệp quân sự của nước ngoài nhằm thay đổi chế độ nước
này. Điều này giải thích việc nhiều lần Trung Quốc và Nga phủ quyết mọi
dự thảo tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhằm chống lại âm mưu can
thiệp quân sự như người Mỹ và Pháp mong muốn. Vì vậy, từ tháng
10/2011-7/2012 Trung Quốc và Nga đã ba lần phủ quyết tại Hội đồng Bảo
an. Những thông tin giả định đã chứng minh một mối đe dọa tấn công hóa
học từ phía những thành phần thân Chính phủ Xyri vào lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ
nhằm chống lại các nhóm đối lập. Dưới sự chỉ huy của NATO, các hệ thống
tên lửa đánh chặn PAC- 3 đã được triển khai tại biên giới Thổ Nhĩ
Kỳ-Xyri. Đức đã cung cấp binh sỹ và VŨ khí theo truyền thống liên minh
với Thổ Nhĩ Kỳ. Cuộc nổi dậy tại Xyri đã nổ ra ngày 22/3/2011 theo làn
sóng “Mùa Xuân Arập”. Theo vết trượt của Tuynidi và Libi, chính phủ đảng
Baath Xyri của Tổng thống Bashar al-Assad được Nga và Trung Quốc hậu
thuẫn đã sử dụng sức mạnh quân đội để trấn áp các cuộc biểu tình. Đảng
Baath dựa chủ yếu vào cộng đồng thiểu số người Alawite, thuộc nhánh Hồi
giáo Shiite thân với Iran hơn là người Hồi giáo Sunni thuộc Liên đoàn
Arập, gồm các nước đối thủ nặng ký như Cata và Arập Xêút. Những phần tử
Hồi giáo cấp tiến trà trộn dưới một cuộc cách mạng dân chủ đã không chậm
trễ thâm nhập vào Xyri và kiểm soát các tổ chức phiến quân: Hội đồng
dân tộc Xyri (SNC) và Quân đội Xyri tự do (FSA). Điều này làm người Mỹ
đặt hy vọng lớn bởi đang muốn thoát khỏi những cuộc xung đột Ápganixtan
và Irắc trong khi không muốn bị tấn công và không muốn nhảy vào một
“chảo lửa” mới. Tất cả các cường quốc đều hiểu đất nước Xyri của Tổng
thống Bashar al-Assad là “đại lộ” hướng đến Iran. Trong khi đó, Iran là
một phần quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc, Nga cũng như của
người Mỹ, Ixraen và phương Tây vì nhiều lý do trái ngược nhau. Người
Trung Quốc cần một nước Iran ổn định để cung cấp 7% lượng dầu mà Trung
Quốc đang phải nhập khẩu. Người Nga không thể chấp nhận từ bỏ căn cứ hải
quân duy nhất tại Địa Trung Hải là cảng Tartus, Xyri. Về phần mình,
người Mỹ ý thức rất rõ rằng ngoài giấc mơ “Đại Trung Đông”, họ còn đang
mất dần ảnh hưởng trong khu vực. Vì lý do đó, họ sẽ phải ngăn cản Iran
trang bị khả năng hạt nhân quân sự bởi điều này là một cơn ác mộng đối
với Oasinhtơn. Cuộc nội chiến đang tàn phá Xyri kể từ tháng 3/2011. Tới
ngày 1/1/2013, con số thường dân và binh sỹ Xyri thiệt mạng đã lên tới
60.000 người. Một dòng người tị nạn khổng lồ đang đổ sang các nước láng
giềng. Hiển nhiên, viện trợ mà Cata, Arập Xêút và Liên đoàn Arập cung
cấp là không thể đủ trong khi đất nước Xyri đang chìm ngập những kẻ Hồi
giáo cấp tiến. Quân đội Chính phủ Xyri cũng gặp khó khăn trong việc
giành chiến thắng trước một đối thủ đang thực hiện một cuộc chiến không
đối xứng. Giải pháp tương lai cho Xyri là hướng đến một chính phủ chuyển
tiếp loại bỏ vai trò của Tổng thống Bashar al-Assad, song không phải là
đảng Baath, SNC hay FSA. Cuối cùng, Trung Quốc và Nga luôn sẵn sàng ủng
hộ Chính phủ Xyri, song phải bảo vệ quyền lợi của hai nước này. Trận
chiến Xyri càng kéo dài thì càng có lợi cho liên minh Trung-Nga. Tấn
công vào sự mệt mỏi của người phương Tây luôn là một lựa chọn tốt. Hiện
ẩn số vẫn là phong trào Hezbollah, đến tháng 1/2013 vẫn có lập trường
thận trọng. Trong bài diễn văn đầu tiên trước công chúng tháng 1/2013
sau gần 8 năm, Tổng thống Bashar al-Assad đã tuyên bố rằng ông sẽ không
rời bỏ chính quyền trước thời hạn hợp pháp, tức không trước năm 2014,
thậm chí 2016 và còn có thể lâu hơn sau các cuộc bầu cử. Lời tuyên bố
trên mang dấu ấn của chủ nghĩa phi hiện thực. Làm sao có thể tổ chức
được các cuộc bầu cử tự do tại một đất nước đang chìm đắm trong một cuộc
nội chiến lan rộng. Do đó, Tổng thống Bashar al- Assad sẽ còn tại vị!
Thế tiến thoái lưỡng nan tại eo biển Malacca
Eo biển Malacca dài nhất thế giới, nằm giữa
Malaixia và Sumatra, thuộc Inđônêxia. Vùng phía Bắc được kiểm soát bởi
Thái Lan và nhất là Mianma, trong đó một chuỗi các đảo nhỏ phân ranh
vịnh Bengan với biển Andaman. Cũng chính vì vậy mà Mianma là nước bao
quát việc tiếp cận ra vào eo biển Malacca cùng với Inđônêxia và Ấn Độ
nhờ vào chuỗi đảo nhỏ hình thành các biển Andamam và Nicobar. Do đó eo
biển Malacca có vị trí sống còn, nhất là liên quan vận chuyển năng
lượng. Năm 2012, Trung Quốc đã tiêu thụ 10 triệu thùng dầu/ngày. Sản
xuất dầu trong nước Trung Quốc chỉ đạt 4,5 triệu thùng/ngày. Do đó lượng
dầu nhập khẩu ở mức 5,5 triệu thùng/ngày và chủ yếu đi qua eo biển
Malacca. Lĩnh vực sản xuất điện của Trung Quốc sử dụng 80% nhiên liệu
than đá, trong đó Trung Quốc tiêu thụ 45% lượng than khai thác trên toàn
thế giới. Vì vậy, Trung Quốc phải nhập khẩu than đá với số lượng ngày
càng gia tăng. Việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ở mức trên 7% là một
thách thức đối với Bắc Kinh. Chính mức tăng trưởng này cho phép ngăn
chặn phong trào chống đối trong nước, giữ cho Trung Quốc ở vị trí cường
quốc kinh tế thứ hai thế giới trong khi vẫn bảo đảm 4 đề xuất hiện đại
hóa được Đặng Tiểu Bình đưa ra năm 1979 gồm: nông nghiệp, sản xuất công
nghiệp, khoa học và công nghệ cũng như các lực lượng vũ trang. Vì vậy,
những hiện đại hóa trên phụ thuộc rất lớn vào nguồn năng lượng. Khoảng
85% nhập khẩu dầu khí của Trung Quốc phải đi qua eo biển Malacca cùng
phần lớn hàng hóa nhập và xuất khẩu của nước này. Chính điều này đã buộc
Trung Quốc phải trang bị một đội tàu buôn xếp vị trí hàng đầu thế giới
năm 2013. Những nhu cầu trên, được kích thích gấp đôi bởi ý chí chính
trị và chiến lược, đã làm Trung Quốc nuôi dưỡng tham vọng sở hữu một lực
lượng hải quân xuyên đại dương. Năm 2013 cho thấy đó vẫn còn là một
tham vọng. Tuy nhiên, để hỗ trợ hải quân và đảm bảo an toàn các tuyến
hàng hải cung cấp nhiên liệu tại châu Á, người Trung Quốc đã thiết lập
hàng loạt các căn cứ hải quân và cơ sở hạ tầng cảng biển. Hệ thống này
đã mở rộng ra ngoài không gian châu Á. Việc Trung Quốc mua lại quyền sử
dụng cảng Piraeus của Hy Lạp trong 30 năm chỉ là một ví dụ. Để chứng
minh, hàng loạt căn cứ hải quân tại Đông Nam Á mà Trung Quốc thiết lập
được gọi dưới cái tên chuỗi hạt ngọc trai, trong đó hạt ngọc quan trọng
nhất của chiếc vòng có tên Sittwe – cảng biển nằm ở phía Tây Bắc của
Mianma và là thủ phủ của tỉnh Arakan trải dài bờ vịnh Bengan cho phép đi
từ vịnh này ra biển Andamam và eo biển Malacca. Mianma có dân số khoảng
50 triệu người, được chia thành 7 bang và 7 vùng với nhiều dân tộc và
tôn giáo. Ban lãnh đạo đất nước do nhóm quân đội đảo chính nắm quyền duy
trì quan hệ tốt với Trung Quốc. Mối quan hệ tốt đẹp trên thế hiện qua
việc Mianma cho Trung Quốc thuê cảng Sittwe và Trung Quốc giành quyền
xây đập thủy điện tại bang Kachin ở phía Bắc. Sự kiện xây đập thủy điện
trên đã dẫn đến những phản đối của dân chúng. Một phong trào dân chủ
hùng mạnh do lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi lãnh đạo đã chống lại lực
lượng quân đội nắm quyền. Điều này đã thúc đẩy người Mỹ tích cực ủng hộ
các nhà đấu tranh dân chủ của Mianma. Ngoài vấn đề dân chủ, chính quyền
quân sự Mianma cũng tìm cách trấn áp ba nhóm phiến quân độc lập mà trong
đó không một nhóm nào ủng hộ người Trung Quốc. Một mối nguy hiểm nữa
đối với người Trung Quốc đến từ phía Tây, tại tỉnh Arakan và tác động
trực tiếp đến Sittwe, nơi năm 2012 một số người Trung Quốc đã bị sát
hại. Tỉnh Arakan gồm những người Hồi giáo di dân đến từ Bănglađét trong
thế kỷ 20. Do có thiện cảm với người đồng tôn giáo Duy Ngô Nhĩ nên họ có
tinh thần chống Trung Quốc. Khu vực thứ hai của Mianma ghi nhận bất ổn
là bang Kachin ở phía Bắc. Ngày 2/1/2013, Mỹ và Liên Hợp Quốc đã yêu cầu
Chính phủ Mianma chấm dứt không kích phiến quân thiểu số Kachin. Các
cuộc giao tranh giữa quân đội chính quyền với Quân đội độc lập Kachin đã
tái diễn vào tháng 6/2011 sau 17 năm đình chiến. Khu vực bất ổn cuối
cùng ở phía Nam Mianma, thuộc về người thiểu số Karen gần khu vực biển
Andaman. Người Karen theo đạo Thiên chúa và đạo Phật. Tương lai của
Mianma khá tăm tối. Thật khó tìm thấy một kỷ nguyên hòa bình ngay cả khi
lực lượng quân đội đảo chính nắm quyền sụp đổ. Việc thay thế lực lượng
quân đội bằng những nhà dân chủ chưa báo trước việc chấm dứt các hành
động thù nghịch bởi nhà chính trị Aung San Suu Kyi cũng không nhận được
sự ủng hộ từ các phe đối lập khác nhau. Người Mỹ cũng có ít cơ hội với
bà Aung San Suu Kyi mà họ ủng hộ. Tình hình tại Mianma cũng không còn
thuận lợi cho người Trung Quốc nữa. Trong khi đó, Trung Quốc lại rất cần
các Nhà nước đồng minh để kiểm soát eo biển Malacca. Có nguy cơ Mianma
và cảng Sittwe thoát khỏi tầm ảnh hưởng của Trung Quốc trừ khi Bắc Kinh
tăng cường sự ủng hộ hơn nữa. Việc sở hữu cảng Sittwe trở nên bấp bênh
bởi không loại trừ giả thiết một phe đối lập tại Mianma do người Mỹ tạo
nên tiến hành cuộc chiến chống lại các đồng minh chồng chéo của Mianma.
Việc mất đi cảng Sittwe, một hạt ngọc quan trọng trong chuỗi đảo, sẽ là
một tai họa thực sự đối với Bắc Kinh.
Kết luận
Liên quan đến Xyri, Trung Quốc có một sự phản đối
gián tiếp. Người Trung Quốc ủng hộ người Nga. Về chủ đề Mianma, người
Trung Quốc buộc phải đi tiên phong. Hai Nhà nước Trung Quốc và Mỹ đều sở
hữu khả năng hạt nhân được phát triển một cách đồng đều. Tuy nhiên,
người Trung Quốc có đủ khả năng để buộc người Mỹ phải chịu những thiệt
hại ngay trên lãnh thổ nước mình. Hai Nhà nước cũng có tiềm năng không
gian và khả năng phòng thủ tên lửa. Về cấp độ các lực lượng vũ trang quy
ước, nhất là hải quân, ưu thế thuộc về Mỹ đã được xác nhận. Dự báo
những đột biến giữa Mỹ và Trung Quốc không quên nhắc đến một cuộc chiến
tranh lạnh. Tuy nhiên, tình hình không còn như thế ngay cả khi mọi thứ
cho thấy giống một cuộc chiến trạnh lạnh.