Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

16. NATO đang vươn vai



LTS. Đã qua từ lâu cái ngày Mỹ và một số nước châu Âu ký hiệp ước thành lập Khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Ngày nay, hoạt động của NATO qua thời gian đã không còn giới hạn ở Bắc Đại Tây Dương nữa, Tổ chức này đang vươn vai mở rộng phạm vi hoạt động qua Afghanistan, sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương và đang hướng... lên trời trong các cuộc chiến không gian...


Không ai nghi ngờ về vai trò toàn cầu của một tổ chức an ninh tập thể đang vươn mình, thế nhưng, những kỳ vọng và tham vọng của các thành viên và những nhà sáng lập NATO dường như vẫn vượt quá tiềm lực của cả khối.
Từ phòng thủ đến tấn công
Mục tiêu mà các nước tham gia sáng lập NATO đưa ra năm 1949 là thiết lập một liên minh trong đó các nước thành viên thực hiện phòng thủ chung khi bị tấn công bởi bên ngoài. Trong giai đoạn đầu mới thành lập, NATO đã trở thành cánh tay đắc lực trong chính sách đối ngoại của Mỹ góp phần kiềm chế khối Vác-sa-va do Liên Xô cũ đứng đầu và nhằm mục đích cuối cùng là tái cân bằng "cán cân chiến lược". Như vậy, có thể nói đến một NATO thiên về phòng thủ, phù hợp với bối cảnh Chiến tranh Lạnh.
Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ (1991), NATO nằm ở trung tâm chiến lược đầy lùi và ngăn chặn mọi sự hồi sinh của Nga. Không những đánh bật ảnh hưởng của Nga khỏi một số nước truyền thống, mà còn mở rộng sang Đông Âu, siết chặt vòng vây quanh Nga. NATO đã thiên về tiến công, thâu tóm cán cân lực lượng mới nảy sinh từ thời hậu Xô viết như một cơ hội thực tiễn để mở rộng vùng trách nhiệm và can thiệp.
Mỹ và NATO còn tham gia can thiệp chính trị tại không gian ảnh hưởng lịch sử của Nga (lật đổ chính phủ Kyrgyzstan năm 2005), hỗ trợ cuộc cách mạng màu (2005 và 2010 ở Ukraine và Kyrgyzstan), mở rộng hợp tác kinh tế với các nước Cộng đồng các quốc gia độc lập… Trong con mắt của Nga, NATO là dư âm của Chiến tranh Lạnh, nhưng không còn hợp pháp nữa khi mở rộng và có mặt ở khắp nơi như hiện nay. Học thuyết chiến lược mới của Nga được đưa ra vào tháng 1/2010, coi NATO là mối đe dọa lớn (hàng đầu).
Nhắc lại tóm tắt lịch sử phát triển của NATO và quan hệ với Nga để thấy vai trò của tổ chức ngày càng lớn, và ảnh hưởng của nó cũng ngày càng sâu rộng cũng như mối quan hệ khá gai góc của tổ chức này với Nga trong quá trình tìm lại vị trí siêu cường.
Những sáng kiến mới
Sự kiện Hội nghị thượng đỉnh năm nay của NATO tại Chicago (Mỹ) nhận được sự chú ý của đông đảo dư luận. Hội nghị được xem là “lớn nhất trong lịch sử NATO”, với sự tham gia của các nhà lãnh đạo từ 61 quốc gia, trong đó có 28 nước thành viên NATO, 22 nước đối tác tham gia lực lượng hỗ trợ an ninh quốc tế (ISAF), các tổ chức quốc tế thuộc LHQ, EU và các đối tác khác của NATO.
Hội nghị tập trung vào 3 vấn đề lớn: Thống nhất lịch trình rút quân tại Afghanisan và kế hoạch hậu Afghanistan sau 2014; Các biện pháp nhằm tăng cường năng lực quốc phòng của NATO; Phát triển quan hệ đối tác giữa NATO và các nước đối tác từ các khu vực khác.
Thượng đỉnh Chicago đã cụ thể hóa các mốc chuyển giao để lực lượng hỗ trợ an ninh quốc tế - ISAF chuyển từ nhiệm vụ chiến đấu sang hỗ trợ lực lượng an ninh của Afghanistan đứng ra đảm nhiệm vai trò chính và xác định quan hệ của NATO với Afghanistan thời kỳ hậu 2014. NATO và các nước đối tác trong ISAF đã thống nhất sẽ tiếp tục hỗ trợ trong việc xây dựng cấu trúc hạ tầng cho nhà nước Afghanistan, bao gồm cả hệ thống lập pháp và hành pháp, trên nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền bình đẳng giới và hướng tới xã hội dân chủ. NATO và cộng đồng quốc tế cam kết sẽ hỗ trợ đào tạo, trang bị và đóng góp tài chính cho việc duy trì lực lượng an ninh ANSF của Afghanistan từ 2014 cho tới 2024, với khoản đóng góp giảm dần theo từng năm, phù hợp với sự phát triển kinh tế của Afghanistan. (Theo ước tính, Afghanistan cần 4,1 tỷ USD để duy trì lực lượng quân đội với 228.500 người, trong khi phía Afghanistan chỉ có thể đóng góp 500 triệu USD tính từ năm 2015.).
Nhằm tăng cường năng lực quốc phòng của khối tương xứng với tham vọng đóng vai trò duy trì an ninh toàn cầu trong bối cảnh mọi thành viên NATO đều chịu ảnh hưởng mạnh từ khủng hoảng kinh tế thế giới, NATO đã đưa ra sáng kiến sử dụng ngân sách quốc phòng một cách hiệu quả hơn, bao gồm 2 nội dung chính:
Thứ nhất là Phòng vệ Thông minh (Smart Defense) do Tổng thư ký NATO Rasmussen khởi xướng từ đầu năm 2012, nhằm phối hợp sử dụng ngân sách quốc phòng của mỗi quốc gia một cách hiệu quả hơn. Cụ thể là khuyến khích 28 nước thành viên NATO, thay vì sử dụng ngân sách quốc phòng của mình để trang bị những vũ khí trên cơ sở nhu cầu của quốc gia, thì nay sẽ phối hợp phân công nhiệm vụ dựa trên nhu cầu chung của NATO để tránh chồng chéo lãng phí ở một số lĩnh vực, trong khi lại yếu kém ở những lĩnh vực khác.
Tuy nhiên, sáng kiến phòng vệ thông minh được đưa ra trong một bối cảnh đặc biệt, ngân sách quốc phòng căng thẳng chưa từng có tại mọi nước thành viên. Mỹ với tư cách là nước chi tiêu quốc phòng lớn nhất thế giới cho tới nay đang phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn trong bối cảnh nước này phải quyết định thực hiện khoản cắt giảm 487 tỷ USD. Tại châu Âu, do hậu quả của khủng hoảng tài chính: từ 2008 đến 2010, chi tiêu quốc phòng thực của các nước châu Âu thành viên NATO giảm bình quân 7,4% ở mỗi nước. Giai đoạn 2010-2011, chi tiêu quốc phòng thực của châu Âu về tổng thể giảm thêm 2,8%.
Mặt khác, châu Âu cũng nhận thức được rằng riêng từng nước sẽ không thể có một lực lượng an ninh toàn diện để đối phó với những thách thức an ninh mới, trong khi chính sách chuyển trọng tâm về châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ đang đặt châu Âu vào hoàn cảnh buộc phải tính đến việc tự bảo vệ mình tại các khu vực lân cận. Chưa kể, việc thực hiện “smart defense” sẽ phức tạp vì hai lẽ: Một là cần có sự tin tưởng tuyệt đối về cam kết chính trị giữa các thành viên NATO đối với việc sẵn sàng đóng góp nguồn lực thế mạnh của mình khi được yêu cầu. Hai là, NATO cần phải có cơ chế xử lý thoả đáng nếu các nước thành viên không sẵn sàng tham gia vào một hoạt động chung của NATO. Với những khó khăn như vậy, “smart defense” trước mắt chỉ có khả năng thành công ở các dự án phối hợp đa quốc gia của NATO để xây dựng các tài sản chung của khối và trong các dự án thực hiện sáng kiến kết nối lực lượng trên toàn NATO để nâng cao năng lực quân sự chung của khối.
Thứ hai là Sáng kiến Liên kết lực lượng (Connected forces Initiative) nhằm phối hợp tốt hơn trong huấn luyện và phối hợp triển khai giữa các lực lượng quốc gia của các nước thành viên NATO; tăng cường sự kết nối giữa Tổng Tư lệnh NATO và Tổng Tư lệnh quân đội các nước thành viên; thúc đẩy việc đơn giản hóa và hiệu quả hóa bộ máy chỉ huy của NATO và các nước thành viên.
NATO đã thông qua “Gói các năng lực quốc phòng” cần được phát triển bao gồm: triển khai giai đoạn đầu của dự án lá chắn phòng thủ tên lửa (NMD) để bảo vệ cho toàn bộ 28 nước thành viên; triển khai dự án Do thám, trinh sát trận địa và một số lĩnh vực NATO còn yếu kém khác.
Về phát triển quan hệ đối tác, đây là Hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên xác định sự cần thiết phải xây dựng một mạng lưới quan hệ đối tác trên khắp thế giới để giúp NATO hoàn thành vai trò làm trụ cột trong việc giải quyết các vấn đề an ninh toàn cầu. Việc phát triển mạng lưới quan hệ đối tác được coi là một bước đi “đúng hướng” của NATO, được chứng minh bằng sự tham gia tích cực của các nước đối tác thời gian vừa qua trong các hoạt động do NATO lãnh đạo tại Kosovo, Balkans, Libya và Afghanistan. Sự tham gia của các đối tác mang lại cho NATO hai lợi ích chính: chia sẻ gánh nặng và xử lý hiệu quả những mục tiêu an ninh ngoài khu vực; tăng tính chính đáng cho các sứ mệnh bên ngoài khu vực an ninh truyền thống của NATO. Các đối tác hiện nay của NATO bao gồm: Áo, Phần Lan, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Gruzia, Jordan, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Morocco, Qatar và Các Tiểu Vương Quốc Ả rập thống nhất.
Thách thức bên ngoài và Hiểm họa bên trong
Nhìn chung, tham vọng thực hiện “vai trò toàn cầu” mới, “sẵn sàng tham chiến ở bất kỳ nơi nào trên thế giới khi được yêu cầu” của NATO đứng trước những thách thức lớn. Thứ nhất, để trở thành Trung tâm an ninh toàn cầu, NATO cần phải giải quyết được vấn đề chia sẻ gánh nặng - vốn vẫn gây căng thẳng ngay từ khi NATO mới được thành lập và càng nhạy cảm hơn đối với Mỹ trong thời điểm kinh tế khó khăn. Hiện nay chi tiêu quốc phòng của châu Âu chiếm khoảng 1,6% GDP so với mức 4% của Mỹ, và Mỹ cũng đã thể hiện sự bất mãn này trong bài phát biểu khá “nặng lời” của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates tháng 6/2011, cảnh báo châu Âu có nguy cơ “trở thành một đối tác thừa trong một liên minh an ninh tập thể”.
Thứ hai, ngay cả khi NATO có đủ sức mạnh quân sự và kinh tế để thực hiện một sứ mệnh toàn cầu như vậy thì cơ chế quyết định việc tham gia của NATO sẽ như thế nào? Các trường hợp được coi là can thiệp “thành công” của NATO tại Afghanistan và Libya, ban đầu chỉ được khởi xướng bởi một số ít thành viên và trong quá trình thực hiện cũng có nhiều bất đồng giữa các thành viên về những mục tiêu cũng như cam kết chung của NATO.
Không thể không nói đến một thách thức nữa đối với vai trò toàn cầu của NATO, đó là thái độ của các nước lớn khác, đặc biệt là Nga. Kể từ bước đột phá tại Thượng đỉnh Lisbon 2010, Quan hệ NATO – Nga hầu như không có tiến triển gì. Tại Chicago, Nga đã chứng kiến việc NATO tuyên bố thực hiện giai đoạn đầu tiên của kế hoạch NMD - kế hoạch mà Nga tiếp tục phản đối mạnh mẽ. Để làm dịu phản ứng của Nga, NATO tái khẳng định Nga không phải là mối đe dọa của mình và NATO sẵn sàng hợp tác với Nga trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, giữa hai bên vẫn còn tồn tại nhiều bất đồng và nghi ngại khi Nga phản đối sự can thiệp của NATO tại Libya, phản đối Gruzia tham gia NATO; còn các thành viên Đông Âu của NATO luôn nghi ngại về thái độ của Nga và việc tập trận của Nga tại biên giới Tây Bắc. Tuy vậy, vẫn có một số điểm sáng trong quan hệ, đó là việc Nga hỗ trợ cung cấp Trạm chung chuyển tiếp tế cho quân NATO tại Afghanistan, hợp tác với NATO trong một số dự án chống khủng bố, chống vi phạm bản quyền, hợp tác không vận, dự án kiểm soát các thiết bị gây nổ tại sân bay.
Không những thế, NATO hiện tại còn lo ngại trước các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng đến từ phương Đông. Tại Hội nghị của Tổ chức Hiệp ước Hợp tác an ninh tập thể (CSTO) mới đây ở Mátxcơva, Tổng thống Kazakhstan Nursultan Nazarbayev đã mô tả vai trò của NATO sau Chiến tranh Lạnh là "hoàn toàn không rõ ràng". Thay vào đó, ông tán đồng xu hướng chống khủng bố của CSTO - tổ chức hiện được coi là "NATO phương Đông" gồm 7 nước thành viên là Nga, Kazakhstan, Belarus, Armenia, Tajikistan, Kyrgyzstan, Uzbekistan, với Nga là "bộ não". Các quy định của CSTO cũng giống như NATO, trong đó coi cuộc tấn công vào một quốc gia thành viên đồng nghĩa với việc nhắm vào cả khối.
Một thế lực khác có thể trở thành một đối trọng với NATO là Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO). Kết quả của Hội nghị Ngoại trưởng SCO tại Bắc Kinh mới đây cho thấy tổ chức này đang sẵn sàng cho những thay đổi lớn. Trong thập kỷ 1990, SCO là một tổ chức xây dựng lòng tin giữa Nga, Trung Quốc và 4 nước Trung Á. Sang đầu thế kỷ 21, SCO đã chuyển trọng tâm sang chống khủng bố, buôn ma túy quốc tế cũng như hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế và nhân đạo. Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov cho biết từ nay trở đi, SCO sẽ có một chính sách chung và quan điểm thống nhất của SCO sẽ ủng hộ những nỗ lực của Nga và Trung Quốc nhằm ngăn chặn sự thao túng của phương Tây trong các vấn đề quốc tế.
Răn đe và đánh bại một cuộc tấn công của Liên Xô vào Tây Âu là việc của 60 năm trước và Liên Xô giờ đã không còn tồn tại. Hiện sự tiến triển của NATO từ một tổ chức an ninh khu vực thành một tổ chức an ninh tập thể có vai trò toàn cầu là một xu thế quan trọng tác động đến cục diện thế giới nói chung cũng như khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói riêng. Hệ lụy của quá trình này đối với sự ổn định của thế giới và khu vực là yếu tố cần được tính đến trong việc hoạch định chính sách của mỗi quốc gia.
Vũ Châu Âu
http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/BAICHU/2012/6/0F4C445FD40BDC3B/

Nga – NATO: Cần sự thống nhất về tư duy
Sự xích lại gần nhau giữa NATO và Nga quả thực đáp ứng một nhu cầu chiến lược thực sự đối với cả hai bên.
Nồng ấm ngoại giao…
Về lý thuyết, NATO và Nga gần đây có mối quan hệ rất tốt. Hợp tác được khởi động lại. Hội đồng NATO-Nga đóng vai trò diễn đàn tham khảo ý kiến, nơi các vấn đề cơ bản được xử lý. Nhờ đó nhiều bất đồng được giải tỏa. Hợp tác cụ thể giữa hai bên bao gồm 6 lĩnh vực: đấu tranh chống khủng bố, cứu nạn trên biển, chống cướp biển, trao đổi giữa các Viện hàn lâm quân sự, hợp tác hậu cần và phòng thủ tên lửa đạn đạo chiến trường. Khoảng 160 hoạt động đã được tiến hành trong năm 2010, từ trao đổi chuyên gia đến tham gia tập trận hay thực tập.
Một bộ thuật ngữ thống nhất cho đối thoại Nga-NATO được thông qua. Đây là yếu tố quan trọng đối với tiến trình tác động đến các khái niệm khác nhau và phức tạp. NATO công khai đưa ra toàn bộ thuật ngữ nhiều người mong đợi tại Hội nghị thượng đỉnh Lisbon (tháng 11/2010). Đó là Khái niệm chiến lược mới trong đó Nga luôn được mô tả như một đối tác hết sức quan trọng và đưa ra mục tiêu không ngừng cải thiện mối quan hệ với nước này. Còn Nga không tỏ ra vui mừng trước khó khăn của liên quân do NATO đứng đầu về vấn đề Afghanistan. Nga chúc NATO thành công trong việc giữ ổn định vùng này, từ đó tránh nguy cơ lây lan sang các nước cộng hòa Soviet trước đây ở Trung Á và làm triệt tiêu nguồn cung ứng ma túy tràn ngập thị trường nước này.
Ngoài ra, sau khi Hội đồng Bảo an LHQ ngày 17/3/2011 bỏ phiếu nghị quyết 1973, thái độ của Nga trước hành động của NATO ở Libya vẫn mang tính hòa giải. Tổng thống Nga lúc đó, Dmitry Medvedev, thậm chí còn sửa một tuyên bố không thích hợp của Thủ tướng Putin phê phán một cuộc “thập tự chinh” mới. Việc Nga phê chuẩn Hiệp ước cắt giảm vũ khí tấn công chiến lược START III vào tháng 2/2011 cũng được xem như bằng chứng cho thấy tính nghiêm túc của Nga trong mối quan hệ với Mỹ. Đã không còn “yếu tố kích động” trong mối quan hệ Nga- NATO khi NATO ngừng xem xét đề nghị gia nhập của Ucraina. Thậm chí, cả hai bên chấp nhận “sống cùng bất đồng” trong trường hợp liên quan đến Grudia và Mondovia. Qua đó, có thể cho rằng gần đây, mối quan hệ Nga- NATO được thúc đẩy thực sự… nhưng chưa thực sự “ăn khớp”.
Tuy nhiên, Nga không hài lòng với tình hình mới ở châu Âu mà vẫn luôn cảm thấy mình bị gạt ra ngoài lề về phương diện chính trị và an ninh. Các yêu sách liên tiếp của Nga vẫn không được thỏa mãn. Còn nhiều vấn đề lùng bùng, từ cơ cấu an ninh mới ở châu Âu đến hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu lục hay thương lượng lại Hiệp ước về các lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu (CFE).
Giữa Nga và NATO cần phải có thêm thiện chí và lòng tin thì các vấn đề quan trọng mới có thể lần lượt được xử lý. Tuy nhiên, vẫn còn có tình trạng không hiểu nhau, ít nhiều thể hiện một cách công khai.
Một số người cho rằng Nga góp phần làm gia tăng mối lo ngại trong cuộc chiến Grudia khi không ngần ngại sử dụng vũ lực giải quyết bất đồng về biên giới. Đáp lại, NATO ngừng hoạt động của hội đồng Nga – NATO trong một năm khiến nước này không có diễn đàn để trao đổi vấn đề hợp tác cũng như tranh chấp. Năm tiếp theo, Nga và Belarus tổ chức ngay cạnh Litva và Ba Lan một loạt các cuộc tập trận quy mô lớn với kịch bản mập mờ về một cuộc nổi dậy của một thiểu số người có ý đồ ly khai, rồi vụ Artie Sea, một chiếc tàu chở hàng mang cờ Manta, được một công ty Phần Lan thuê và do một thủy thủ đoàn Nga điều khiển, bị bắt cóc vào mùa Hè năm 2009, được lực lượng cảnh sát Nga tìm thấy một cách bí hiểm. Vụ này cho đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ và chứa đựng một số điểm không rõ ràng, cụ thể như vai trò của Nga. Trong những tuyên bố về chính sách đối ngoại của NATO, cho dù thuật ngữ “mối đe dọa” vẫn bị loại bỏ, song vẫn có lối nói nước đôi và đòi hỏi không giấu giếm về kế hoạch phòng thủ. Nga tỏ ra phật ý về điều đó và đòi NATO phải từ bỏ kế hoạch này nhưng không nói điều kiện đối ứng là gì cho thấy đây là điều nghịch lý hay là quên có chủ ý.
Nhắm đến dư luận trong nước, quan điểm của Nga về NATO không rõ ràng. Lối nói nước đôi trong học thuyết quân sự được thông qua ngày 5/2/2010 cho thấy rõ điều đó: Với nhiều khái niệm và thuật ngữ được sử dụng, học thuyết bị một số người cho rằng mô tả NATO như kẻ thù địch.
Trong vấn đề lá chắn tên lửa, Nga tỏ ra ngờ vực. Việc triển khai hệ thống chiến lược này được xem như yếu tố gây mất ổn định sâu rộng, từ đó hợp thức hóa một cuộc chạy đua vũ trang mới. Đối với NATO, mặc dù bầu không khí đang không thuận, việc Nga định sử dụng tên lửa để đánh lại phương Tây là điều hoàn toàn không thể có. Nhưng không phải vì thế mà cường quốc Nga không có cảm giác bị thua kém khi kho vũ khí chiến lược của họ có nguy cơ bị lỗi thời.
Nhưng cách biệt rõ rệt nhất liên quan đến quan niệm ngoại giao. Đối với Nga, quan hệ quốc tế, như được truyền lại cho các giới tinh hoa tương lai, vẫn được nhìn nhận như một ván cờ tướng. Đó là một cuộc chơi bắt buộc dẫn đến một nhãn quan đối đầu về mối quan hệ giữa các dân tộc, được mất rõ ràng. Trái lại, văn hóa ngoại giao phương Tây dựa vào học thuyết “win-win” theo đó, tất cả đều được. Mối quan hệ giữa các dân tộc cũng là một hình thức quan hệ. Nhưng, hai nền văn hóa ngoại giao này khó có thể ăn ý với nhau vì tuy có thể hiểu nhau về từ ngữ, nhưng chưa cho thấy sự thống nhất về tư tưởng.
Tân Cúc




Ý kiến
NATO đã phô diễn sự dũng cảm tại hội nghị ở Chicago, song trên thực tế, liên minh này đang bị suy yếu do cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đồng euro. Câu hỏi lớn cho hội nghị thượng đỉnh lần này là NATO - được thành lập thời kỳ chiến tranh lạnh - sẽ thích nghi với thế giới như thế nào sau năm 2014? Reuters (Anh)
Sự gắn kết nội bộ NATO đã suy giảm rõ rệt và chưa rõ liệu NATO có tiếp tục can dự vào những nơi khác trên thế giới hay không. Khó khăn lớn của NATO hiện nay là nhiều nước châu Âu cắt giảm mạnh ngân sách quốc phòng khiến cho khoảng cách về năng lực quân sự giữa Mỹ và các thành viên khác của NATO ngày càng lớn. Giáo sư Clara O Donnell, Học viện Brookings (Mỹ)
NATO là thể chế duy nhất mà châu Âu có với Mỹ và cũng là tổ chức duy nhất mà châu Âu có thể mở rộng sức mạnh quân sự của mình. Nếu không có NATO, châu Âu không thể đóng vai trò bảo vệ an ninh trên trường quốc tế. Annette Houser, Giám đốc tổ chức Bertelsmann
Tình trạng cắt giảm chi tiêu quốc phòng đã khiến người ta phải hoài nghi về khả năng hoạt động của NATO. Làm thế nào mà họ có thể chiến đấu và người Mỹ với người châu Âu sẽ bên nhau như thế nào khi mà người châu Âu không chi đủ cho cuộc chiến đó. Justin Vaisse, Viện Brookings
Sáng kiến phòng thủ thông minh mặc dù là một ý tưởng hợp lý, nhưng lại phải đối mặt với thực tiễn chính trị khắc nghiệt. Tất cả các thành viên chủ chốt của NATO đều ủng hộ việc tập trung và chia sẻ nhưng chỉ mang tính chất hứa hẹn. Khi cần phải huy động vũ khí, khí tài cho các chiến dịch chung, họ thường viện dẫn lý do không sẵn sàng do phải phục vụ nhu cầu trong nước hoặc không xin được phê chuẩn của quốc hội. Sự từ chối này vẫn xuất hiện cho đến tận gần đây trong chiến dịch tại Lybia, không những làm xói mòn tính thống nhất của NATO, mà còn cho thấy sáng kiến Phòng thủ Thông minh ít có tính thực tiễn.  Karl-Heinz Kamp, Học viện Quốc phòng NATO có trụ sở tại Rome