Tại
sao và Khi nào Trung Quốc sử dụng vũ lực trong tranh chấp lãnh thổ là
cơ sở quan trọng giúp dự đoán hành vi của nước này. Bài nghiên cứu của
GS. Fravel Taylor, Viện Công nghệ MIT chỉ ra rằng: khi ưu thế thương
lượng suy giảm là lúc Trung Quốc thường sử dụng vũ lực nhất.
Khi
sức mạnh quân sự của Trung Quốc gia tăng thì các quan ngại về khả năng
Trung Quốc xâm chiếm lãnh thổ của các nước khác cũng gia tăng theo.
Những quan ngại này cho thấy sự bất ổn và lo ngại luôn song hành cùng
với sự dịch chuyển sức mạnh. Trong lịch sử, phát triển nhanh chóng bên
trong thường thúc đẩy các nước xác định lại và mở rộng lợi ích của mình
ra bên ngoài.[1]
Hơn nữa, phát triển kinh tế giúp các nước đầu tư tăng cường tiềm lực
quân sự để theo đuổi lợi ích của mình, đặc biệt là các yêu sách về lãnh
thổ dài hạn. Phản ánh những lo ngại này, Ủy ban Đánh giá Quan hệ Kinh tế
và An ninh Mỹ – Trung của Quốc hội Mỹ, kết luận rằng Trung Quốc có thể
“lợi dụng sức mạnh quân sự tiên tiến hơn để đe dọa sử dụng vũ lực, hoặc
sử dụng vũ lực nhằm hỗ trợ các giải pháp giải quyết tranh chấp lãnh thổ
theo hướng có lợi cho mình”.[2]
Tuy
nhiên, cách thức Trung Quốc sử dụng vũ lực trong các tranh chấp lãnh
thổ kể từ năm 1949 đến nay hết sức đa dạng. Trung Quốc có tổng cộng hai
mươi ba tranh chấp lãnh thổ với các quốc gia khác, nhưng cho đến nay họ
mới chỉ sử dụng vũ lực trong sáu trường hợp.[3]
Một số tranh chấp, đặt biệt là tranh chấp với Ấn Độ và Việt Nam, rất
khốc liệt; những tranh chấp khác, như tranh chấp giữa Trung Quốc và Liên
Xô, từng có nguy cơ chuyển thành chiến tranh hạt nhân. Mặc dù Trung
Quốc luôn sẵn sàng sử dụng vũ lực trong một số xung đột, nhưng Trung
Quốc chỉ chiếm thêm rất ít lãnh thổ mà Trung Quốc không kiểm soát trước
khi xảy ra xung đột. Ngoài ra, Trung quốc thỏa hiệp nhiều hơn là sử dụng
vũ lực, và đã nhượng bộ tới mười bảy trong số hai mươi ba tranh chấp
lãnh thổ.[4]
Nếu
chiếu theo các lý thuyết chính về quan hệ quốc tế thì so với các quốc
gia có đặc điểm tương tự, Trung Quốc là nước ít hiếu chiến hơn. Đối với
các học giả theo thuyết chủ nghĩa hiện thực về gây chiến trước
(offensive realism), Trung Quốc hiếm khi khai thác ưu thế quân sự của
mình để mặc cả quyết liệt nhằm đòi các vùng lãnh thổ mà Trung Quốc có
yêu sách hoặc dùng vũ lực chiếm các vùng lãnh thổ này. Mặc dù sức mạnh
quân sự và kinh tế của Trung Quốc đã mạnh hơn rất nhiều kể từ năm 1990,
nhưng Trung Quốc cũng không tỏ ra hiếu chiến hơn khi xử lý các tranh
chấp lãnh thổ. Đối với các học giả nghiên cứu các tác động của chủ nghĩa
dân tộc, Trung Quốc sẵn sàng nhân nhượng về lãnh thổ. Điều này cho thấy
không hẳn Trung Quốc lợi dụng quá khứ lịch sử là nạn nhân của nước
ngoài và bị chia cắt lãnh thổ để có thái độ cứng rắn trong các tranh
chấp về lãnh thổ. Các học giả chuyên nghiên cứu về vai trò của các thiết
chế chính trị Trung Quốc cho biết Trung Quốc chỉ sử dụng vũ lực trong
một số tranh chấp lãnh thổ, mặc dù hệ thống chính trị của Trung Quốc là
độc tài, tập quyền và ít bị kiểm soát về sử dụng vũ lực.
Phân
tích về việc Trung Quốc sử dụng vũ lực trong các tranh chấp lãnh thổ
trong quá khứ sẽ là cơ sở giúp chúng ta đoán biết khả năng xảy ra các
xung đột bạo lực ở Đông Á. Trong hệ thống quốc tế bao gồm các quốc gia
có chủ quyền, hành vi của một quốc gia trong việc giải quyết tranh chấp
lãnh thổ là một yếu tố quan trọng để xác định quốc gia đó muốn duy trì
nguyên trạng hay tìm cách thay đổi đường biên giới quốc gia của mình.
Trong lịch sử, lãnh thổ là vấn đề dễ đẩy các quốc gia đi đến chiến tranh
nhất.[5] Hiện
nay, các tranh chấp của Trung Quốc đối với Đài Loan và quần đảo Điếu Ngư
(Senkaku) với Nhật đang làm tăng nguy cơ chiến tranh giữa Trung Quốc và
Mỹ, vì Mỹ có quan hệ an ninh mật thiết với cả Đài Bắc và Tokyo. Mặc dù
nhiều nghiên cứu chứng minh rằng Trung Quốc sử dụng vũ lực chủ yếu trong
các tranh chấp lãnh thổ, nhưng chưa có một nghiên cứu mang tính hệ
thống, phân tích kỹ lưỡng Trung Quốc thường sử dụng vũ lực trong những
hoàn cảnh nào.[6]
Các
nghiên cứu hiện tại mới chỉ xác định được những tranh chấp dễ có nguy
cơ dẫn đến chiến tranh nhất. Các quốc gia theo chế độ dân chủ và đồng
minh của họ ít có khả năng đánh nhau để tranh giành lãnh thổ hơn các
quốc gia khác. Trái lại, các quốc gia có thiên hướng dùng sử dụng vũ lực
để tranh giành lãnh thổ là các quốc gia được đánh giá cao về vị trí
chiến lược, tiềm năng kinh tế và tính biểu tượng, hoặc mạnh hơn đối
phương về mặt quân sự.[7]
Nghiên cứu này đã giúp hiểu rõ hơn bản chất của tranh chấp lãnh thổ,
nhưng lại không giải thích được về mặt lý thuyết quyết định sử dụng vũ
lực của các quốc gia nhằm đạt được các mục tiêu về lãnh thổ. Các nghiên
cứu này chủ yếu làm sáng tỏ biến số có tính quyết định trong việc giải
quyết tranh chấp, xác định các tranh chấp dễ có khả năng bùng nổ thành
chiến tranh. Mặc dù các yếu tố như giá trị của từng vùng lãnh thổ đang
tranh chấp có khác nhau, nhưng trong hầu hết các tranh chấp cụ thể thì
đó lại là những nhân tố bất biến và do điều này khiến cho việc lý giải
quyết định sử dụng vũ lực của các quốc gia khó khăn hơn.
Tranh
chấp Đài Loan của Trung Quốc là ví dụ cụ thể về hạn chế của phương pháp
tiếp cận này. Các nghiên cứu hiện tại đều dự đoán tranh chấp Đài Loan
rất dễ xảy ra xung đột. Tranh chấp Đài Loan là tranh chấp lãnh thổ quan
trọng nhất của Trung Quốc, vừa gắn với chủ nghĩa dân tộc hiện đại của
Trung Quốc và tính hợp pháp của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), vừa có
tầm quan trọng về chiến lược và kinh tế. Kể từ sau năm 1949, Trung Quốc
đã đủ mạnh về mặt quân sự để tấn công các đảo hoặc vùng lãnh thổ mà
Trung Quốc kiểm soát, và trong chế độ độc tài của Trung Quốc chỉ có một
số ít thiết chế có nhiệm vụ kiểm soát và cân bằng quyền lực liên quan
đến việc sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, việc sử dụng vũ lực trong tranh chấp
Đài Loan của Trung Quốc đã thay đổi theo thời gian, bắt đầu bằng việc
Trung Quốc gây ra các cuộc khủng hoảng lớn vào tháng 9 năm 1954, tháng 8
năm 1958, và tháng 7 năm 1995. Các nhân tố như tầm quan trọng của Đài
Loan, các biện pháp gây sức ép, và thể chế chính trị của Trung Quốc chỉ
giải thích một phần câu chuyện này, và các nhân tố này không thể lý giải
được nguyên nhân tại sao Trung Quốc lại sử dụng vũ lực ở ba thời điểm
nêu trên, chứ không phải là những thời điểm khác.
Để
giải thích tại sao và khi nào các quốc gia sử dụng vũ lực trong tranh
chấp lãnh thổ, tôi chuyển trọng tâm phân tích từ kết quả giải quyết
tranh chấp sang quyết định của từng quốc gia. Kết hợp các hiểu biết từ
lý thuyết chiến tranh phòng ngừa, tôi cho rằng sự suy giảm sức mạnh của
quốc gia nêu yêu sách, tạm gọi là sự suy giảm ưu thế thương lượng của
quốc gia đó trong cuộc tranh chấp, là nguyên nhân chính giải thích cho
việc quốc gia đó sử dụng vũ lực trong tranh chấp lãnh thổ. Ưu thế thương
lượng này bao gồm hai thành tố: phần lãnh thổ tranh chấp mà quốc gia đó
chiếm hữu và khả năng sử dụng sức mạnh quân sự chống lại đối thủ trong
khu vực tranh chấp. Khi nhận thấy đối phương đang tăng cường vị thế
trong cuộc tranh chấp, thì nhiều khả năng quốc gia kia sẽ sử dụng vũ lực
để ngăn chặn hoặc đảo ngược sự suy giảm sức mạnh của mình, hoặc chiếm
luôn lãnh thổ tranh chấp nếu họ thấy cần thiết.
Việc
suy giảm ưu thế thương lượng lý giải chính xác nhất việc Trung Quốc sẵn
sàng sử dụng vũ lực trong tranh chấp lãnh thổ. Trung Quốc đã từng sử
dụng vũ lực để chống lại những địch thủ có đủ sức mạnh quân sự thách
thức sự kiểm soát của Trung Quốc đối với lãnh thổ tranh chấp. Trung Quốc
cũng từng sử dụng vũ lực trong các tranh chấp mà Trung Quốc chỉ chiếm
rất ít hoặc không chiếm các vùng lãnh thổ mà họ có yêu sách. Khi Trung
Quốc phải đương đầu với một đối thủ đang tìm cách mở rộng phần lãnh thổ
tranh chấp mà nước đó chiếm giữ hoặc tìm cách thay đổi cán cân quân sự
khu vực có lợi cho họ, thì Trung Quốc thường đáp trả bằng vũ lực để thể
hiện quyết tâm duy trì các yêu sách của mình, hoặc cũng có lúc Trung
Quốc chiếm luôn một phần lãnh thổ đó.
Các mô thức sử dụng vũ lực trong tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc có một số tác động đối với lý thuyết quan hệ quốc tế. Trước hết,
việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc củng cố thêm lý thuyết chiến tranh
phòng ngừa và chứng minh tính hữu dụng của lý thuyết này trong việc lý
giải các xung đột lợi ích cụ thể, chẳng hạn như tranh chấp lãnh thổ. Thứ hai, hành vi của Trung Quốc thách thức các lý thuyết về
dịch chuyển quyền lực trong thời kỳ quá độ, trong đó khẳng định rằng một
quốc gia đang lên có nhiều khả năng sử dụng vũ lực hơn một quốc gia
đang trên đà suy yếu.[8]
Tuy nhiên, trong các tranh chấp lãnh thổ, Trung Quốc thường sử dụng vũ
lực khi sức mạnh của mình yếu đi chứ không phải mạnh lên.
Bài
viết này bắt đầu bằng lập luận cho rằng sự suy giảm ưu thế thương lượng
khích lệ các quốc gia sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp lãnh thổ.
Sau đó bài viết phân tích các biến số về việc Trung Quốc sử dụng vũ lực
sáu, trong tổng số hai mươi ba tranh chấp lãnh thổ và nhận thấy các
biến số này cho kết quả giống nhau, đó là Trung Quốc chỉ sử dụng sức
mạnh quân sự trong tranh chấp lãnh thổ khi họ yếu đi. Ba phần tiếp theo
của bài viết xem xét vai trò của sự suy giảm sức mạnh đối với quyết định
sử dụng vũ lực trong tranh chấp Đài Loan, biên giới Trung - Ấn, và quần
đảo Hoàng Sa khi Trung Quốc suy yếu đi. Bài viết kết thúc bằng cách xem
xét các tác động từ những kết quả của nghiên cứu này đối với sự ổn định
ở Đông Á sau khi nghiên cứu một số trường hợp Trung Quốc sử dụng vũ
lực, cũng như các cách giải thích khác về hành vi của Trung Quốc.
Suy giảm quyền lực và Sử dụng Vũ lực Trong Các Tranh chấp Lãnh thổ
Các
nghiên cứu về tranh chấp lãnh thổ thường coi sức mạnh quân sự là một
biến số quan trọng khi giải thích sự leo thang xung đột lên cấp độ bạo
lực cao nhất là chiến tranh. Ở mức độ nào đó, phát hiện này không có gì
mới vì một trong những mục đích của quân sự là để chiếm và bảo vệ lãnh
thổ trước lực lượng đối phương. Chỉ các quốc gia có tiềm lực quân sự
mạnh mới có thể sử dụng vũ lực để chiếm lãnh thổ tranh chấp. Đồng thời,
phát hiện này vẫn còn nhiều khúc mắc chưa lý giải được về nguyên nhân sử
dụng vũ lực trong tranh chấp lãnh thổ. Mặc dù các quốc gia mạnh hơn có
thể dễ dàng sử dụng vũ lực để đạt được các mục tiêu về lãnh thổ, nhưng
cũng chưa rõ tại sao và khi nào họ lại làm điều đó và liệu có phải lòng
tham hay mối bất an thôi thúc họ làm điều đó không.
Áp
dụng kiên thức có được từ lý thuyết chiến tranh phòng ngừa, tôi cho
rằng sự suy giảm sức mạnh của quốc gia nêu yêu sách, tạm gọi là sự suy
giảm ưu thế thương lượng của họ trong tranh chấp, là nguyên nhân chính
dẫn đến việc sử dụng vũ lực trong tranh chấp lãnh thổ. Chiến tranh phòng
ngừa được định nghĩa là “cuộc chiến hiện tại nhằm tránh nguy cơ buộc
phải tham chiến trong môi trường xấu hơn trong tương lai.”[9]
Khi sức mạnh tổng thể của một quốc gia suy giảm, các nhà lãnh đạo quốc
gia đó bắt đầu lo lắng về hậu quả lâu dài khi vị thế quốc gia họ bị suy
yếu trong hệ thống quốc tế, ưu thế thương lượng trong tương lai suy
giảm, và khả năng là họ buộc phải tham chiến trong những tình huống xấu
hơn. Như Jack Levy đã chỉ rõ, những lo ngại này tạo ra “động lực phòng
ngừa” bằng cách sử dụng vũ lực, tiến hành chiến tranh sớm còn hơn là
muộn đã trở thành một giải pháp ngày càng hấp dẫn nhằm giảm bớt tác động
của việc quốc gia đó yếu đi hoặc chỉ để duy trì ảnh hưởng của mình[10].
Quan trọng hơn, chiến tranh có thể xảy ra ngay cả khi không tồn tại bất
cứ sự xung đột lợi ích cụ thể hoặc biến cố khai mào nào, mà có khi chỉ
là sự bất an về tương lai. Trong nghiên cứu thực nghiệm, suy giảm sức
mạnh khiến một bên dễ gây chiến trước thường được gọi là “lỗ hổng dễ tổn
thương”.[11]
Để
lý giải việc sử dụng vũ lực trong tranh chấp lãnh thổ, tôi chuyển trọng
tâm từ sự mơ hồ chung chung về vị thế tương lai của một quốc gia trong
hệ thống quốc tế sang mối quan tâm cụ thể về ưu thế thương lượng của một
quốc gia khi xảy ra sự xung đột lợi ích. Ưu thế thương lượng này được
cấu thành bởi hai yếu tố. Yếu tố thứ nhất là phần lãnh thổ tranh chấp mà một quốc gia
chiếm hữu được. Phần lãnh thổ tranh chấp mà quốc gia đó chiếm được càng
lớn thì quốc gia đó càng có vị thế mạnh hơn, nếu tính đến cái giá mà đối
phương phải trả để thay đổi hiện trạng lãnh thổ bằng vũ lực. Yếu tố thứ hai
là khả năng mở rộng sức mạnh quân sự để chống lại đối phương trong các
khu vực tranh chấp, gồm cả những khu vực mà quốc gia đó có yêu sách
nhưng không cai trị. Ngay cả khi quốc gia đó chỉ nắm giữ một phần nhỏ
của vùng lãnh thổ tranh chấp, thì họ vẫn có thể mở rộng sức mạnh ra toàn
bộ khu vực tranh chấp và cả ngoài khu vực đó. Trong bối cảnh đó, việc
mở rộng sức mạnh liên quan đến cân bằng quân sự khu vực, chứ không phải
do vị thế tổng thể của quốc gia đó trong hệ thống quốc tế. Các quốc gia
có rất nhiều mục tiêu an ninh khác nhau nên mỗi thành tố quân sự được
gắn với một nhiệm vụ cụ thể, chẳng hạn như bảo vệ các yêu sách về lãnh
thổ.
Đọc toàn bộ bản dịch tại đây
Fravel, M. Taylor
Quách Huyền, Trần Quang (dịch)
Thái Giang (hiệu đính)
Bản gốc: Power Shifts and Escalation Explaining China’s Use of Force in Territorial Disputes, đăng trên Project Muse
[1] Ví dụ, xem Robert Gilpin, War and Change in Politics (New York: Cambridge University Press, 1981); và AFK Organski, Worl Politics (New York: Alfred A. Knopf, 1958).
[2] 2006 Báo cáo Quốc hội của Ủy ban Đánh giá Kinh tế và An ninh Mỹ – Trung (USCC), số 109, mục 2d, tháng 11 năm 2006, tr.130, http://www.uscc.gov/annual_report/2006/annual_report_full_06.pdf.
[3]
Tranh chấp lãnh thổ được định nghĩa là một tuyên bố đối lập bởi hai
hoặc nhiều quốc gia về quyền sở hữu và kiểm soát lãnh thổ, bao gồm cả
đảo nhưng không bao gồm các tranh chấp phân giới đối với vùng đặc quyền
kinh tế. Xem Paul K. Huth và Todd L. Allee, The Democratic Peace and Territorial Conflict in the Twentieth Century (Cambridge: Cambridge University Press, 2002), tr. 298.
[4]
M. Taylor Fravel, “Regime Insecurity and International Cooperation:
Explaining China’s Compromises in Territorial Disputes, Tạp chí An ninh
Quốc tế, Tập 30, số 2 (Mùa Thu 2005), tr. 46-83.
[5] Ví dụ, xem Kalevi J. Holsti, Peace and War: Armed Conficts and International Order, 1648–1989 (Cambridge: Cambridge University Press, 1991); và John A. Vasquez, The War Puzzle (New York: Cambridge University Press, 1993).
[6]
Về vai trò của các tranh chấp lãnh thổ trong hành vi của Trung Quốc,
xem Alastair Iain Johnston, “China’s Militarized Interstate Dispute
Behaviour, 1949–1992: A First Cut at the Data,” China Quarterly, Số 153 (Tháng 3 1998), tr. 1–30. Những
nghiên cứu về việc Trung Quốc sử dụng vũ lực bao gồm Thomas J.
Christensen, “Windows and War: Trend Analysis and Beijing’s Use of
Force,” Alastair Iain Johnston và Robert S. Ross biên tập, New Directions in the Study of China’s Foreign Policy (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 2006), tr. 50–85; Melvin Gurtov và Byung-Moo Hwang, China under Threat: The Politics of Strategy and Diplomacy (Baltimore, Md.: Johns Hopkins University Press, 1980); Andrew Scobell, China’s Use of Military Force: Beyond the Great Wall and the Long March (New York: Cambridge University Press, 2003); Gerald Segal, Defending China (Oxford: Oxford University Press, 1985); Allen S. Whiting, The Chinese Calculus of Deterrence: India and Indochina (Ann Arbor: University of Michigan Press, 1975); và Allen S. Whiting, “China’s Use of Force, 1950–96, and Taiwan,” International Security, Tập 26, Số 2 (Mùa thu 2001), tr. 103–131.
[7]
Ví dụ, xem Giacomo Chiozza and Ajin Choi, “Guess Who Did What:
Political Leaders and the Management of Territorial Disputes,
1950–1990,” Journal of Conflict Resolution, tập 47, Số 3 (Tháng 6 2003), tr. 251–278; Gary Goertz and Paul F. Diehl, Territorial Changes and International Conflict
(New York: Routledge, 1992); Paul R. Hensel, “Contentious Issues and
World Politics: The Management of Territorial Claims in the Americas,
1816–1992,” International Studies Quarterly,
tập 45, Số 1 (Tháng 3 2001), tr. 81–109; Paul R. Hensel và Sara
McLaughlin Mitchell, “Issue Indi- visibility and Territorial Claims,” GeoJournal, Tập. 64, Số 6 (Tháng 12 2005), tr. 275–285; Paul K. Huth, Standing Your Ground: Territorial Disputes and International Conflict (Ann Arbor: University of Michigan Press, 1996); và Huth and Allee, The Democratic Peace and Territorial Conflict in the Twen- tieth Century.
[8] Ví dụ, xem Organski, World Politics.
[9]Jack S. Levy, “Declining Power and the Preventive Motivation for War,” World Politics, Tập 40, Số 1 (Tháng 10 1987), tr. 82 (nhấn mạnh trong bản gốc). Xem thêm Dale C. Copeland, Origins of Major War (Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 2000); và Stephen Van Evera, Causes of War: Power and the Roots of Conflict (Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1999), tr. 73–104.
[10] Levy, “Declining Power and the Preventive Movation for War.”
[11] Van Evera, Causes of War, tr. 74. Đối với các ứng dụng, xem Copeland, Origins of Major War, tr. 56–117; và Stephen Van Evera, “The Cult of the Offensive and the Origins of the First World War,”
International Security, tập. 9, số 1 (Mùa hè 1984), tr. 58–107. Xem thêm Victor D. Cha, “Hawk En-
gagement and Preventive Defense on the Korean Peninsula,” International Security,
Tập. 27, Số 1 (Mùa hè 2002), tr. 40–78; và Jack S. Levy and Joseph R.
Gochal, “Democracy and Preventive War: Israel and the 1956 Sinai
Campaign,” Security Studies, Tập 11, số 2 (Mùa đông 2001/02), tr.
1–49. Về Trung Quốc, xem Christensen, "Windows and War", tr. 50-85. Bài
viết của Christensen đã tác động đến suy nghĩ của tôi về hành vi của
Trung Quốc trong tranh chấp lãnh thổ, mặc dù các nguyên nhân của tư duy
phòng ngừa mà tôi mô tả như leo thang trong tranh chấp lãnh thổ của
Trung Quốc tập trung vào khả năng thương lượng trong xung đột, chứ không
phải vào vị trí tổng thể của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế.