THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ tư, ngày 30/5/2012
TTXVN (Rôma 27/5)
Mạng “nationalinterest.org” trong số đặc biệt
tháng 5-6/2012 với tiêu đề “Cuộc khủng hoảng của trật tự cũ” có đăng bài
Thế tiến thoái lưỡng nan kẻ thắng, người thua của châu- Âu” của tác giả
Gideon Rachman, phụ trách chuyên mục các vấn đề đối ngoại của tờ
Financial Times với nội dung sau:
Cuộc khủng hoảng nợ của châu Âu đang đe dọa một
trật tự chính trị đã được xây dựng trong quá trình hơn một nửa thế kỷ.
Điều vẫn hoàn toàn có thể xảy ra – thực sự có khả năng như vậy – là đồng
tiền chung châu Âu sẽ không vượt qua được cuộc khủng hoảng này. Thủ
tướng Đức Angela Merkel đã dự đoán rằng nếu đồng euro sụp đổ, Liên minh
châu Âu (EU) sẽ sụp đổ theo. Việc EU bi tan vỡ đến lượt nó lại phá bỏ tổ
chức mà các nền chính trị châu Âu thời hậu chiến đã được xây dựng xung
quanh nó.
Cho dù cả EU và đồng euro vẫn tồn tại, cuộc khủng
hoảng hiện nay có thể buộc châu Âu phải trả một cái giá về kinh tế và
chính trị, và đây sẽ là sự nhạo báng đối với nhiều người trong số các
nhân vật trước đây từng đi đầu trong việc thành lập EU. Những nhân vật
sáng lập của EU – chẳng hạn như Jean Monnet và Robert Schuman – đã xây
dựng dự án của họ xung quanh một gợi ý xuất sắc và đơn giản. Mục đích
của dự án châu Âu khi nó được triển khai vào những năm 1950 rõ ràng là
mang tính chính trị. Ý tưởng ở đây là đưa châu Âu thoát khỏi các cuộc
chiến tranh khủng khiếp đã làm biến dạng lục địa này trong nửa đầu của
thế kỷ hai mươi. Tuy nhiên, trong khi mục tiêu là mang tính chính trị,
phương tiện để thực hiện mục tiêu đó lại mang tính kinh tế. Những nhân
vật sáng lập đã nhằm mục tiêu xây dựng một châu Âu mới bằng cách bước
đầu tập trung vào những bước đi nhỏ mang tính thực tế mang lại các lợi
ích kinh tế hữu hình. Ý tưởng của họ là hợp tác kinh tế sẽ tạo nên sự
thịnh vượng chung và thúc đẩy thói quen hợp tác. Sự đối đầu của các quốc
gia trước đây sẽ được thay thế bởi một lô gích “đôi bên cùng có lợi”
được xây dựng xung quanh sự hội nhập kinh tế. Do châu Âu đã quen với
việc cùng hợp tác với nhau và cũng đã chứng kiến những lợi ích mà sự hớp
tác mang lại, các bước đi kế tiếp táo bạo hơn có thể được thực hiện để
hướng tới “một liên minh chặt chẽ hơn bao giờ hết” như đã được đề cập
trong Hiệp ước Rome năm 1957.
Trong hơn 50 năm qua, tầm nhìn này đã phát huy
hiệu quả thật tuyệt vời. Châu Âu trở nên thịnh vượng và phát triển – và
đã tăng cường sức mạnh của mình lên rất nhiều. Đến năm 2007, trước khi
cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra, EU đã phát triển thành một liên minh
bao gồm 27 thành viên. Cộng đồng than và thép đơn giản của những năm
1950 này đã biến đổi thành một Liên minh châu Âu với một thị trường
chung, một đồng tiền chung, các đường biên giới chung, và một chính sách
an ninh và đối ngoại chung.
Nhưng rồi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã
nổ ra. Một sự suy thoái kinh tế sâu sắc ở châu Âu đã làm phơi bày những
điểm yếu quan trọng trong nội bộ liên minh này. Điều quan trọng nhất là
nhiều nước trong EU đang phải gánh những khoản nợ không thể chống đỡ
nổi. Trong môi trường kinh tế mới này, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Ailen đã
chứng tỏ rằng họ không thể tự tài trợ cho mình thông qua các thị trường,
và đã nộp đơn xin các gói cứu trợ từ những nước còn lại trong Liên minh
châu Âu. Chi phí vay mượn của Italia và Tây Ban Nha tăng vọt, làm dấy
lên khả năng rằng họ cũng có thể phải nộp đơn xin trợ giúp tài chính. Do
quy mô của hai nền kinh tế Italia và Tây Ban Nha cũng như các mức nợ
công của họ, những gói cứu trợ cho Italia và Tây Ban Nha đơn giản là có
thể vượt quá khả năng đối với phần còn lại của châu Âu.
Cuộc khủng hoảng nợ trong Liên minh châu Âu hoàn
toàn không hẳn là một khó khăn kinh tế tạm thời. Trong thực tế, nó trực
tiếp đe dọa lôgích cơ bản của dự án châu Âu. Vào những thời kỳ tốt đẹp,
việc xây dựng châu Âu hoàn toàn chỉ là tạo ra một động lực “đôi bên cùng
có lợi” trên cơ sở chia sẻ những thành quả của sự thịnh vượng. Nhưng
trong những thời điểm khó khăn về kinh tế, lôgích mang tính tích cực này
đã bị đảo ngược. Thay vì chia sẻ những thành quả của sự thịnh vượng,
châu Âu giờ đây đang tranh cãi về việc ai nên gánh chịu những tổn thất
liên quan đến tình trạng suy thoái và cuộc khủng hoảng nợ. Lôgích “đôi
bên cùng có lợi” đã được thay thế bàng lôgích “một mất, một còn”, trong
đó sự thành công của nước này chính là sự thất bại của nước khác.
Các hậu quả chính trị do điều này gây ra thật là
tàn khốc. Một dự án châu Âu được tạo ra để gắn kết các quốc gia lại với
nhau giờ đây lại đang chia tách họ. Hiện đang tồn tại một thực tế cay
đắng ở Đức, đó là quan niệm cho rằng những người nộp thuế và chăm chỉ
làm việc ở nước này đang phải trợ cấp cho các nền kinh tế bị phá sản ở
Nam Âu. Những hình ảnh có phần mang tính phân biệt đối xử về người Hy
Lạp lười biếng và người Italia vốn hay vi phạm pháp luật là những đề tài
đang phổ biến trên các báo ở Đức. Nhưng những sự lăng mạ này đang được
hoàn trả bằng “lãi suất” (không giống như trái phiếu của Hy Lạp). Tại
hầu hết khu vực Nam Âu, hiện đang có tâm lý rõ ràng rằng một nước Đức
độc đoán, hống hách đang quay trở lại. Những hình ảnh thời chiến tranh
mà Liên minh châu Âu muốn cất giữ an toàn trong lịch sử giờ đây đang
được bàn tán trở lại. Bà Angela Merkel đã được miêu tả mặc bộ đồng phục
của Đức Quốc xã trong các tranh biếm họa trên báo chí Hy Lạp, đồng thời
những ám chỉ về kỷ nguyên Đức Quốc xã cũng xuất hiện đầy rẫy ở Italia và
Tây Ban Nha.
Để hiểu được làm thế nào mà tất cả nhưng điều này
có thể xảy ra, điều quan trọng là phải chẩn đoán chính xác nguồn gốc
của cuộc khủng hoảng. Một phần của vấn đề ở đây là “mô hình xã hội châu
Âu” quá tốn kém – và điều này ngày càng trở nên rõ ràng do dân số của
châu lục này đang già hóa. Sự gia tăng nợ công và tình trạng sụt giảm về
doanh thu thuế, gây ra bởi cuộc khủng hoảng tài chính và tình trạng mất
lòng tin của các nhà đầu tư, đã phơi bày nhiều điểm yếu tiềm tàng trong
hệ thống phúc lợi xã hội của châu Âu.
Nhưng một loạt cuộc khủng hoảng của các quốc gia
đã trở thành một cuộc khủng hoảng trên toàn châu Âu do sự tồn tại của
đồng tiền chung châu Âu. Nhìn ngược trở lại, quyết định nhằm thành lập
đồng euro – được đưa ra vào đầu những năm 1990 và đã đơm hóa kết trái
vào năm 2001- là một quyết định mang tính định mệnh.
Cho đến nay, đồng euro đã nhanh chóng và chính
xác được công nhận như là bước đi chung đáng kể nhất thực hiện theo
hướng thống nhất châu Âu. Cũng như nền tảng của dự án châu Âu ban đầu
vào những năm 1950, động cơ chủ yếu là mang tính chính trị. Sự sụp đổ
của Bức tường Béclin và việc thống nhất nước Đức đã làm thay đổi cán cân
quyền lực trong phạm vi Tây Âu – và đã làm hồi sinh những nỗi sợ hãi
của Anh và Pháp về sức mạnh của Đức. Ban đầu, các nhà lãnh đạo của cả
hai nước Anh và Pháp, bà Margaret Thatcher và ông Francois Mitterrand,
đã tìm cách ngăn cản nước Đức thống nhất. Khi tình hình đã trở nên rõ
ràng rằng điều này là không thể, người Pháp đã quay sang ủng hộ ý tưởng
về một đồng tiền chung châu Âu (một ý tưởng mà bà Thatcher mạnh mẽ phản
đối). Lãnh đạo của cả Pháp và Đức vào thời điểm đó – được sự ủng hộ mạnh
mẽ của Jacques Delors, vị Chủ tịch ủy ban châu Âu đầy quyền lực – lập
luận rằng giải pháp cho vấn đề mới của Đức là thậm chí phải ràng buộc
Đức chặt chẽ hơn với châu Âu, do đó phủ nhận bất kỳ triển vọng nào cho
rằng một nước Đức thống nhất với đầy sức mạnh có thể trở thành một rắc
rối cho lục địa này. Phương tiện để thực hiện điều này là tạo ra một
đồng tiền chung châu Âu.
Ngày nay, khi đồng euro đang gặp nhiều rắc rối,
có nhiều ý kiến ở Đức lập luận rằng đất nước họ về cơ bản đã buộc phải
từ bỏ đồng “Deutsche Mark” yêu quý vì “cái giá của sự thống nhất”. Nhưng
đây là một sự hiểu sai về lịch sử. Trong thực tế, một vài trong số
những người mạnh mẽ và lớn tiếng ủng hộ dự án đồng tiền chung châu Âu
lại là những chính khách của Đức như (cựu) Thủ tướng Hehnut Kohl và
Toschka Fischer, (cựu) Ngoại trưởng Đức đồng thời là tác giả của bài
phát biểu nổi tiếng tại Đại học Humboldt (Béclin) năm 2000 tán dương
việc liên minh về chính trị ở châu Âu. Ngay cả khi đồng tiền chung châu
Âu được nghĩ đến và được phát hành, các chuyên gia kinh tế vốn hoài nghi
cảnh báo Liên minh châu Âu không phải là một “khu vực tiền tệ tối ưu”.
Họ lập luận rằng các mức năng suất và nợ công ở châu Âu là khác nhau rất
nhiều. Kết quả là, họ duy trì quan điểm rằng những quốc gia phi sản
xuất, vốn đã bị tước mất cơ hội để làm giảm bớt hoặc xóa đi các khoản nợ
của họ, có thể tìm thấy chính mình trong một cái bẫy kinh tế. Nói rộng
hơn, nhiều người chỉ trích đồng euro lưu ý rằng chưa bao giờ có được một
ví dụ về một liên minh tiền tệ thành công và bền vững nếu không được hỗ
trợ bởi một liên minh chính trị – hay nói cách khác là bởi một quốc
gia.
Sự phản ứng đối với luồng chỉ trích, hoài nghi về
đồng euro này còn nhiều hơn gấp ba lần. Thứ nhất, nhiều nhà kinh tế ủng
hộ đồng tiên chung châu Âu lập luận rằng chính Việc thành lập đồng euro
sẽ thúc đẩy sự hội tụ về kinh tế – tạo ra một khu vực tiền tệ tối ưu.
Thứ hai, trên mặt trận chính trị, một số lập luận rằng một đồng tiền
chung có thể hoạt động hiệu quả mà không cần đến một liên minh chính trị
dựa trên cơ sở các quy tắc và quy định của Hiệp ước Maastricht, được
soạn thảo và ký kết tại Hà Lan vào đầu những năm 1990. Thứ ba, một số
người vốn chủ trương thành lập liên bang châu Âu lập luận rằng liên minh
chính trị sẽ chứng tỏ là điều không thể cưỡng lại vào một thời điểm
thích hợp. Họ khẳng định sự tồn tại đơn thuần của một đồng tiền chung sẽ
thúc đẩy sự tăng trưởng ngân sách có xu hướng gia tăng của liên bang
cũng như những chuyển khoản về tài chính trong EU mà sẽ là cần thiết để
làm cho đồng tiền chung hoạt động có hiệu quả về dài hạn. Đây là cách mà
dự án châu Âu đã luôn hoạt động hiệu quả trong quá khứ – với một bước
đi hướng tới sự thống nhất để dẫn tới những điều tiếp theo. Như ông
Javier Solana, Phụ trách chính sách đối ngoại của EU, đã từng nói một
cách sinh động trong cuộc trò chuyện với tôi (Gideon Rachman – tác giả
bài báo): “Triết lý của chúng tôi ở châu Âu là, Hãy nhảy xuống hồ bơi,
nước luôn có sẵn ở đó’”.
Thật là thú vị để phản hồi rằng trong cuộc khủng
hoảng hiện nay, châu Âu đã phát hiện ra ai đó đã quên bơm nước vào hồ
bơi. Trong thực tế, phân tích của trường phái hoài nghi đồng euro về
những khiếm khuyết của dự án đồng tiền chung châu Âu đã tỏ ra chính xác
hơn nhiều so với các dự đoán của những người đã tạo ra đồng euro.
Thực tế, đồng tiền chung châu Âu đã không thúc
đẩy sự hội tụ về kinh tế vốn cần thiết để làm cho đồng tiền này hoạt
động hiệu quả. Ngược lại, trong khi Đức đã hành động nhằm hạn chế tiền
lương và chi tiêu công trong những năm đầu của thế kỷ mới này, các quốc
gia ở Nam Âu tiếp tục đẩy mạnh chi tiêu: tiền lương tối thiểu tăng gấp
đôi ở Hy Lạp trong suốt một thập kỷ; Tây Ban Nha đã trải qua một đợt
bùng nổ dữ dội về nhà ở và nợ công của Italia tăng trở lại lên tới 120%
GDP. Kết quả là, vào thời điểm cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính xảy
ra cuối năm 2008, nền kinh tế siêu cạnh tranh của Đức đã bùng nổ –
trong khi nhiều nền kinh tế ở Nam Âu là không cạnh tranh xét về mặt cấu
trúc.
Những giả định chính trị đằng sau việc tạo ra một
đồng tiền chung châu Âu cũng đã không được hiện thực hóa. Các quy tắc,
quy định nhằm đảm bảo sự hoạt động thông suốt của đồng euro đã nhanh
chóng bị vi phạm. Đặc biệt, Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng, được thiết
kế để ngăn chặn các quốc gia tránh bị thâm hụt ngân sách quá mức bằng
hình thức áp dụng các khoản phạt, về cơ bản đã bị tan vỡ vào năm 2003,
khi tình hình trở nên rõ ràng rằng Pháp, Đức, Italia và Bồ Đào Nha phải
đối mặt với các khoản phạt. Thay vì đồng euro sẽ đưa đến một liên minh
chính trị ngày càng sâu rộng, điều trở nên rõ ràng là các nhà lãnh đạo
châu Âu đã không thể và không sẵn lòng tuân thủ các quy tắc chung tối
thiểu về ngân sách mà họ đã tạo ra.
Những người ủng hộ một Liên bang châu Âu lập luận
rằng ván cờ còn lâu mới kết thúc. Tại Brúcxen, người ta thường lưu ý
rằng sự thống nhất châu Âu chỉ đạt được tiến bộ trong thời khắc của cuộc
khủng hoảng. Theo lý thuyết này, tình trạng rắc rỗi về nợ công hiện nay
trong khu vực đồng euro cuối cùng đang buộc các nước châu Âu phải thực
hiện những bước đi mang tính quyết định hướng tới sự liên minh về chính
trị. Thỏa thuận về một hiệp ước tài chính mới tại một hội nghị thượng
đỉnh ở Brúcxen hồi đầu năm nay được trích dẫn như là bằng chứng rằng nỗ
lực hướng tới sự liên minh về chính trị đã được nối lại dưới áp lực của
cuộc khủng hoảng. Hiệp ước này một lần nữa đòi hỏi các quốc gia châu Âu
phải cân bằng ngân sách của họ, hoặc nếu không sẽ bị phạt. Nhưng lần
này, các quy định cần thiết sẽ được viết vào luật trong nước – và sẽ
được giám sát một cách hiệu quả hơn rất nhiều bởi Liên minh châu Âu.
Những người tin tưởng về “sự liên minh chặt chẽ
hơn bao giờ hết” của châu Âu lập luận rằng các bước được nêu trong hiệp
ước tài chính nói trên chỉ là sự khởi đầu. Trong thập kỷ tiếp theo, họ
hy vọng và tin tưởng châu Âu cuối cùng sẽ nhất trí với việc phát hành
trái phiếu ngoại lai (Eurobond). Để đổi lại việc phải chấp nhận điều
này, các nền kinh tế mạnh nhất ở châu Âu, đặc biệt là Đức, sẽ yêu cầu có
các bước đi mang tính quyết định hướng tới sự liên minh về chính trị.
Thực ra, các nước như Hy Lạp và Italia sẽ chấp nhận đổi sự kiểm soát
mang tính chủ quyền đối với ngân sách quốc gia của họ để giành lấy sự
ủng hộ đầy đủ của sức mạnh kinh tế Đức.
Điều đó có thể xảy ra. Nhưng nó có vẻ rất không
chắc chắn. Phân tích của những người ủng hộ thành lập liên bang về cách
thức để châu Âu thoát khỏi cuộc khủng hoảng nợ công thông qua việc tạo
ra một liên minh chính trị là sự lặp lại và phóng đại sai lầm trước đây
trong việc phát triển đồng tiền chung châu Âu. Sai lầm này sẽ đánh giá
thấp một cách nguy hiểm sức mạnh của bản sắc dân tộc ở những nước tham
gia vào đồng tiền chung châu Âu. Dưới áp lực kinh tế và chính trị, tâm
lý mang tính chủ nghĩa dân tộc thực sự đang gia tăng, khiến các chính
trị gia châu Âu ngày càng khó khăn hơn trong việc nhất trí các bước đi
mạnh mẽ hướng tới sự liên minh về chính trị.
Trong các nền chính trị nội địa ở khắp châu Âu –
cả ở nước chủ nợ và con nợ – các nhà lãnh đạo đang phải hứng chịu một sự
phản ứng dữ dội chống lại dự án châu Âu và những hy sinh hơn nữa về chủ
quyền quốc gia mà dự án này đòi hỏi. Tại Hy Lạp, các đảng thuộc phe cực
tả và phe hữu mang tính dân tộc chủ nghĩa đang giành được chỗ đứng do
sự trả giá của các đảng chủ đạo đã đẩy nước này vào tình trạng khó khăn
hiện nay. Ngay cả ở Tây Ban Nha, nơi mà các đảng trung dung chủ đạo tiếp
tục nắm giữ quyền lực, đảng “Bình dân” lâu nay vốn ủng hộ châu Âu hiện
đang tham gia chính phủ và đang có một thái độ phản đối ngày càng gia
tăng trước các chỉ trích liên quan đến ngân sách xuất phát từ Brúcxen.
Xu hướng hướng tới các nền chính trị quốc gia ít
“thân châu Âu” hơn cũng xuất hiện rõ ràng ở những nước chủ nợ – chủ yếu
là những quốc gia Bắc Âu mà đã được kêu gọi để cứu trợ cho khu vực Nam
Âu. Tại Hà Lan, các cuộc thăm dò cho thấy sự ủng hộ đối với các đảng chủ
đạo truyền thống vốn ủng hộ châu Âu đang bị sụt giảm trong khi sự ủng
hộ đối với các đảng có xu hướng hoài nghi đồng euro thuộc phe cực tả và
cực hữu lại tăng mạnh. Điều này hầu như không có gì đáng ngạc nhiên do
Hà Lan đang bị sức ép phải cắt giảm ngân sách của họ – cho dù nước này
tham gia hỗ trợ tài chính cho Hy Lạp, Bồ Đào Nha và những nước khác. Ở
Phần Lan, đảng “Những người Phần Lan Thực sự” (True Finns) với tư tưởng
dân tộc chủ nghĩa đã gây áp lực rất lớn lên chính phủ để đòi áp dụng một
đường lối cứng rắn trong các cuộc đàm phán của châu Âu.
Và ở Đức – vốn là trung tâm của bất kỳ giải pháp
nào cho cuộc khủng hoảng – chính phủ nước này đang rất cảnh giác trước
khả năng phải cam kết đưa ra thêm các gói cứu trợ hoặc đồng ý phát hành
trái phiếu ngoại lai. Bất chấp việc đang bị sức ép mạnh mẽ của quốc tế
đòi phải nhượng bộ trong những vấn đề này, Chính quyền Merkel biết rõ
rằng họ sẽ dễ bị tổn thương trước sự phản ứng dữ dội của công chúng và
sẽ phải đương đầu với tòa án hiến pháp của Đức nếu họ chấp nhận nhượng
bộ. Hóa ra những người nộp thuế Đức, vốn sẵn sàng chi các khoản trợ cấp
khổng lồ để hỗ trợ tái thiết Đông Đức, lại ít sẵn lòng trợ cấp cho người
Hy Lạp và người Italia. Đó là chưa nói đến khu vực Nam Âu, vốn không
phải là những người đồng hương của họ. Một điểm khác là hiện cũng không
có cách nào để đảm bảo tiền của người nộp thuế Đức sẽ được chi tiêu một
cách phù hợp. Vào thời điểm một tài liệu bị rò rỉ của Đức đề xuất ý
tưởng rằng những cải cách kinh tế và ngân sách của Hy Lạp nên được giám
sát bởi một giám sát viên từ Brúcxen (hoặc Đức), chính ý tưởng đó đã gây
nên sự phản ứng chính trị dữ dội và đầy giận dữ ở Hy Lạp.
Trong bầu không khí chính trị tiêu cực này, hoàn
toàn có khả năng rằng hiệp ước tài chính mới của châu Âu sẽ không được
phê chuẩn và sẽ không bao giờ có hiệu lực. Nhưng cho dù hiệp ước này
được phê chuẩn và có hiệu lực đi nữa, nhiều nhà kinh tế coi nó như là
một hiệp ước không hiệu quả và có thể phản tác dụng. Hy vọng của những
người ủng hộ Liên bang châu Âu, mà sẽ là nền tảng cho một liên minh
chính trị sâu sắc hơn, dường như cũng trở nên hão huyền và không tưởng,
do sự phản ứng dữ dội chống lại toàn bộ dự án châu Âu ở khắp EU.
Nếu sự liên minh chính trị của châu Âu không phải
là một cách thực tế để thoát khỏi cuộc khủng hoảng, vậy điều gì có thể
xảy ra? Hai kịch bản tương lai có thể có ở đây là:
Thứ nhất, giống như một cuộc hôn nhân không hạnh
phúc, liên minh này vẫn tồn tại – cho dù nó rõ ràng là không hoạt động.
Trong kịch bản này, khu vực Nam Âu sẽ trải qua nhiều năm thắt lưng buộc
bụng, điều mà sẽ đẩy nền kinh tế của các nước như Hy Lạp, Tây Ban Nha và
Italia rơi vào tình trạng đình đốn. Mặc dù không hề nghi ngờ rằng tất
cả ba nước này cuối cùng có thể hưởng lợi từ những cải cách thị trường
lao động và sản phẩm mà họ đang buộc phải trải qua, quá trình chuyển đổi
sang nền kinh tế mới có thể sẽ kéo dài và đầy đau đớn. Tỷ lệ thất
nghiệp trong giới trẻ ở Tây Ban Nha đã lên tới mức 45%. Mặc dù các số
liệu chính thức có thể không nêu số công ăn việc làm khá lớn trong nền
kinh tế đen, triển vọng cho những người trẻ tuổi ở khắp Nam Âu là khá ảm
đạm. Do những thực tế này, khả năng có những hành động quá khích về
chính trị là rõ ràng.
Điều này dẫn đến kịch bản có thể xảy ra thứ hai.
Trong hoàn cảnh này, các chính đảng mới sẽ lên nắm quyền ở khắp châu Âu –
và phá vỡ dự án châu Âu vốn đã được thiết lập. Để vận hành, Liên minh
châu Âu đã yêu cầu một sự đồng thuận chính trị giữa chính phủ các nước
châu Âu chủ chốt (và thường cũng bao gồm cả những nước thứ yếu khác do
sự cần thiết phải nhất trí về nhiều chủ đề). Sự đồng thuận đã đạt được
thông qua áp lực của những nước ngang hàng khác và bởi vì gần như toàn
bộ các chính phủ hiện đều đang ở trong tay của phe trung tả hoặc trung
hữu.
Trong một bầu không khí chính trị mới, sự đồng
thuận ủng hộ châu Âu này cũng có thể bị phá vỡ, và các chính sách cốt
lõi của EU có thể bị thách thức và bắt đầu tan ra thành từng mảng. Điểm
gây áp lực rõ ràng và quan trọng nhất là đồng euro. Một sự đình đốn về
kinh tế kéo dài ở Nam Âu có thể dẫn đến việc một số quốc gia quyết định
rút khỏi khu vực đồng euro – và không trả các khoản nợ của họ. Một tiến
trình như thế sẽ đe dọa nghiêm trọng các hệ thống tài chính của những
nước liên quan và có nguy cơ gây ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên
khắp châu Âu.
Cũng có khả năng rằng những khía cạnh khác đã
được nhất trí trong dự án châu Âu sẽ bị thách thức, vấn đề nhập cư, đặc
biệt là từ thế giới Hồi giáo, đã trở thành một vấn đề nóng bỏng đối với
nhiều người thuộc những đảng vốn đang còn thù địch với Liên minh châu
Âu. Nếu cuộc khủng hoảng hiện nay thúc đẩy sự gia tăng dòng người di cư
trong nội bộ châu Âu tại thời điểm thất nghiệp đang gia tăng, điều đó có
lẽ sẽ làm tăng áp lực lên các chính phủ đòi phải rút khỏi hiệp định của
EU về tự do đi lại của người lao động. Do quyền được sống và làm việc ở
bất cứ nơi nào trong EU là một trong “bốn quyền tự do” được ấp ủ của
liên minh này, một sự công kích về chính trị như thế sẽ là một đòn
nghiêm trọng.
Một đòn khác có thể đến từ những thách thức mà
các áp lực tài chính gây ra đối với tính chính thống của thị trường tự
do. Mối đe dọa này có thể gia tăng trong một EU vốn từng được xây dựng
dựa trên triết lý nền tảng của một thị trường chung nhưng giờ đây đang
bị suy yếu. Nếu người Pháp bắt đầu trợ cấp trở lại cho các ngành cơ bản
hoặc hạn chế hoạt động của các ngân hàng đầu tư có trụ sở tại Luân Đôn –
cả hai khả năng đều là những kịch bản hoàn toàn hợp lý – các quyền hạn
của EU sẽ bị thách thức trực tiếp.
Những gì đang diễn ra ở châu Âu là một bi kịch
của những ý định tốt. Vì những lý do hoàn toàn mang tính danh dự, các
nhà lãnh đạo châu Âu đã cố gắng để xây dựng một liên minh chính trị và
tiền tệ. Trong nhiều năm dự án này đã đạt được tiến bộ vững chắc, vì lợi
ích của châu Âu và cả thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh phải đối mặt
với một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, những khiếm khuyết cố hữu
trong dự án châu Âu đã bị phơi bảy một cách tàn nhẫn. Điều quan trọng
nhất, tính hợp pháp chính trị cực kỳ mong manh của Liên minh châu Âu đã
trở nên rõ ràng. Xin mạn phép Thủ tướng Merkel, cái được gọi là Liên
minh châu Âu có thể sẽ vượt qua cuộc khủng hoảng hiện nay. Nhưng cho dù
có vượt qua, nó sẽ trở thành một tổ chức bị thu nhỏ và ngày càng teo
tóp./.