Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

24. Thách thức của quá trình mở rộng ASEM

USSH — Trước thực tế là ASEM không có một tiêu chí địa lí rõ ràng đối với các thành viên mới kết nạp, tác giả bài viết đặt ra câu hỏi về xu thế phát triển của ASEM và đi tìm câu trả lời qua việc phân tích thách thức đối với quá trình mở rộng của tổ chức này.

1. Đặt vấn đề

Ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2010 tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 8 của Diễn đàn Á-Âu (ASEM) tại Brussels (Bỉ), ba nước Australia, New Zealand và Nga sẽ chính thức được kết nạp đưa con số thành viên ASEM lên tới con số 48. Vấn đề là cả ba quốc gia này đều nộp đơn gia nhập ASEM với tư cách là thành viên của châu Á. Việc 03 nước không phải từ châu Á xin gia nhập ASEM với tư cách là các quốc gia Á châu đã gây ra một cuộc thảo luận sôi nổi về quy chế thành viên, về tính chất và tương lai của Diễn đàn Á-Âu. ASEM tiến hành mở rộng quy mô của mình lần đầu tiên vào năm 2004 tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 5 ở Hà Nội. Khi đó về phía châu Á, 03 thành viên mới của ASEAN là Campuchia, Lào và Myanmar được kết nạp, để đổi lại về phía châu Âu 10 thành viên mới của Liên minh châu Âu (EU) đã gia nhập diễn đàn này. Lần mở rộng thứ hai của ASEM diễn ra vào năm 2008 tại Hội nghị thượng đỉnh 7 của ASEM diễn ra tại Bắc Kinh với việc kết nạp 03 nước châu Á là Ấn Độ, Pakistan và Mông Cổ, đồng thời kết nạp 2 thành viên mới của EU là Bungari và Rumani.
Trong một mức độ nào đó, quá trình mở rộng của ASEM như vừa nói, phản ánh một thực tế là Diễn đàn này không có một tiêu chí địa lí rõ ràng đối với các thành viên mới kết nạp. Trong khi các nước tham gia ASEM về phía châu Âu 100% là thành viên EU, một tổ chức khu vực, thì về phía châu Á, các nước lại không chỉ là thành viên của ASEAN. Vì thế, việc kết nạp Australia, New Zealand và Nga lần này đã đặt ra một câu hỏi là liệu có phải ASEM sẽ phát triển từ một đối thoại khu vực (region-to-region dialogue) với cơ chế điều phối dựa trên tiêu chí khu vực sang một tiến trình đối thoại quốc gia (state-to-state dialogue) với sự đa dạng của các nước thành viên và không có sự điều phối của hai tổ chức khu vực là ASEAN và EU? Bài viết này sẽ cố gắng trả lời câu hỏi này bằng cách phân tích thách thức đối với quá trình mở rộng của ASEM. Bài viết gồm ba phần, trong đó phần một giới thiệu khái quát quá trình mở rộng của ASEM, phần hai phân tích những thách thức khi kết nạp 03 thành viên mới và phần ba đưa ra một số triển vọng của diễn đàn này.

2. Khái quát về quá trình mở rộng của ASEM

Ngày 01/03/1996, 25 người đứng đầu nhà nước và chính phủ và chủ tịch Uỷ ban châu Âu đã gặp nhau ở Bangkok tuyên bố sự ra đời chính thức của một diễn đàn đối thoại giữa hai châu lục Á và Âu (ASEM). Tham gia về phía châu Á lúc đó mới chỉ là 7 nước thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và 3 nước đối tác của ASEAN là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Về phía châu Âu tiêu chí thống nhất là các nước thành viên của EU và Chủ tịch uỷ ban châu Âu. Hội nghị thượng đỉnh lần 1 được coi là sự kiện lịch sử có tính bước ngoặt trong quan hệ giữa hai khu vực. Nếu như Hội nghị thượng đỉnh 1 của ASEM là hội nghị thành lập, thì Hội nghị thượng đỉnh lần 2 được tổ chức ở Anh năm 1998 đã phải đối mặt với chủ đề khủng hoảng tài chính châu Á vừa mới diễn ra năm 1997. Phải đến Hội nghị thượng đỉnh ASEM 3 được tổ chức ở Hàn Quốc năm 2000, các nhà lãnh đạo của hai châu lục mới thông qua được Khuôn khổ hợp tác Á-Âu chính thức, đặt ra một số nguyên tắc và định hướng cho tiến trình hợp tác Á-Âu. Nhưng ngay sau đó, Hội nghị thượng đỉnh 4 tổ chức tại Copenhagen (Đan Mạch) năm 2002 lại phải đương đầu với chủ đề chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Mở rộng thành viên là đề tài gây nhiều tranh cãi nhất tại Hội nghị thượng đỉnh 5 diễn ra tại Hà Nội năm 2004, khi về phía châu Âu 10 quốc gia mới của EU “đương nhiên” được kết nạp để “đánh đổi” với sự gia nhập của 03 nước thành viên ASEAN là Campuchia, Lào và Myanmar, trong đó sự kết nạp của Myanmar bị phản đối nhiều nhất. Năm 2006, Hội nghị thượng đỉnh 6 tại Helsinki (Phần Lan) kỉ niệm 10 năm ASEM thảo luận chủ yếu về các mối đe doạ an ninh và ủng hộ hệ thống quốc tế đa phương. Năm 2008, tại Bắc Kinh, Hội nghị thượng đỉnh 7 đánh dấu sự mở rộng lần thứ hai của ASEM khi về phía EU, hai thành viên mới là Rumani và Bungari “đương nhiên” trở thành thành viên của ASEM, nâng tổng số thành viên của châu Âu là 28. Phía châu Á kết nạp thêm Ấn Độ, Mông Cổ và Pakistan, trong đó Ấn Độ vừa là thành viên của Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) vừa là thành viên của Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) giống như hai nước Mông Cổ và Pakistan. Ban thư kí ASEAN (ASEAN Secretariat) cũng được kết nạp với tư cách là một thành viên, đưa con số các nước thành viên châu Á lên đến con số 17. Trước thềm Hội nghị thượng đỉnh thứ 8 tại Brussels (Bỉ), tổng số thành viên của ASEM là 45 trong đó châu Âu là 28 và châu Á là 17. Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai châu lục là nếu như ở châu Âu thành viên của ASEM phải là các nước EU thì đối với châu Á, các nước không bắt buộc và không thể chỉ là thành viên của ASEAN.
Mối quan hệ có tính thể chế mặc dù còn lỏng lẻo của Diễn đàn Á-Âu là phản ánh thực tế của một quá trình toàn cầu hướng tới xây dựng một trật tự thế giới mới với những sắp xếp đa dạng tạo thành một hệ thống quản trị toàn cầu mới. Trong hệ thống đó có 5 cấp độ hoạch định chính sách khác nhau là toàn cầu, liên khu vực, khu vực, tiểu khu vực và cấp độ song phương, trong đó ASEM được coi là thuộc cấp độ liên khu vực.(1)
Bảng 1: Hệ thống quản trị toàn cầu
TT Cấp độ Tên tổ chức
1 Toàn cầu, đa phương (global, multilateral) Liên hợp quốc (UN), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), G-8…
2 Liên khu vực (interregional) EU-ASEAN, EU-MERCOSUR, ASEAN-MERCOSUR, APEC, ASEM…
3 Khu vực (regional) EU, ASEAN, MERCOSUR, NAFTA…
4 Tiểu khu vực (Subregional) Các khu vực châu Âu (Euroregions), Tiểu vùng Mê Kông (Mekong subregion)
5 Song phương giữa các quốc gia  
ASEM được coi là một diễn đàn đối thoại không chính thức liên khu vực về các vấn đề kinh tế, chính trị và văn hoá liên quan đến cả châu Á-Âu. Một quan hệ được coi là liên khu vực khi có các biểu hiện sau đây: 1) đó là quan hệ giữa hai tổ chức chức khu vực; 2) đó là quan hệ giữa một tổ chức khu vực và một nhóm các quốc gia khu vực; 3) quan hệ giữa hai nhóm quốc gia khu vực(2). Theo quan điểm này, ASEM rõ ràng thuộc loại thứ hai vì về phía châu Âu, EU hoặc UỶ ban châu Âu và chủ tịch luân phiên hành động với tư cách là người điều phối các lợi ích của các nước thành viên trong khi về phía châu Á các thể chế khu vực lại không thực hiện một cách rõ ràng chức năng này. Phía châu Á là một tập hợp tương đối lỏng lẻo các quốc gia, theo đó một quốc gia điều phối được xác định để đưa ra những vấn đề chung trước khi Hội nghị thượng đỉnh ASEM được triệu tập.

3. Thách thức mở rộng đối với ASEM

Tuy nhiên, với sự mở rộng năm 2010 khi ASEM kết nạp Australia, New Zealand và Nga, thì tính chất liên khu vực của diễn đàn Á-Âu đang trở thành một vấn đề và tiêu chí thành viên của diễn đàn càng trở nên phức tạp. Với sự đa dạng của các nước thành viên, các nước châu Á đã vượt qua các tiêu chí địa lí thông thường và các giới hạn của các kiến trúc khu vực đang tồn tại. Giờ đây với sự tham gia của Australia, New Zealand và Nga, ASEM đã trở thành một tiến trình đối thoại với các thành viên không nhất thiết phải gắn với một tổ chức khu vực và có thể bao gồm cả những quốc gia từ hơn hai khu vực.
Quyết định chính thức về quy chế thành viên cho Australia, New Zealand và Nga sẽ được quyết định tại Hội nghị thượng đỉnh 8 diễn ra vào ngày 4-5/10/2010 tại Brussels. Để chuẩn bị cho lần mở rộng này, Hội nghị ngoại trưởng ASEM 9 tại Hà Nội ngày 25-26/05/2009 đã đưa ra ý kiến chỉ đạo cho việc kết nạp thành viên mới như sau:
“Các ngoại trưởng hoan nghênh việc nộp đơn gia nhập ASEM của Australia và Nga và uỷ quyền cho các quan chức cao cấp chuẩn bị các thể thức cho phép hai nước này chính thức gia nhập ASEM tại Hội nghị thượng đỉnh ở Brussels năm 2010. Trước nhu cầu gia nhập ASEM ngày càng tăng của các nước khác, các ngoại trưởng cũng giao cho các quan chức cao cấp thảo luận và đề xuất các tiêu chí, nguyên tắc và thủ tục trên cơ sở Khuôn khổ hợp tác Á-Âu năm 2000 liên quan đến tương lai mở rộng của ASEM.”(3)
Bảng 2: So sánh quá trình mở rộng ASEM
  1996 Lần mở rộng 1 (2004) Lần mở rộng 2 (2006) Lần mở rộng 3 (2010)
Phía châu Á 7 nước ASEAN và 3 nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc Campuchia, Lào, Myanmar Ấn Độ, Mông Cổ, Pakistan và Ban thư kí ASEAN Australia, New Zealand, Nga
Nhân tố thúc đẩy - Mở rộng ASEAN Cá nhân các nước Cá nhân các nước
Số lượng 10 13 17 20
Phía châu Âu EU-15 và UỶ ban châu Âu 10 nước thành viên mới của EU(4) 2 nước thành viên mới là Bulgari và Rumani -
Nhân tố thúc đẩy - Mở rộng EU Mở rộng EU  
Số lượng 16 26 28 28
Nhìn lại lịch sử mở rộng của ASEM chúng ta thấy, cho đến nay vẫn chưa có một bộ nguyên tắc thống nhất về quy chế thành viên của diễn đàn. Nếu như các nước thành viên mới của EU “đương nhiên” trở thành thành viên của ASEM thì việc kết nạp Myanmar- một thành viên của ASEAN- lại bị EU phản đối kịch liệt, thậm chí các nước EU lúc đó còn “doạ tẩy chay“ Hội nghị thượng đỉnh ASEM 5 tại Hà Nội năm 2004(5). Lần mở rộng thứ ba này một lần nữa lại thể hiện sự khác biệt về quan điểm không chỉ giữa châu Âu và châu Á mà ngay cả trong nội bộ mỗi khối. Sau rất nhiều lần thảo luận và trao đổi cuối cùng người ta đã phải đưa ra “Bản sửa đổi tiêu chí tạm thời thứ ba” (Temporary Third Category Arrangement) để phù hợp với cả ba thành viên mới(6). Australia và New Zealand đã bày tỏ nguyện vọng tham gia ASEAN về phía châu Á. Thật khó có thể hình dung Australia và New Zealand lại tham gia với tư cách các nước châu Á. Từ góc độ thể chế, nếu có điều gì gắn hai nước này với châu Á thì có lẽ chỉ vì cả hai đều là thành viên của Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (East Asia Summit-EAS) từ năm 2005. Còn trường hợp gia nhập ASEAM với tư cách là một nước châu Á của Nga thì còn khó giải thích hơn. Sau khi kí Hiệp định Thân thiện và Hợp tác (TAC) vào ngày 29 tháng 11 năm 2004 thừa nhận các nguyên tắc cơ bản của ASEAN, Liên bang Nga cũng mong muốn được tham gia ASEM với tư cách thành viên phía châu Á.
Có thể lí giải nguyên nhân tham gia ASEM của Australia, New Zealand và Nga từ góc độ của EU. Rất có thể là quan điểm „cứng nhắc“ của EU về tư cách thành viên đã „buộc“ Australia, New Zealand và Nga phải gia nhập ASEM với tư cách là các nước châu Á. Trên thực tế, EU cũng không hề phản đối mà còn hoan nghênh việc kết nạp 03 nước thành viên mới này. Có ba lí do để giải thích quan điểm của EU. Thứ nhất, EU muốn kết nạp vào diễn đàn này tất cả các chủ thể lớn nhằm tăng thêm tiếng nói chung của ASEM trên trường quốc tế, không kể nước đó thuộc châu Á hay châu Âu. Thứ hai, thông qua quan điểm thống nhất về mở rộng ASEM, EU cũng muốn chứng tỏ rằng họ đang hướng tới việc hoạch định một chính sách đối ngoại chung. Thứ ba, sự mở rộng các thành viên về phía châu Á cũng làm cho sự chênh lệch về số lượng giữa hai bên được giảm bớt. „Tỉ số“ hiện tại, nếu tính cả Australia, New Zealand và Nga cho châu Á thì vẫn nghiêng về châu Âu với chênh lệch đáng kể là 28-20.
Về phía các nước châu Á, một số nước cho rằng ba thành viên mới này về bản chất là các nước châu Âu, nhưng tính chất châu Á rất mờ nhạt. Việc kết nạp ba nước này về phía châu Á cho thấy các nước châu Á linh hoạt hơn các nước châu Âu rất nhiều trong tiến trình ASEM. Những kiến trúc an ninh khu vực năng động nhất của châu Á như ARF, ASEAN+3 và EAS ngày càng đóng vai trò quan trọng và được xem như là sự mở rộng của chủ nghĩa khu vực của ASEAN.

4. Triển vọng của ASEM

Tương lai của ASEM phụ thuộc nhiều vào sự hiểu biết lẫn nhau và hợp tác của EU với châu Á. Vì EU chỉ cho phép các thành viên của mình được tham gia vào ASEM cho nên trong tương lai các nước không phải là thành viên EU sẽ gia nhập ASEM với tư cách là các nước châu Á hoặc các nước thứ ba. Tuy nhiên điều này cũng sẽ gặp những trở ngại nhất định. Thứ nhất, có thể các nước thành viên “châu Á mới” sẽ nhất trí với các nước thành viên “châu Á cũ”. Lúc đó phía châu Á sẽ mạnh hơn rất nhiều so với các nước EU. Đối thoại giữa hai nhóm nước sẽ tiếp tục và có thể sẽ xuất hiện những nhóm nước mới như “Trung Á” hoặc “Nam Á”. Một khả năng khác có thể xảy ra là các thành viên “châu Á mới” sẽ không nhất trí với các nước “châu Á cũ”. Khi đó đối thoại giữa hai khu vực Á-Âu-nền tảng cơ bản của ASEM- sẽ bị đe doạ, ngoại giao giữa các quốc gia sẽ thay thế đối thoại giữa hai nhóm nước.
Nếu ASEM vẫn tiếp tục phát triển theo xu hướng như hiện nay, khi sự năng động chỉ diễn ra ở phía châu Á, thì cơ chế đối thoại giữa một bên là một tổ chức khu vực (EU) với một bên là một nhóm các quốc gia có thể từ một vài khu vực mà nòng cốt là ASEAN vẫn phát huy tác dụng. Cho dù thế nào thì ASEM vẫn đủ linh hoạt để đáp ứng được nhu cầu cơ bản của lãnh đạo châu Âu và châu Á là nâng cao hiểu biết và đối thoại giữa EU và các nước phi EU. Trên thực tế, việc mở rộng thành viên của ASEM không tốn kém nhiều và không ảnh hưởng đến mục tiêu cơ bản đó.
___________

Chú thích

(1) Juergen Rueland, The future of ASEM process, in: Wim Stokhof and Van der Velde (eds.), ASEM- A Window of Opportunity, London 1999.
(2) Heiner Haenggi, Interregionalism as multifaceted phenomenon, in: Heiner Haenggi, Ralf Roloff and Juergen Rueland (eds.), Interregionalism and International Relations, London and New York: Routledge 2006, pp.31-62.
(3) ASEM, 9th ASEM Foreign Ministers Meeting, Hanoi, 25-26, May (www.aseminfoboard.org/content/documents/FMM9Chairs-Statement.pdf)
(4) Mười nước thành viên mới gia nhập EU năm 2004 gồm: Síp, Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Lítva, Malta, Ba Lan, Cộng hòa Slovakia và Slovenia.
(5) Phạm Quang Minh, ASEM5 – Thách thức trong quan hệ Á-Âu, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Số chuyên đề về ASEM, số 5 (68)-2004, tr.28-34.
(6) Jakarta Post 11 June 2009.
(Nguồn : http://ussh.edu.vn/thach-thuc-cua-qua-trinh-mo-rong/2799)

23. "Nam - Bắc và Đông - Tây "

BBT: Khoa Quốc tế học xin giới thiệu bài của Ông Dương Trung Quốc phát biểu trong hội thảo "Engaging with Vietnam: An interdisciplinary dialogue" ngày 4-5 tháng 12 năm 2011, đã được chỉnh sửa và đăng trong báo điện tử Lao động cuối tuần.
Ông Dương Trung Quốc trình bày tại hội thảo. (Nguồn ảnh: Thành Long/USSH)
Mới rồi, cuộc hội thảo khoa học quốc tế nghiên cứu về Việt Nam lần thứ III, một tiếp xúc khoa học truyền thống giữa các nhà nghiên cứu về Việt Nam đến từ nhiều nước trên thế giới do hai trường đại học của Việt Nam (Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội) và Australia (Monash) chủ trì được tổ chức tại Hà Nội.
Được mời tới làm khách thuyết trình chủ đề “Giao lưu Đông - Tây với vai trò người trí thức” như lời giáo đầu cho cuộc trao đổi, lại thấy ngồi dưới có nhiều chuyên gia hàng chót vót như GS Carlyle Thayer (Học viện Quốc phòng Australia) hay TS Charles Morisson (Giám đốc Trung tâm Đông - Tây, Hoa Kỳ) v.v... tự hỏi sẽ nói gì về một vấn đề lớn của thời đại trong vòng có ba mươi phút.
Một trong những chủ đề của cuộc trao đổi này đề cập tới vai trò của tầng lớp trí thức địa phương có mối liên hệ như thế nào với cuộc tiếp xúc Đông - Tây, tập trung ở Châu Á trong bối cảnh toàn cầu hoá... Vì thế nên không thể không đề cập tới những nét riêng của trí thức Việt Nam được hình thành trong hoàn cảnh lịch sử như thế nào xuyên suốt trong lịch sử, về căn bản được chia ra làm hai giai đoạn: trong “Thế giới Trung Hoa” kéo dài hơn hai thiên niên kỷ và trong tiếp xúc với thế giới phương Tây trong đó có nước Pháp thời thực dân và phần còn lại của thế giới thực sự mới cách nay vài thế kỷ. Điều cần nhấn mạnh là với dân tộc Việt Nam, muốn nói đến giao lưu Đông - Tây thì không bao giờ được quên và tách nó ta khỏi quan hệ Nam - Bắc, không chỉ trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Xin lược lại những gì đã nói để chia sẻ với bạn đọc cuối tuần.
Bàn đến quan hệ giao lưu Đông - Tây và vai trò người trí thức ngày nay trong cuộc giao lưu ấy, trước tiên không thể không nói đến quan hệ “Nam -Bắc”.
Quan hệ Nam -Bắc, diễn đạt cho cụ thể hơn là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa. Nước Việt Nam về lãnh thổ và tên gọi (quốc danh) trong lịch sử có nhiều lần thay đổi, nhưng về địa lý, luôn nằm ở phía Nam trong tương quan với Trung Hoa. Lãnh thổ và tên gọi nước Trung Hoa cũng vậy và nó luôn nằm ở phía Bắc nước Việt Nam.
Vì hoàn cảnh địa lý, núi liền núi, sông liền sông, chung một con đường biên giới trên đất liền và cùng có bờ biển hướng ra Thái Bình Dương về phía đông mà giữa hai quốc gia đã từng có cả những chung đụng và xung đột trong lịch sử hàng ngàn năm. Đó là một câu chuyện dài....
Chỉ có thể nói rằng, Việt Nam vốn nằm trong không gian của một cộng đồng rất to lớn của các tộc Việt sinh sống ở phía nam sông Dương Tử gọi chung là Bách Việt, gắn với nền văn minh lúa nước và đã đạt tới một trình độ văn minh khá cao, mà với những tộc Việt là tổ tiên trực tiếp của dân tộc Việt Nam ngày nay, đó là nền Văn hoá Đông Sơn với biểu tượng là những chiếc trống đồng tinh tế, gắn với huyền thoại về thời kỳ dựng nước của dân tộc Việt Nam, tương ứng với một giai đoạn lịch sử cách nay chừng hơn hai thiên niên kỷ rưỡi.
Nhưng rồi với sức bành trướng của người Hán từ phía trên sông Dương Tử tràn xuống phương Nam, hầu hết các tộc trong Bách Việt, kể cả lãnh thổ của các Vua Hùng và những triều đại kế tiếp đều bị thôn tính vào trong đế chế rộng lớn từ phương Bắc tràn xuống này. Nền cai trị kéo dài hơn một thiên niên kỷ với một chính sách đồng hoá khắc nghiệt và triệt để đến mức, cho đến ngày hôm nay người Việt Nam hiện đại vẫn đứng trước câu hỏi: liệu trước khi bị người Hán đô hộ, người Việt đã có chữ viết của mình chưa? Và những tầng lớp tinh hoa của cộng đồng là ai ngoài những ý niệm về các thủ lĩnh quân sự?
Với một ngàn năm Bắc thuộc, sự có mặt của ngưòi Hán vừa là kẻ cai trị, vừa là người đến định cư và hoà trộn thành phần dân cư với người Việt bản địa đã tạo ra một cộng đồng dân cư mà hạt nhân là người Kinh, một thành phần đa số và có vị thế ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Văn minh phương Bắc ban đầu là sự áp đặt thuần tuý của kẻ đến từ bên ngoài và thống trị. Nhưng với hơn một ngàn năm, những nhân tố tích cực ưu trội của nền văn minh này được du nhập và được tiếp nhận. Tổ tiên chúng ta một mặt không ngừng tìm cơ hội để thoát ra khỏi ách thống trị của đế chế phương Bắc về phương diện chính trị (mà những tên tuổi của Hai Bà Trưng, Bà Triệu v.v... là biểu tượng), nhưng cũng chấp nhận nhiều giá trị có nguồn gốc từ phương Bắc. Việc sử dụng chữ Hán như một ngôn ngữ viết chính thức là một bằng chứng. Nguời Việt sẵn lòng tôn vinh viên quan cai trị nhà Hán Sĩ Nhiếp là “Nam Giao học tổ” lập đền thờ phụng; các nhân vật cai trị khác như Tích Quang, Nhâm Diên cũng được tôn trọng tương tự...
Trên phương diện văn hoá, người Việt tiếp nhận những giá trị văn hoá phương Bắc để làm phong phú cho chính mình nhưng không chấp nhận bị đồng hoá. Do vậy, trong khi chấp nhận Hán tự làm chữ viết thì vẫn nói tiếng nói riêng của mình. Đã có những nỗ lực của các nhà trí thức Việt Nam sáng tạo ra “chữ Nôm” trên cơ sở sử dụng các bộ nét trong chữ Hán tượng hình để định dạng ghi lại tiếng nói của mình. Chữ Nôm đã phát triển một cách mạnh mẽ tuy chưa đạt tới sự hoàn thiện nhưng là một biểu hiện của bản lĩnh và năng lực bảo tồn và sáng tạo văn hoá riêng của người Việt Nam trong hoàn cảnh sống cạnh và bị sự đô hộ của một đế chế sở hữu một nền văn minh lớn như Trung Hoa.
Trong thời kỳ lịch sử dài hơn thiên niên kỷ này, bên cạnh các quan lại người Hán, hẳn đã hình thành một tầng lớp “tinh hoa” trong cộng đồng những người dân bị trị cũng như một bộ phận quan lại, tầng lớp trên có xu hướng ly khai với nền đô hộ của triều đình phương Bắc diễn ra trước thời tự chủ bắt đầu từ Ngô Quyền (938), như Dương Đình Nghệ, các nhà lãnh đạo họ Khúc... Phải chăng những người dẫn đạo tinh thần tự chủ của người Việt Nam thời đó là những trí thức đầu tiên (!?). Sứ mệnh của họ là từ trong cơ chế chính trị đương thời chống lại sự đô hộ của ngoại bang không chỉ bằng bạo lực mà bằng cả các tri thức, trong đó có cả những tri thức của nền văn minh của chính kẻ đã thống trị dân tộc mình.... Đó chính là nét phác hoạ đầu tiên về sứ mệnh tiếp nhận văn hoá bên ngoài cho nội lực dân tộc của một tầng lớp xã hội mà sau này ta gọi là trí thức.
Dần từng bước, cùng với sự truyền bá đạo Phật vào Việt Nam, tầng lớp tăng lữ của tôn giáo có đặc trưng nhập thế rất sâu sắc này đã trở thành một lực lượng trí thức dân tộc, đồng hành cùng dân tộc thúc đẩy quá trình xây dựng nền tự chủ quốc gia. Sau Ngô Quyền, vị tổ trung hưng thứ nhất xác lập nền tự chủ bằng chiến thắng Bạch Đằng (938), lần lượt các triều Đinh và (Tiền) Lê tuy ngắn ngủi nhưng từng bước củng cố nền tự chủ bằng việc thống nhất lực lượng dân tộc và tiếp tục khẳng định nền tự chủ ấy bằng sự nghiệp chống mưu toan thôn tính trở lại của phương Bắc (lúc này là nhà Tống).
Năm ngoái (năm 2010), Việt Nam tổ chức trọng thể 1000 năm Vua Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (nay là Hà Nội) như một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt. Vị vua này không có chiến công của người giành độc lập từ tay ngoại bang nhưng lại là người có một tầm nhìn vượt lên trên các bậc tiền bối. Điều đó thể hiện qua việc lựa chọn nơi định đô ngay sau khi lên ngôi. Qua việc Ngài không chấp nhận kinh đô Hoa Lư của các triều Đinh, (Tiền) Lê và cũng không trở về Cổ Loa có từ thời An Dương Vương mà vị tổ trung hưng Ngô Quyền sau khi lập lại nền tự chủ đã lựa chọn như sự “nối lại quốc thống”.
Lý Công Uẩn đã chọn Đại La, nơi chính quyền đô hộ Trung Hoa mà tiêu biểu là viên quan cai trị Cao Biền đặt trị sở, làm kinh đô của nước Đại Việt tự chủ, cho thấy một tầm nhìn sáng suốt của vị vua sáng lập triều Lý, mà đứng đằng sau là các vị tăng lữ Phật giáo tiêu biểu như sư Vạn Hạnh. Tầm nhìn ấy dựa trên một nguyên lý sáng suốt, đó là: Dân tộc Việt Nam thường trực phải đối phó với nước láng giềng phương Bắc không phải chỉ là một thế lực bành trướng, một nguy cơ bị xâm lăng mà còn là một nền văn minh lớn và một cơ hội để chúng ta có thể tiếp thu những tinh hoa từ bên ngoài nhằm làm giàu chính nền văn hiến của dân tộc mình.
Chính là nhà Lý đã đưa Khổng Tử về thờ (lập Văn Miếu), tổ chức các kỳ thi chữ Hán, học Tứ Thư, Ngũ Kinh của phương Bắc để tuyển chọn nguồn nhân lực cho quốc gia (Quốc Tử Giám) v.v... Nhưng cũng chính nhà Lý đã tuyên ngôn “Nam Quốc sơn hà Nam đế cư...”. Cũng như sau này là nhà Lê, lập triều từ việc chấm dứt ách cai trị 20 năm của phương Bắc (nhà Minh), lại là triều đại tiếp nhận một cách mạnh mẽ những ảnh hưởng văn hoá của phương Bắc, đặc biệt là trong việc xây dựng thiết chế chính trị của nhà nước trung ương. Lại cũng chính nhờ vậy mà triều Lê dù trải qua nhiều thăng trầm nhưng gìn giữ được bờ cõi hơn 3 thế kỷ phương Bắc không lai vãng. Hơn thế, chính trong thời kỳ lịch sử này, bờ cõi được mở mang về phương Nam với công lao của các Chúa Nguyễn. Việc mở mang này vô cùng quan trọng không chỉ về không gian lãnh thổ mà là sự tiếp nhận nhiều nguồn văn hoá mới “phi Trung Hoa” từ phương Nam (Ấn Độ và hải đảo Đông Nam Á cùng những nền văn hóa bản địa của những vùng đất mới).
Đây cũng là một quá trình lâu dài hình thành tầng lớp nho sĩ thành đạt với đội ngũ quan lại và đông đảo những nhà nho gần gũi với nhân dân ở các làng xã có ảnh hưởng sâu sắc trong việc tiếp thu có chọn lựa những nhân tố tích cực của văn hoá Trung Hoa, gây dựng cũng như bảo tồn những giá trị văn hoá bản địa và tạo dựng thành truyền thống. Vai trò tầng lớp trí thức này là vô cùng to lớn tạo nên nền văn hiến Đại Việt, nền tảng của tinh thần dân tộc và sức mạnh nội lực giúp Việt Nam tồn tại cạnh Trung Hoa như một quốc gia tự chủ về chính trị và thân thiện về văn hoá.
Quan hệ Nam - Bắc ấy đã chi phối như nhân tố chủ đạo của một trường kỳ lịch sử xuyên suốt lịch sử và cho đến ngày nay vẫn còn là một yếu tố không thể bỏ qua cho dù thời đại đã có rất nhiều thay đổi.
Cho dù người phương Tây đã đến Việt Nam từ sớm hơn thông qua việc truyền giáo hay buôn bán nhưng về căn bản cho đến thế kỷ thứ XVIII, Việt Nam vẫn bị bao trùm trong “thế giới Trung Hoa” mà những trí thức Việt Nam vẫn phải “ngụp lặn” vừa để ứng phó chống trả, vừa nương dựa vào những giá trị của nó để tiếp thu, học hỏi... Trải nghiệm lịch sử ấy đã tạo nên một bản lĩnh cũng như sắc thái của tầng lớp trí thức Việt Nam, sẽ đi tiếp trong một thử thách mới khi một “thế giới ngoài Trung Hoa” đã cận kề.
Ý niệm về mối quan hệ “Đông -Tây” hình thành vào thời điểm mà sự truyền giáo cũng như cuộc chinh phục thuộc địa từ các quốc gia Châu Âu đã bước qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa sang những phần đất còn lại của thế giới, đặc biệt là với 2 nền văn minh lớn (Trung Hoa, Ấn Độ) và rộng hơn là Châu Á trong đó có Việt Nam.
Có thể tiếp cận với nền văn minh mới mẻ này đầu tiên là những tín đồ Thiên Chúa giáo hay các nhà buôn vốn không mạnh ở nước ta, cùng với nhà cầm quyền luôn e ngại những yếu tố mới, xa lạ, nằm ngoài những khuôn vàng thước ngọc của thánh hiền chỉ có thể là man-di-mọi-rợ lấy sự khước từ làm phản xạ ban đầu.
Cũng chính vì thế mà người trí thức trong bộ máy quan lại, trong dân gian và trong hàng ngũ giáo dân đóng một vai trò rất quan trọng để tạo ra những đột phá trong việc tiếp nhận và giao lưu văn hoá với phương Tây.
Cần phải nói thêm rằng, ngay từ phía phương Tây cũng sớm đưa ra nhận thức cực đoan “Đông là Đông, Tây là Tây” như một sự phân ranh không suy xuyển và cùng với nó là quan niệm “phương Tây chinh phục phương Đông” của chủ nghĩa thực dân.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam, như trên đã nói, một dân tộc từng chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa rất sâu sắc nhưng trong tâm thức lại luôn muốn thể hiện mình khác Trung Hoa và luôn tìm cơ hội để tách dần ra khỏi ảnh hưởng Trung Hoa mà trước tiên là thoát khỏi ách đô hộ về chính trị.
Đàng Trong (nơi các Chúa Nguyễn lập nghiệp và mở mang bờ cõi) không chỉ xa về địa lý với Trung Hoa, cát cứ với triều đình trung ương mà còn đựơc tiếp nhận các nền văn minh “phi Trung Hoa” nên nó cũng rất nhạy bén khi tiếp xúc với văn minh phương Tây. Cùng thời với Phố Hiến ở Đàng Ngoài, Hội An ở Đàng Trong là cửa ngõ hướng ra bên ngoài, trong đó có các thành phần phương Tây (nhà truyền giáo, nhà hàng hải, thương nhân...).
Nhưng, chính Hội An ở Đàng Trong lại là cái nôi tiếp nhận những giá trị văn minh phương Tây mạnh mẽ và tiêu biểu là sự ra đời của chữ viết sau này đuợc gọi là quốc ngữ tại đây. Nhu cầu truyền giáo buộc phải đi tìm cây cầu ngôn ngữ để thâm nhập vào cư dân và xã hội bản địa. Các nhà truyền giáo Tây ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia, Pháp… đã tìm đến chữ latinh làm công cụ ghi âm tiếng nói của dân bản địa và truyền đạo.
Cũng giống như quan hệ Nam -Bắc, quan hệ Đông - Tây ở Việt Nam cũng khắc nghiệt bởi cho dù có yếu tố truyền giáo hay thương mại... thì chủ yếu vẫn diễn ra trong bối cảnh của chủ nghĩa thực dân phương Tây tiến hành chinh phục bằng bạo lực và xâm chiếm thuộc địa ở phương Đông (Viễn Đông) mà ở Việt Nam là chủ nghĩa thực dân Pháp.
Phạm Duy tốn, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh là những trí thức Tây học theo chủ nghĩa ôn hòa. Ảnh: TL
Cũng giống như trong quá khứ, quan hệ Đông-Tây, ban đầu là một sự kháng cự có phần tuyệt vọng bằng bạo lực. Chủ nghĩa thực dân phản động khi xâm lăng, và đô hộ dân tộc khác nhưng khách quan nó cũng lại truyền bá nền văn minh phương Tây tiên tiến và nhân bản. Triều đình Việt Nam sau những kháng cự bán đầu đã từng bước khiếp nhược trước sức mạnh, vũ khí phương Tây và chấp nhận sự đầu hàng. Ngay trong giới trí thức quan lại cũng bị chia rẽ sâu sắc trước câu hỏi “Chủ chiến hay chủ hoà?”. Tầng lớp trí thức trong dân cũng đứng trước câu hỏi “duy tân hay thủ cựu”.
Những vấn đề liên quan đến sự lựa chọn thái độ với văn minh phương Tây - sự cộng tác hay chống đối sự cai trị của chế độ thực dân luôn là một vấn đề sát sườn của giới trí thức cận đại. Những Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký hay Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh... luôn là những trường hợp có sự đánh giá trái chiều...
Thời cận và hiện đại gắn với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc luôn tạo ra thử thách cho giới trí thức, trong đó có giới trí thức Tây học, được đào tạo trong nền giáo dục Pháp (ở thuộc địa hay chính quốc)... Khỏi phải phân tích dài dòng, cùng với thời gian càng ngày chúng ta càng nhận ra, về căn bản những người trí thức đều quy tụ về một mối là hướng tới dân tộc bằng cách tiếp cận với văn hoá phương Tây, vì với nền văn hoá ấy, chủ nghĩa thực dân chỉ là một hiện tượng lịch sử, còn những giá tri tiến bộ, giá trị căn bản của một nền văn minh luôn là nguồn lực cho sự phát triển, nhất là với văn minh phương Tây, những giá trị Dân chủ là một ưu thế mang tính chất tiên phong.
Hiện tượng “chữ quốc ngữ” là một thí dụ: ban đầu, với các nhà truyền giáo nó là công cụ truyền bá, với thực dân nó là công cụ hành chính và phương thức để gạt dần ảnh hưởng của Trung Hoa, nhưng với người Việt Nam thì đó là công cụ để hội nhập với thế giới ngoài Trung Hoa, hướng tới những giá trị tiên tiến của phương Tây nên rất nhanh chóng được chấp nhận, phát triển thành ngôn ngữ xã hội và nghệ thuật để rồi trở thành “quốc ngữ”, ngôn ngữ chính thống kể từ khi nước Việt Nam độc lập (1945).
Nhân vật Hồ Chí Minh có thể là một biểu tượng tập trung của sự hình thành , lựa chọn và hành động của trí thức Việt Nam thời hiện đại mà vấn đề trung tâm là sứ mạng giải phóng dân tộc. Sự sa sút của tầng lớp nho sĩ nhanh chóng đựơc thay thế bằng những trí thức tân học (Tây học)... gánh vác những đòi hỏi phát triển của xã hội.
Lẽ ra, tại cuộc hội thảo này phải nói về vai trò của tầng lớp trí thức trong cuộc giao lưu Đông - Tây hiện tại, nhưng là một nhà sử học tôi chỉ muốn nói rằng, trong mọi sự phát triển, những di sản của quá khứ luôn có mặt như một sự lựa chọn giữa bảo thủ và truyền thống. Ứng xử trong mối quan hệ Nam - Bắc đã giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và trưởng thành bên cạnh nước Trung Hoa thì giải quyết tốt mối giao lưu Đông - Tây hiểu theo nghĩa hẹp của dân tộc Việt Nam vẫn là những truyền thống đã từng có trong quá khứ : tồn tại và trưởng thành, nhưng theo nghĩa rộng chính là sự hội nhập với toàn thế giới, cho dù ngày nay vẫn là một thế giới phức tạp và không ổn định.
Đã từng có thời “Đông là Đông -Tây là Tây”, lại có thời “Gió Đông thổi bạt Gió Tây” hay ngược lại... Ngày nay thế giới càng nhận thức được rằng Đông hay Tây đều là của chung nhân loại, một nhân loại chung sống trên một hành tinh ngày càng mỏng manh nếu những ngọn gió không chịu thổi thuận chiều... đó là chưa nói đến những biến đổi khí hậu mà Đông hay Tây đều phải chung tay ứng phó. Nếu tầng lớp trí thức là những người có trách nhiệm nhất với tương lai thì nó vẫn phải đi đầu trong cuộc vận động của lịch sử đương đại...”
Dương Trung Quốc

22. Mùa xuân Arab: Nguyên nhân nội tại và những kết cục khác biệt

Biến động “mùa xuân Arab” nổ ra tập trung nhất ở 5 quốc gia là Tunisia, Ai Cập, Yemen, Libya và Syria. Có thể nói 5 quốc gia lâm vào “mùa xuân Arab” đều là các nền cộng hoà- chế độ chính trị- xã hội tân tiến hơn so với các quốc gia Arab khác còn giữ chế độ quân chủ.

Các chính quyền ở Ai Cập, Libya và Syria được coi là có truyền thống cách mạng giải phóng dân tộc Arab từ hồi thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước. Hosni Mubarak từng là anh hùng của cuộc chiến tranh Tháng 10/1973 chống Israel. Muama'r Qaddafi từng là lãnh tụ cuộc cách mạng ngày 01/9/1969 lật đổ chế độ quân chủ, lập nên nhà nước Libya cách mạng. Đảng al-Baath ra đời tại Syria từ năm 1963, hiện do Basha'r al-Assad đứng đầu, vẫn giương ngọn cờ "chủ nghĩa dân tộc Arab" và tự coi mình là "thủ lĩnh" của lực lượng "Arab tiền tuyến" chống Israel. Chớ trêu thay, các chế độ "cách mạng và tiến bộ" ấy lại bị nhân dân vùng lên lật đổ, trong khi các nhà nước Arab quân chủ đều tương đối bình yên!

Qua một năm diễn biến, kết cục tại mỗi quốc gia chịu biến động nói trên lại mỗi nơi một vẻ.
Những kết cục khác biệt :
Hai cuộc sụp đổ chóng vánh:
Tại Tunisia, tổng thống Ben Ali cùng gia đình phải bỏ nước vội vã ra đi ngày 14/01/2011, sau gần một tháng chống cự với làn sóng biểu tình. Việc ra đi chóng vánh của Ben Ali tạo điều kiện cho Tunisia có một cuộc chuyển giao quyền lực đỡ phức tạp hơn cả so với các quốc gia khác. Ben Ali và gia đình đã cao chạy xa bay, nên dù có bị xét xử vắng mặt trong nước, nhưng có thể coi như đã tương đối an toàn.
Ông Hosni Mubarak tại Ai Cập buộc phải chấp nhận trao quyền lại cho Hội đồng quân sự tối cao vào sáng sớm ngày 11/02/2011, sau 17 ngày chống đỡ quyết liệt với cả phản kháng cuồng nộ từ bên trong và áp lực ngày càng dứt khoát từ phía Mỹ buộc ông phải "ra đi". Từ đó đến nay, mặc dù chính quyền quân sự tại Ai Cập thực tâm không muốn "xử tệ" với Mubarak và gia đình ông này, nhưng áp lực quần chúng phản kháng và phe đối lập (nay đã trở thành lực lượng làm chủ đất nước) đang thúc đẩy mạnh mẽ để toà án phải xử Mubarak, cùng một số cộng sự bị kết tội "giết hại người biểu tình", với mức án cao nhất!
Những cuộc đấu dằng dai với kết cục không giống nhau:
Ở Yemen, tổng thống Ali Abdullah Saleh đã cầm cự dằng dai khá hữu hiệu để đảm bảo không bị sụp đổ chóng vánh như hai nguyên thủ Tunisia và Ai Cập. Trong nước, Abdullah Saleh phải đối phó với cuộc phản kháng vừa quy mô, vừa quyết liệt, vừa kiên trì; với sự tham gia của đông đảo dân chúng bất mãn, của phe đối lập chính trị và cả một sư đoàn chính quy li khai khỏi quân đội. Ông này còn chịu áp lực liên tục, dai dẳng và nhất quán từ các quốc gia Arab láng giềng trong Tổ chức hợp tác vùng Vịnh (GCC) được Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) hậu thuẫn. Chính quyền Saleh cũng bị phe phản kháng lên án là đã giết hại cả ngàn người biểu tình. Vậy mà ông này chỉ chịu "tạm trao quyền cho phó tổng thống" trong một giải pháp chính trị mà ông ta được hưởng quyền miễn bị truy cứu về tư pháp. Saleh đã rời Yemen sang Mỹ "chữa bệnh" vào ngày 23/01 vừa qua để được coi như đã "hạ cánh an toàn"!
Saleh cũng bị phong trào phản kháng bùng lên rất sớm, nhưng ông này là người lão luyện trong nghệ thuật cầm quyền do trải qua nhiều thăng trầm trong suốt 33 năm tại vị. Saleh lại chứng tỏ khả năng "chơi con bài al-Qa'eda" để buộc Mỹ phải có giải pháp nương nhẹ hơn so với trường hợp Mubarak tại Ai Cập.
Cuộc đấu tại Libya cũng giằng dai quyết liệt và chỉ ngã ngũ vì sự can thiệp quân sự từ bên ngoài. Qaddafi và các con, rút kinh nghiệm từ biến động tại Tunisia và Ai Cập, lại có tiềm lực tài chính và vũ khí dồi dào, đã không từ một hành động nào để bảo vệ quyền lực, chống lại lực lượng phản kháng vũ trang trong một cuộc nội chiến thực sự đẫm máu. Muama'r Qaddafi chịu một kết cục bi thảm hơn cả. Ông này cùng một con trai đã bị giết "tại trận" vào ngày 20/10/2011. Nhưng cho đến nay, Libya cũng là trường hợp duy nhất trong các quốc gia chìm vào "mùa xuân Arab" bị can thiệp quân sự quốc tế do Liên Hợp Quốc áp đặt. Có thể nói nếu không có cuộc chiến tranh không quân cường độ cao của NATO thực thi nghị quyết 1973 của Hội đồng Bảo an từ ngày 31/3/2011, thì chế độ "Jamaheriyah" chưa thể sụp đổ vào cuối tháng 8, để Qaddafi bị tiêu diệt sau đó gần 2 tháng.
Phản kháng ở Syria bùng lên từ 17/3/2011- muộn màng nhất so với "những người anh em Arab" khác. Chính quyền Syria cũng đã rút được kinh nghiệm từ các cuộc biến đông trước đó, nên ngay từ đầu đã áp dụng một đường lối nhất quán là trấn áp quyết liệt, bất chấp đổ máu! Các biện pháp cường quyền và bạo lực của chính quyền tổng thống al-Assad khiến phản kháng không thể phát triển thành những cuộc "biểu tình triệu người". Phe đối lập chính trị trong và ngoài nước không thể thống nhất lực lượng. Chưa thể xảy ra hiện tượng li khai ở cấp cao, kể cả trong lực lượng vũ trang và chính quyền.
Hiện tượng quân nhân li khai thành lập "quân đội tự do Syria" là một thách thức nghiêm trọng, nhưng cho đến nay, đạo quân này vẫn chỉ có thể hoạt động theo những đơn vị nhỏ lẻ, rải rác tại các địa phương; chưa thể tập hợp thành đơn vị quy mô lớn và chưa thể chỉ huy thống nhất. Chính quyền Syria còn thành công trong việc tạo ra một "lực lượng đối lập" làm bình phong "dân chủ" che chắn cho sự tồn tại của chế độ; để đối trọng với đối lập thực sự cả ở trong nước và với nước ngoài.
Hơn nữa, chính quyền của tổng thống al-Assad đánh giá đúng tình hình quốc tế và cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra ở Mỹ và châu Âu, khiến cho kịch bản Libya khó có thể tái diễn. Tổng thống al-Assad cũng rất biết tận dụng vị thế không thể xem thường của Syria ở Liên đoàn Arab và trong khu vực; tận dụng quan hệ "trao đổi lợi ích" với Iran và Nga để được trợ giúp mọi mặt tại chỗ, cũng như được "bênh che" tại HĐBA.
Bởi thế, sau gần một năm biến động đẫm máu, chưa thấy cuộc khủng hoảng tại Syria có thể ngã ngũ sớm theo một hướng nào rõ rệt.
Sự khác biệt về nội tri có vai trò quyết định:
Qua một năm biến động, nghiêm trọng nhất ở năm quốc gia kể trên, có thể thấy có những đặc điểm đáng lưu ý:
Tunisia và Ai Cập là hai chế độ cộng hoà có nền tảng xã hội dân sự rõ nét hơn cả, thì đã sụp đổ nhanh chóng. Nhưng sự thay đổi chế độ tại hai nước này, tuy có đổ máu, vẫn không đến mức "đẫm máu" như tại ba nước còn lại. Điều quan trọng nhất là thể chế nhà nước dân sự khá rõ nét vẫn được bảo toàn. Sau khi thay đổi chế độ trong hoàn cảnh tương đối ôn hoà, chưa xảy ra tình trạng khoảng trống quyền lực có nguy cơ vượt tầm kiểm soát.
Các lực lượng mới trỗi dậy vẫn đang đấu tranh quyết liệt với chính quyền lâm thời nhận chuyển giao từ chế độ đã bị lật đổ, nhưng hình thái đấu tranh văn minh hơn, thượng tôn pháp luật hơn. Cuộc đấu tranh tập trung vào giành giật lợi thế tại nghị trường và xây dựng hiến pháp mới. Lực lượng "tàn dư của cách mạng không đầu" vẫn còn hoành hành trên đường phố vào những thời điểm khác nhau, nhưng đã không còn là "bất ngờ" nữa. Chính quyền lâm thời cùng các đảng chính trị mạnh nhất ý thức được lợi ích của đất nước và tương lai của chính đảng trên chính trường, tuy mâu thuẫn nhau về giành quyền lực, nhưng thống nhất với nhau về mục tiêu không để đất nước trượt dài xuống vực sâu hỗn loạn.
Trong khi đó, các chế độ tại Libya, Yemen và Syria có vẻ "vững chãi" hơn, tồn tại lâu hơn nhờ bộ máy cường quyền, độc trị; nhờ sự trung thành của các cơ chế cai trị do chính con cháu họ thống lĩnh; nhờ sự ràng buộc dòng tộc và giáo phái hạn hẹp; nhờ áp dụng đường lối bạo lực đẫm máu bất chấp thương vong của hàng ngàn người dân. Các chế độ này, trước khi xảy ra biến động đều có bộ mặt xã hội vô cùng êm ả nhờ "sự ủng hộ hoàn toàn của nhân dân". Nhưng khi chế độ sụp đổ thì đất nước hầu như rơi vào tình trạng vô chính phủ do khoảng trống quyền lực quá lớn. Libya đang là một ví dụ điển hình. Yemen muốn tránh được hỗn loạn vượt khỏi tầm kiểm soát chắc cũng phải nhờ cậy nỗ lực tột độ của GCC do Saudi Arabia và Qatar dẫn đầu.
Còn Syria, chưa thể nói gì vào lúc này. Nhưng điều mà các bên trong và ngoài khu vực, dù có lợi ích hết sức trái chiều nhau, đều lo ngại là nếu chính quyền của tổng thống al-Assad sụp đổ vào lúc này thì không thể tránh khỏi hỗn loạn. Một Syria hỗn loạn sẽ tác động tiêu cực đến toàn khu vực ở mức độ vượt xa so với tình trạng tương tự ở Libya hay Yemen.

“Mùa xuân ARAB"- Mùa xuân hồi giáo

Phong trào Hồi giáo đang nổi lên tại các quốc gia Arab đã thay đổi chế độ cầm quyền trong "mùa xuân Arab" cũng như tại nhiều quốc gia Arab khác đang biến động hoặc đang có những chuyển biến nội bộ.

Hồi giáo phục hồi và chiếm thế thượng phong trên chính trường Arab
:
Rõ nhất là tại Ai Cập và Tunisia- 2 quốc gia biến động đầu tiên và đang trong giai đoạn chuyển tiếp.
Tại Ai Cập: Phong trào Anh Em Hồi giáo (AEHG) đã được phép hoạt động hợp pháp trở lại sau thời gian bị đặt ra ngoài vòng pháp luật suốt từ cuối những năm 50 của thế kỷ trước đến khi Mubarak bị lật đổ đầu tháng 2 vừa qua. Đảng chính trị của phong trào này đã tham gia tranh cử trong cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội mới của Ai Cập kết thúc vào tháng 1/2012. Kết quả chính thức đã được công bố cho thấy đảng Tự do và Công lý của Phong trào AEHG giành được tới 47,2% tổng số ghế quốc hội. Một tổ chức Hồi giáo khác là đảng "Nou'r" (Ánh Sáng) được 24,29%. Như vậy, phe Hồi giáo chiếm gần 71,5% trong quốc hội mới, thừa tỷ lệ đa số tuyệt đối để có thể quyết định những vấn đề lập pháp của đất nước này. Tiếp đó, lãnh tụ đảng Tự do và Công lý của AEHG đã được bầu làm chủ tịch quốc hội.
Tại Tunisia: Đảng Nahda của Phong trào Phục Hưng Hồi giáo, mặc dù mới trở lại hoạt động trong nước từ cuối tháng 1/2011, sau khi Ben Ali phải bỏ chạy khỏi đất nước, nhưng đã giành thắng lợi vang dội trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên ngày 23/10/2011. Đảng này chiếm tới 50% số ghế của Hội đồng Sáng lập Quốc gia có nhiệm vụ bầu tổng thống và soạn thảo hiến pháp cho giai đoạn tiếp theo của Tunisia. Tiếp đó, tổng thư ký của Nahda trở thành thủ tướng của chính phủ chuyển tiếp tại Tunisia.
Tại Libya: Mặc dù tình hình chưa ổn định, nhưng Hồi giáo đã trở thành một thế lực có vị thế áp đảo, khiến chủ tịch Hội đồng quốc gia chuyển tiếp (NTC) phải tuyên bố trong lễ mừng "giải phóng hoàn toàn khỏi chế độ Qaddafi" ngày 23/10/2011 tại Bengazi rằng giáo luật Shariya là "nguồn chính yếu cho lập pháp tại Libya" hậu Qaddafi.
Tại Syria: AEHG cũng là một trong những lực lượng mạnh nhất trong phong trào đấu tranh quyết liệt cả bằng biểu tình hoà bình và xung đột vũ trang với mục tiêu lật đổ chế độ của tổng thống Basha'r al-Assad.
AEHG cũng đang hoạt động mạnh trong phong trào đòi cải cách chính trị tại 2 vương quốc có bộ mặt "hiện đại" là Jordani, Maroc. Nhà vua Mohammed VI của Maroc đã phải sửa đổi hiến pháp vào tháng 7/2011, tăng quyền giám sát cho quốc hội và tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 11 vừa qua. Cuộc bầu cử này đã mang lại thắng lợi cho đảng Công lý và Phát triển theo xu hướng AEHG và lãnh tụ của đảng này đã trở thành thủ tướng mới của Maroc.
Các quốc gia Arab khác như Moritani, Bahrein, Kuwait, Oman cũng mới sửa đổi hiến pháp theo hướng có lợi cho phong trào Hồi giáo.
Sự nổi lên của phong trào Hồi giáo trên chính trường nhiều quốc gia Arab trong năm 2011 là nối tiếp mạch trở lại của Hồi giáo tại các quốc gia Arab kể từ sau khi chế độ Saddam Hussein bị Mỹ xoá sổ tại Iraq năm 2003. Từ đó đến trước "mùa xuân Arab" năm 2011, đã có Hồi giáo Shi'a cầm quyền tại Iraq, Hamas cầm quyền tại Palestin và Hizbullah nắm quyền áp đảo trên thực tế chính trường Liban.
Phong trào Hồi giáo nổi lên tại các quốc gia Arab nhờ các cuộc bầu cử dân chủ mà chiến lược "Đại Trung Đông" của Mỹ khuyến khích và cổ xuý. Đây là kết quả hợp với thực tế khách quan, bởi đại đa số cử tri Arab là tầng lớp bình dân và họ đều là các tín đồ Hồi giáo ngoan đạo.
Xu hướng tự cải cách của một bộ phận Hồi giáo nguyên gốc
:
Chấp nhận tham gia chính trường thông qua bầu cử:

Phong trào Hồi giáo trở thành cầm quyền nhờ "mùa xuân Arab" dường như thể hiện một bộ mặt mới, có thể đang trở thành một trào lưu, đó là ôn hoà hơn, "hợp thời" hơn. Phong trào Hồi giáo theo chủ thuyết Hồi giáo nguyên gốc này chấp nhận tham gia chính quyền, đấu tranh chính trị và có thể tách khỏi bạo lực.
Phong trào AEHG từ khi ra đời tại Ai Cập năm 1928 cho đến đầu thế kỷ XXI vẫn giữ lập trường bản chất của một tổ chức theo chủ thuyết Hồi giáo nguyên gốc với một số đặc trưng về hành động thực tiến là:
- Coi các chính quyền Arab hiện hữu là "phi Hồi giáo".
- Không chấp nhận đàm phán với "kẻ thù Do Thái" (Israel). Kiên quyết tiến hành "thánh chiến" (Jihad) để "giải phóng Palestin" (có nghĩa là đuổi người Do Thái ra khỏi vùng lãnh thổ hiện nay là nhà nước Israel).
- Không chấp nhận tham gia bầu cử cùng các lực lượng mà họ coi là "ngoại đạo" (thế tục) hoặc "phi Hồi giáo".
- Kiên định mục tiêu giành chính quyền để độc tôn xây dựng một nhà nước Hồi giáo theo nguyên mẫu "Omma Islamiyah" có từ thời Mohammed, với phương sách duy nhất để giành chính quyền cho Hồi giáo là bạo lực.
- Áp đạt giáo luật Shariya lên toàn bộ xã hội.
Nhưng từ các cuộc bầu cử theo thể thức dân chủ được tổ chức từ năm 2005 đến nay tại một số quốc gia Arab, đã xuất hiện việc các nhóm Hồi giáo nguyên gốc tham gia tranh cử, chấp nhận đấu tranh nghị trường, chấp nhận tham gia chính phủ liên hiệp với các thế lực chính trị khác mà trước đây Hồi giáo nguyên gốc không bao giờ liên hiệp. Cụ thể là:
- Shi'a tại Iraq cầm quyền trong chính phủ liên hiệp có cả thế tục và Suna.
- Hizbullah Liban tham gia quốc hội, trở thành nòng cốt của phe đối lập và tham gia chính phủ liên hiệp với Suna và Thiên Chúa giáo.
- Hamas (Palestin) tham gia quốc hội và cầm quyền trong chính phủ liên hiệp với Fatah (thế tục).
- AEHG Ai Cập tham gia quốc hội với tư cách "những ứng viên độc lập".
- Các tổ chức theo AEHG ở Jordani, Sudan, Algieria, Maroc cũng đấu tranh đòi cải cách chính trị theo hướng chấp nhận tham gia bầu cử để tham gia chính trường.
Thay đổi hệ thống tổ chức:
Về mặt hệ thống tổ chức, có thể thấy một sự chuyển biến tự thân của phong trào AEHG khi đã chấp nhận tham gia chính trường. Cụ thể là phong trào này đã tách riêng hai hệ thống:
- Một bên là "phong trào" vẫn giữ nguyên bản sắc Hồi giáo nguyên gốc cả về hệ tư tưởng, tổ chức và phương sách hành động. Bên "phong trào" này thường vẫn giữ nguyên cả cánh vũ trang của họ. Khi giành được vị thế cầm quyền, thì cánh vũ trang ấy trở thành lực lượng vũ trang của chính quyền. (Điển hình là Hamas Palestin ở Gaza).
- Bên kia là "đảng" hoạt động theo luật đảng phái của chính quyền, tham gia bầu cử và tham gia chính quyền, thậm chí cầm quyền trong một thể chế "dân chủ lập hiến".
Có thể thấy những hình thức khác nhau của sự "tự cải cách" này:
- AEHG Ai Cập và Tunisia (đảng Nahda) chấp nhận từ bỏ bạo lực, chỉ còn đấu tranh chính trị- nghị trường.
- Hamas Palestin không có đảng chính trị riêng, nhưng có "cánh chính trị" và "cánh vũ trang"; trong đó, cánh chính trị là lãnh đạo đường lối chung.
- Nahda ở Tunisia là "đảng" đồng nghĩa với Phong trào Nahda. Trong khi Ai Cập vẫn có Phong trào AEHG và mới thành lập đảng "Tự do và Công lý" của Phong trào này.
Sự tự cải cách nêu trên cho thấy một chuyển biến mới rất căn bản của một bộ phận Hồi giáo nguyên gốc trong hoàn cảnh biến động tại khu vực Arab từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Họ đã thích nghi hơn trong một thế giới mà toàn cầu hoá bao hàm cả những nội dung về chung sống hoà bình, xã hội dân sự, thượng tôn pháp luật, nhân quyền...
Nên nhớ vẫn tồn tại một số phong trào và tổ chức Hồi giáo khác vẫn đậm đặc bản chất "nguyên gốc", đó là al-Qa'eda, Taliban và các tổ chức theo trường phái Hồi giáo Salfiya (Tiền bối). Taliban chỉ hoạt động tại Afghanistan và Pakistan. Nhưng al-Qa'eda thì vẫn hiện diện mạnh mẽ tại Yemen và một phần tại Iraq. Nhóm al-Qa'eda ở Tây Arab có thể đang tìm cách trở lại Libya trong hoàn cảnh bất ổn kéo dài. Trường phái Salfiyah (điển hình là nhóm Jihad Islami của Palestin ở Gaza) thì vẫn tồn tại trong tất cả các quốc gia Arab.
Những tổ chức Hồi giáo nguyên gốc nói trên bị liệt vào loại "khủng bố" trên phạm vi thế giới. Các chính phủ Arab trước đây đều tham gia cuộc chiến toàn cầu chống lại các tổ chức này. Nhưng chưa thể biết các chính quyền Arab mới do AEHG đứng đầu sẽ có thái độ thế nào với cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ khởi xướng và làm xung kích?
Dự báo tình hình khu vực
:
Với khu vực Arab:
"Mùa xuân Arab" có thể coi là một cuộc biến động toàn diện, có ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài đối với thế giới Arab. Đây là sự kiện có tầm ảnh hưởng lớn thứ hai trong lịch sử Arab hiện đại. Lần trước là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc bắt đầu từ cách mạng Ai Cập năm 1952 cho đến những năm 70 của thế kỷ XX.
Với tác động mãnh liệt của "mùa xuân Arab", các chế độ Arab, dù là cộng hoà hay quân chủ, cũng phải chấp nhận cải cách chính trị theo hướng mở rộng dân chủ phù hợp với toàn cầu hoá; nhưng sẽ trở lại với bản sắc Arab và Hồi giáo rõ rệt.
Sẽ có nhiều rủi ro đe doạ ổn định bền vững, bởi nền tảng xã hội Arab Hồi giáo vốn có nhiều khác biệt về bản chất với nền dân chủ phương Tây. Xã hội truyền thống Hồi giáo lại càng xa lạ với văn hoá và lối sống phương Tây. Khó tránh khỏi áp đặt giáo luật Shariyah hà khắc ở mức độ khác nhau tại các quốc gia Arab mà Hồi giáo trở thành cầm quyền. Nữ quyền sẽ bị thu hẹp. Các hoạt động kinh tế dịch vụ du nhập theo lối sống phương Tây sẽ bị cấm đoán, hạn chế. Tình trạng này sẽ xung khắc với bộ phận không nhỏ dân chúng đã quá quen với lối sống của một xã hội cởi mở, nhất là tầng lớp thanh niên, trung lưu, có học và cư dân đô thị lớn. Ngay lúc này đã có nhiều hoạt động phản kháng xu thế hồi giáo nguyên gốc cầm quyền. Không thể tránh được những cuộc biểu tình chống lại áp đặt giáo luật, bởi phản kháng kiểu "biển người" đã trở thành một thói quen mà "mùa xuân Arab" mang lại.
Nếu tình trạng hỗn loạn trên đường phố kéo dài tại những quốc gia mới thay đổi chế độ, thì lại xuất hiện môi trường để cho ra đời những chế độ hà khắc và những nhân vật độc tài mới.
Với Trung Đông:
Tình trạng hoà bình giữa Israel với các quốc gia Arab kế cận (Ai Cập, Syria) trở nên bấp bênh hơn bao giờ hết kể từ 1979 đến nay. Đảng Tự do và công lý của AEHG Ai Cập tuyên bố "tôn trọng các hiệp định quốc tế mà Ai Cập đã ký", nhưng lại giành quyền sửa đổi hiệp định hoà bình với Israel. Trong khi đó, lãnh tụ phong trào AEHG Ai Cập công khai tuyên bố không đàm phán hay đối thoại với "Sionist"! Tiến trình hoà bình Trung Đông đang lâm vào tình trạng "chết lâm sàng", khi phe Hồi giáo cứng rắn trở thành thế lực chủ đạo trên chính trường những nước Arab quan hệ trực tiếp tới giải pháp hoà bình.
Al-Qa'eda có thể rảnh tay hơn để củng cố trận địa của tổ chức này ở Yemen, Iraq và Tây Arab.
Nguy cơ xung đột dòng Hồi giáo giữa Suna với Shi'a sẽ tăng lên trong lòng một số quốc gia Arab (Iraq, Liban, Yemen, Bahrein...).
Tranh chấp ảnh hưởng khu vực giữa Arab với Iran sẽ nghiêm trọng hơn bởi yếu tố mâu thuẫn dòng Hồi giáo Suna- Shi'a thậm chí còn nóng hơn cả các yếu tố địa- chính trị.
Với thế giới:
Việc manh nha xuất hiện một số quốc gia Arab do nững người theo chủ thuyết Hồi giáo nguyên gốc cầm quyền có thể khiến thế giới phải theo dõi một cách thận trọng có phần lo ngại. Trong lịch sử thế giới hiện đại, mới chỉ có hai nhà nước do Hồi giáo nguyên gốc cầm quyền, đó là Cộng hoà Hồi giáo Iran ra đời năm 1979 và chế độ Taliban ở Afghanistan tồn tại từ 1996 đến 2001. Tổ chức al-Qa'eda bị coi là "khủng bố quốc tế" cũng nuôi tham vọng sẽ tạo dựng một thế giới có thể gọi là "Hồi giáo toàn tòng" theo đức tin của Kinh Qoraan (!).
*
* *
"Mùa xuân Arab" bùng phát đầu năm 2011 đúng là mang đến những chuyển biến lớn lao tại tại khu vực Arab khiến cả thế giới phải ngỡ ngàng. Mới qua một năm kể từ khi sự kiện này bùng phát và còn đang tiếp tục diễn biến theo chiều hướng khó mà cưỡng lại được. Chắc phải cần nhiều năm nữa để có thể thấy hết tầm mức ảnh hưởng của "mùa xuân Arab", nhận thức được đầy đủ tính tích cực và mặt tiêu cực của sự kiện này./.

“Mùa xuân Arab” sau một năm nhìn lại


Những biến động chính trị- xã hội đột ngột bùng phát tại khu vực Arab tới nay vừa tròn một năm.

Tính cho tròn một năm, bởi mặc dù khởi đầu ở Tunisia từ những ngày cuối tháng 12/2010, nhưng tháng 2/2011 có thể nói là đỉnh điểm của sự biến động, khi chế độ Hosni Mubarak "vững như Kim Tự tháp" ở Ai Cập sụp đổ, phản kháng bùng lên tại Yemen và bén tới Libya. Đó là ba quốc gia chịu lây lan của biến động từ Tunisia, nhưng mức độ biến động và tầm mức ảnh hưởng của các sự kiện diễn ra tại ba quốc gia này có tính chất sâu rộng hơn nhiều, cả với khu vực Arab, khu vực Trung Đông và tác động đến thế giới nữa.
Bài 1: CHỈ TRONG MÙA XUÂN TẠI THẾ GIỚI ARAB
Trong vài tháng đầu năm 2011, truyền thông phương Tây (vốn có mãnh lực hướng dẫn dư luận toàn cầu) đặt tên cho các sự kiện tại Tunisia là "cách mạng hoa nhài". Nhưng xem ra, cái thuật ngữ ấy có vẻ hơi mĩ miều quá trong khi những biến động diễn ra không hề êm ái và sự lan toả của nó cũng không ngát hương thơm dịu như hoa nhài. Sau đó, cũng các nhà truyền thông phương Tây đã tìm thấy danh xưng chính xác hơn, đó là "Mùa Xuân Arab". Danh xưng này chính xác ở thời gian bùng phát cũng như đỉnh điểm của các sự kiện diễn ra chủ yếu vào mùa xuân năm 2011.
Còn về không gian thì tính chính xác còn cao hơn nữa, bởi cho đến nay có thể thấy phạm vi chịu ảnh hưởng chủ yếu của các sự kiện này chỉ là khu vực Arab; không như nhiều người quá lo lắng cảnh báo sớm về sự lây lan có thể đến các khu vực khác nữa trên thế giới. Ở Việt Nam, ta thường thấy truyền thông nước mình gọi là "biến động tại Trung Đông- Bắc Phi". Thuật ngữ này không chính xác, bởi nếu nói Trung Đông thì phải bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ, Israel và Iran là những quốc gia tuy cùng một khu vực địa lý với thế giới Arab, nhưng rõ ràng không rơi vào vòng xoáy của biến động đã xảy ra.
Chỉ diễn ra trong khu vực Arab:
Sau một năm nhìn lại, có thể lý giải vì sao biến động chỉ xảy ra tại khu vực Arab.
Các quốc gia Arab có những đặc điểm chung nhất khiến họ giống như một cơ thể sống, tuy có nhiều bộ phận khác nhau, nhưng thật dễ bị lây lan, ảnh hưởng mỗi khi một bộ phận nào đó mắc bệnh.
Cùng một chủng tộc và ngôn ngữ:
Cái chung bao trùm nhất là chủng tộc Arab cùng chung ngôn ngữ Arab. Ngôn ngữ này khiến người Arab ở các quốc gia khác nhau đều có thể đọc, nghe hiểu hết mọi chuyện diễn ra tại các nước trong toàn khối. Ngôn ngữ này là tác nhân thuận lợi nhất để mọi thông tin về biến động bùng phát tại Tunisa dễ dàng tác động lên tâm lý của người Ai Cập, người Libya và các nước Arab khác nữa. Ngôn ngữ này, trong thời đại internet và các mạng giao tiếp xã hội (Facebook, Twitter...) đã tạo thành sức mạnh không thể ngăn cản để tập hợp nhanh chóng, trên diện rộng vô biên những người không quen biết nhau nhưng cùng ý chí xuống đường biểu tình đòi lật đổ chế độ.
Cái chung bao trùm thứ hai là Hồi giáo. Có thể nói thế giới Arab là thế giới của Hồi giáo với nhiều quốc gia "Hồi giáo toàn tòng". Tính tương đồng của người Arab- Hồi giáo có những yếu tố rất dễ gây hội chứng tâm lý trong số đông, như:
- Tinh thần "anh em Hồi giáo" bênh che, ủng hộ lẫn nhau có từ thời Tiên tri Mohammed (thế kỷ thứ VII sau công nguyên).
- Hội chứng đám đông mỗi khi bị kích động bởi các khẩu hiệu tôn giáo.
- Tập quán tập trung cầu nguyện tại giáo đường ngày thứ sáu hằng tuần. Những người phản kháng thường tận dụng các giáo đường này để tập hợp quần chúng và truyền bá tư tưởng chống đối; trong khi chính quyền không dễ ứng xử với người phản kháng tại các địa điểm tôn nghiêm này.
- Tập quán đám tang đông người và phải chôn người chết trong vòng 24 giờ. Tận đụng tập quán này, phe chống đối thường biến các đám tang thành những cuộc biểu tình phản kháng đông đảo, đầy kích động; trong khi chính quyền càng đàn áp, càng có người chết thì càng "đẻ" ra nhiều đám tang như thế.
- Luật tục "đáp trả tương tự"- nếu nợ máu phải trả bằng máu. Luật tục này khiến cho tinh thần trả thù rất cao và "bên gây ra tội ác" cũng kháng cự tới cùng vì nếu không, sẽ bị trừng phạt khốc liệt. Điều này lí giải vì sao những người cầm quyền Arab bị phản kháng đã "ngoan cố" đến cùng; và khi thất bại, số phận của họ thật là bi thảm!
Về mặt lịch sử: Các quốc gia Arab ngày nay vốn cùng trong một đế chế Arab suốt từ thế kỷ thứ VIII cho đến trước khi bị đế quốc phương Tây xâm lược và chia thành các quốc gia sau đại chiến thế giới thứ nhất (1914- 1918). Bởi thế, người Arab cho đến nay vẫn sử dụng thuật ngữ "tổ quốc" (al-Omma) chỉ dành riêng cho nghĩa "tổ quốc Arab". Còn khi nói tới từng quốc gia hiện hành thì có danh từ khác như "al-Watan".
Lý tưởng khôi phục một tổ quốc Arab thống nhất đã từng được các lãnh tụ giải phóng Arab (Abdu Nase'r, Muama'r Qaddafi, Hafeiz al-Assad, Saddam Hussein...) thực thi dưới dạng những "liên bang Arab" tồn tại trong một thời gian ngắn hồi thập niên 60- 70 của thế kỷ trước. Một trong những tiêu chí cách mạng của đảng al-Baath (từng cầm quyền tại Iraq và vẫn cầm quyền tại Syria hiện nay) là "thống nhất tổ quốc Arab".
Cho đến nay, lý tưởng khôi phục "al-Omma al-Arabiya" vẫn còn tồn tại vững chắc trong các phong trào Hồi giáo nguyên gốc (al-Qa'eda, Anh Em Hồi giáo, Thánh chiến Hồi giáo- Jihad Islami...). Với tinh thần thống nhất Arab như vậy, người Arab thuộc các quốc gia khác nhau vẫn coi nhau như những người "anh em" với từ "shaqeeq" không thể sử dụng với ai không phải là người Arab. Bởi sự gắn kết chủng tộc và lịch sử như vậy, người Arab rất dễ đồng cảm và mọi chuyện đều dễ dàng "lây lan" giữa "những người anh em Arab" với nhau.
Về mặt chính trị- xã hội: Các nước Arab lọt trong vòng xoáy biến động đều có các chính quyền gia đình trị độc đoán:
Những quốc gia chịu biến động mạnh nhất đều có chế độ cai trị mang tính độc đoán, chuyên quyền, gia đình trị kéo dài từ 23 năm đến 42 năm. Các nguyên thủ quốc gia đã hoặc sắp bị lật đổ đều xuất thân từ quân nhân và đều đang có tham vọng "cha truyền con nối".
- Ben Ali cầm quyền ở Tunisia từ năm 1987.
- Hosni Mubarak làm tổng thống Ai Cập từ 1981.
- Muama'r Qaddafi làm lãnh tụ Libya từ 1969.
- Chính quyền al-Assad cai trị Syria từ 1970. (Basha'r al-Assad làm tổng thống từ năm 2000, do "kế vị" cha là Hafeiz al-Assad).
- Ali Saleh cầm quyền tại Cộng hoà (Bắc) Yemen từ 1979 và làm tổng thống Yemen sau khi hai nước Yemen thống nhất đầu thập niên 90 thế kỷ trước tới nay.
Với chế độ cai trị như vậy, bức xúc xã hội tích tụ quá lâu biến thành mâu thuẫn đối kháng.
Nhóm nước biến động mạnh mẽ và căn bản nhất là Ai Cập, Tunisia và Libya còn có yếu tố địa lý liền kề nhau ở Bắc Phi, chịu tác động dây chuyền.
Bức xúc dân sinh, nghèo khổ:
Các quốc gia biến động mạnh chủ yếu có nền kinh tế yếu kém so với khu vực, tỷ lệ người nghèo cao, những bức xúc về đời sống nan giải đối với số đông dân chúng. Libya và Bahrein là hai quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao nhờ tài nguyên dầu lửa, nhưng do giới cầm quyền tham nhũng nghiêm trọng và chi tiêu công quỹ vô tội vạ không phục vụ quốc kế dân sinh, nên bất công xã hội tràn lan cũng tích tụ thành mâu thuẫn đối kháng.
Ý nghĩa của "mùa xuân":
Qua một năm nhìn lại có thể thấy "Mùa xuân" trong thuật ngữ "mùa xuân Arab" có ý nghĩa thực tiễn về khoảng thời gian trong một năm hơn là ngụ ý bóng bẩy về sự đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết quả.
Những biến động bắt đầu từ Tunisia vẫn kéo dài cho đến nay tại nhiều quốc gia Arab, mà nóng bỏng nhất lúc này là Syria. Nhưng sự bất ngờ đến ngỡ ngàng của sự kiện thì đúng là chỉ trong phạm vi mùa xuân năm 2011.
Điển hình của sự bất ngờ, ngỡ ngàng là biến động tại Tunisia và Ai Cập. Hai quốc gia này khi ấy khá ổn định và bình yên. Đặc biệt chính quyền của tổng thống Hosni Mubarak vừa rất thành công trong việc loại bỏ các đối thủ chính trị, đứng đầu là nhóm Anh Em Hồi giáo ra khỏi quốc hội trong một cuộc tổng tuyển cử "dân chủ, đa đảng" vừa diễn ra cuối tháng 11/2010. Bởi thế, khi biến động xảy ra trên diện rộng, với quy mô không thể nào tưởng tượng được, chính quyền Tunisia và Ai Cập khi ấy đều ngỡ ngàng.
Chẳng phải chỉ có những chính quyền trong cuộc, mà ngay cả Mỹ, Pháp và các nước lớn khác cũng không hiểu điều gì đang diễn ra? Chính quyền Mubarak xác định "thủ phạm nổi loạn" là Anh Em Hồi giáo và đã tung ra chiến dịch trấn áp, bắt bớ các thủ lĩnh của nhóm này. Nhưng biện pháp mạnh nhắm vào Anh Em Hồi giáo không hiệu quả, vì Anh Em Hồi giáo không hề tổ chức hay lãnh đạo các cuộc biểu tình triệu người tại quảng trường Tahree'r ở thủ đô Cairo và các thành phố lớn khác trong cả nước. Túng quẫn, chính quyền Ai Cập đàn áp tràn lan những người biểu tình, khiến hàng trăm người thiệt mạng.
Tinh thần "anh em Hồi giáo" bùng lên thành biển lửa đấu tranh mang tính chất sống còn, quyết lật đổ chế độ Mubarak. Tính chất quá khác lạ của cuộc biến động dẫn đến kết quả là cả tổng thống Ben Ali của Tunisia và tổng thống Hosni Mubarak của Ai Cập đều phải chấp nhận "ra đi" trước khi hiểu ra bản chất của cuộc biến động. Đó là diễn biến của tháng 1 và tháng 2/2011.
Nhưng sau đó, các chế độ cầm quyền còn lại của thế giới Arab cũng như thế giới bên ngoài đã nhận diện được bản chất của cuộc biến động. Nét nổi bật gây bất ngờ lớn nhất có thể được gọi là "cuộc cách mạng không đầu". Những người tham gia biểu tình, nhiều khi lên đến cả triệu người, đều không có tổ chức thống nhất, không có lãnh đạo chung và không có đường lối chính trị rõ ràng. Họ chỉ chung một tâm lý bất mãn cao độ và chung một mục tiêu rất ngắn hạn là lật đổ cho được người cầm quyền mà họ đã chán ghét đến mức không thể chịu nổi!
Khi đã nhận ra tính chất và đặc điểm khác lạ này của cuộc biến động, thì các chính quyền còn lại đã có những phương sách khác nhau để đối phó một cách chủ động hơn.
Kết quả của sự đối phó hữu hiệu này thể hiện tại Libya, Yemen, Bahrein và cả Syria hiện tại. Ở Libya, chính quyền Qaddafi chưa thể sụp đổ vào tháng 8/2010 nếu không có cuộc can thiệp quân sự hùng hậu của NATO suốt từ đầu tháng 4. Ở Yemen, tổng thống Saleh đã cầm cự được cho đến khi phe đối lập cũng phải chấp nhận giải pháp của Tổ chức Hợp tác vùng Vịnh để ông này ra đi an toàn mà không bị "truy cứu trách nhiệm" mặc dù cũng bị lên án là "giết hại cả ngàn nguười phản kháng". Biến động tại Syria nổ ra vào giữa tháng 3/2011, nghĩa là sau khi tính chất "cách mạng không đầu" đã bị nhận diện. Bởi thế, chính quyền của tổng thống al-Assad vẫn trụ được từ đó đến nay, chưa để xảy ra "phản bội" trong hàng ngũ lãnh đạo và tướng lĩnh; chưa ngưng nghỉ đàn áp thẳng tay khiến phe đối lập và phản kháng không thể tập hợp lực lượng và thống nhất lãnh đạo.
Cũng nhờ nhận diện được tính chất "cách mạng không đầu", mà các thế lực bên ngoài, từ Mỹ, phương Tây, đến Nga, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ... đều có những phương sách tác động khác nhau vào từng đối tượng Arab, để xoay chuyển cục diện tại chỗ sao cho phù hợp với lợi ích của các lực lượng bên ngoài ấy.
Cho nên, có thể nói "mùa xuân Arab" chỉ gây bất ngờ, ngỡ ngàng và đạt hiệu quả ngẫu hứng trong khoảng thời gian mùa xuân năm 2011 mà thôi. Những diễn biến sau đó, tuy vẫn khốc liệt, phức tạp, nhưng đã có thể bị chế ngự và lèo lái theo một hướng nào đó bởi bàn tay của giới cầm quyền tại chỗ, cùng với sự can thiệp của các thế lực bên ngoài, trong khu vực hay quốc tế./.
Tác giả: Nguyễn Ngọc Hùng
Nguồn: VNN

Thứ Năm, 25 tháng 10, 2012

21. Chủ nghĩa dân tộc và tương lai quan hệ Trung-Nhật

Bất ổn rất lớn sẽ xảy ra không những ở cấp độ khu vực mà còn tác động đến toàn cầu nếu như chủ nghĩa dân tộc mang tính phòng ngự ở Trung Quốc và Nhật Bản hiện nay chuyển sang trạng thái chủ nghĩa dân tộc tấn công. Liệu có kịch bản nào tốt đẹp cho tương lai quan hệ Trung-Nhật?
 
Trịnh Vĩnh Niên-Viện trưởng Viện Đông Á, Trường đại học Quốc lập Xinhgapore
Trịnh Vĩnh Niên-Viện trưởng Viện Đông Á, Trường đại học Quốc lập Xinhgapore
Việc chính phủ Nhật Bản quốc hữu hoá quần đảo Điếu Ngư/Senkaku đang tồn tại tranh chấp chủ quyền, đã dẫn đến làn sóng biểu tình chống Nhật với quy mô lớn tại Trung Quốc. Đồng thời, tại Nhật Bản cũng diễn ra các cuộc biểu tình chống Trung Quốc nhưng với quy mô nhỏ hơn. Trung-Nhật bùng phát chủ nghĩa dân tộc, khiến mọi người cảm thấy lo ngại sâu sắc về tình hình an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Quan hệ Trung-Nhật sẽ đi về đâu? Hoà bình hay chiến tranh? Trong quan hệ giữa các quốc gia châu Á, quan hệ Trung-Nhật có thể nói là nhân tố quyết định hoà bình và an ninh tại khu vực này. Theo tác giả, có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, hai nước Trung-Nhật lần lượt là nền kinh tế lớn thứ hai và thứ ba thế giới, nền kinh tế hai nước không chỉ có tính phụ thuộc lẫn nhau, mà nền kinh tế của mỗi nước cũng có tính phụ thuộc cao độ với các nền kinh tế khác. Vì vậy, khi chủ nghĩa dân tộc hai nước Trung-Nhật xảy ra xung đột, tất yếu sẽ tác động đến kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương, thậm chí ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu.
Thứ hai, sự tồn tại của liên minh Mỹ-Nhật cho thấy xung đột chủ nghĩa dân tộc Trung-Nhật tất yếu ảnh hưởng đến quan hệ Trung-Mỹ, trong đó quan hệ Trung-Mỹ lại là nhân tố mang tính kết cấu của thế giới hiện nay, có thể cấu thành ảnh hưởng mang tính thực chất đối với toàn bộ công việc thế giới. Mỹ luôn coi liên minh Mỹ-Nhật là trụ cột trong việc duy trì địa vị bá quyền của mình tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Khi chủ nghĩa dân tộc Trung-Nhật xảy ra xung đột, bất kể nhìn từ góc độ nào, Mỹ rất khó đặt mình ở ngoài cuộc xung đột này. Can dự hay không can dự đều là quyết định khó khăn đối với Mỹ. Không can dự đồng nghĩa với việc Mỹ vứt bỏ liên minh Mỹ-Nhật, lòng tin và danh dự của Mỹ tại Nhật Bản sẽ mất hết, không những thế lòng tin và danh dự của Mỹ tại khu vực châu Á cũng vì thế mà không còn. Nếu can dự, điều này có nghĩa sẽ bị cuốn vào cuộc xung đột giữa hai nước lớn hạt nhân. 
Sự phụ thuộc cao độ về kinh tế giữa hai nước Trung-Mỹ, đã hình thành nên cách nói “nước Trung-Mỹ” mà một số học giả Mỹ từng nêu ra, hai nước có thể trở thành “chủ nghĩa khủng bố” tài chính đối với nhau. Khi Trung-Mỹ xảy ra xung đột, kết quả sẽ không giống như Mỹ và Liên Xô của thời kỳ Chiến tranh Lạnh, mà sẽ giống như xung đột giữa Athena và Sparta của thời kỳ Hy Lạp cổ đại. Đối kháng Mỹ-Xô cuối cùng dẫn đến Liên Xô tan rã, nhưng khi Trung-Mỹ đối kháng, nhiều khả năng sẽ dẫn đến cả hai đều tổn thương. 
Về điểm này Mỹ rất rõ. Vì thế, cho dù từ góc độ địa chính trị, Mỹ hài lòng nhìn thấy quan hệ căng thẳng nhất định Trung-Nhật, nhưng nếu Mỹ cảm thấy xung đột giữa Trung-Nhật có khả năng xấu đi nghiêm trọng, lập tức Mỹ trở nên căng thẳng. Thái độ mâu thuẫn này của Mỹ, gần đây đã được bộc lộ rõ. Một mặt, Mỹ thể hiện với Nhật Bản, liên minh Mỹ-Nhật có thể sử dụng thích hợp đối với đảo Điếu Ngư/Senkaku; mặt khác Mỹ cũng kêu gọi Trung Quốc và Nhật Bản không nên sử dụng vũ lực giải quyết vấn đề. Một bên là “nước Trung-Mỹ” về mặt kinh tế, một bên là “liên minh Mỹ-Nhật” về mặt quân sự, chiến lược, Mỹ muốn giữ được sự cân bằng giữa hai mặt này, là một việc làm rất khó khăn. Nhưng khi mất cân bằng, không chỉ dẫn đến xung đột giữa hai nước Trung-Nhật, mà còn dẫn đến xung đột giữa hai nước Trung-Mỹ. Song, hành vi của Mỹ những năm gần đây khiến mọi người ngày càng hoài nghi về năng lực Mỹ có thể làm được sự cân bằng này. 
Thứ ba, so sánh chủ nghĩa dân tộc giữa Trung Quốc với các quốc gia châu Á khác, chủ nghĩa dân tộc Trung-Nhật có tính đặc thù. Chủ nghĩa dân tộc giữa Trung Quốc, Việt Nam và Philíppin có thể được coi là chủ nghĩa dân tộc thông thường, cốt lõi của chủ nghĩa dân tộc là tranh chấp cụ thể về lãnh thổ và biển đảo. Có thể nói, nội dung chủ yếu của chủ nghĩa dân tộc này là “lợi ích quốc gia” về mặt ý nghĩa vật chất. Tranh chấp và xung đột giữa “lợi ích quốc gia” của hình thái này, thường có thể quản lý. Nhưng chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc nhằm vào Nhật Bản lại có tính đặc thù. 
Từ thời cận đại đến nay, chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc vốn bắt nguồn từ Nhật Bản, cũng là vì nhân tố Nhật Bản cắm rễ, phát triển và lớn mạnh tại Trung Quốc. Từ Chiến tranh Giáp Ngọ đến Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Nhật Bản đem đến chiến tranh và tai hoạ to lớn cho nhân dân Trung Quốc, trong một giai đoạn lịch sử dài như vậy, đã thay đổi triệt để quan niệm chủ nghĩa dân tộc của người Trung Quốc. Nỗi nhục dân tộc và quốc gia của người Trung Quốc có liên quan trực tiếp với Nhật Bản. Nói như vậy, chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc đối với Nhật Bản, trên cơ sở lợi ích quốc gia cụ thể, đã làm tăng thêm nhân tố tình cảm mãnh liệt. Nhân tố tình cảm mãnh liệt này khiến cho chủ nghĩa dân tộc khó có thể kiểm soát và quản lý. Có thể dễ dàng nhận thấy tính tình cảm thậm chí tính bạo lực được thể hiện ra trong phong trào biểu tình chống Nhật lần này,. 
Những nhân tố này cho thấy hai nước Trung-Nhật làm thế nào để đối phó một cách lý trí với chủ nghĩa dân tộc của mỗi nước, điều có ý nghĩa quyết định đến an ninh của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nhìn từ quan điểm của chủ nghĩa lý trí, bất cứ vấn đề nào xuất hiện đều có nguyên nhân của nó. Chỉ cần có nguyên nhân, mọi người thường có thể tìm thấy phương pháp kiểm soát, quản lý thậm chí cuối cùng giải quyết được vấn đề. Chủ nghĩa dân tộc Trung-Nhật cũng như vậy. Muốn kiểm soát và quản lý chủ nghĩa dân tộc, đầu tiên cần phải hiểu con đường chúng sinh ra và phát triển. Nhìn từ góc độ lịch sử, bất cứ chủ nghĩa dân tộc nào hoàn toàn không phải là vừa sinh ra đã có tính tấn công và tính xâm lược. Chủ nghĩa dân tộc cuối cùng trở thành căn nguyên của xung đột và chiến tranh giữa các quốc gia, là do con người sau này tạo nên, tức lực lượng chính trị coi chủ nghĩa dân tộc là một dạng sức mạnh để huy động và sử dụng vào quan hệ quốc tế. Về mặt ý nghĩa này, chủ nghĩa dân tộc của hai nước Trung-Nhật, nếu phát triển theo hướng không được kiểm soát, đều có tính nguy hiểm tiềm tàng dẫn đến xung đột hai nước. Đầu tiên, đối với chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, tính đến nay, biểu hiện đặc trưng chủ yếu của nó là mang tính phản ứng và tính phòng ngự, khác với chủ nghĩa dân tộc của Đức, Nhật Bản trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Cho dù hoạt động biểu tình dân tộc chủ nghĩa của Trung Quốc lần này có tính bạo lực, cũng là phản ứng đối với hành động quốc hữu hoá đảo Điếu Ngư/Senkaku của Chính phủ Nhật Bản. Nhưng điều này hoàn toàn không có nghĩa, tính chất của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc sẽ không thay đổi. Nếu điều kiện bên ngoài tiếp tục xấu đi, chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc cũng có thể diễn biến thành chủ nghĩa dân tộc của Đức và Nhật Bản trước đây. 
Chủ nghĩa dân tộc của Đức và Nhật Bản tại giai đoạn đầu tiên, cũng là mang tính phản ứng và phòng ngự, nhưng vì sao cuối cùng lại diễn biến thành chủ nghĩa dân tộc mang tính tấn công cao độ? Chủ nghĩa dân tộc mang tính tấn công vừa là kết quả của nhân tố chính trị nội bộ của Đức, Nhật Bản lúc đó thúc đẩy, đồng thời cũng là kết quả của sự tác động lẫn nhau giữa Đức, Nhật Bản và các quốc gia khác trong điều kiện quốc tế lúc đó. Một tính chất đặc biệt của chủ nghĩa dân tộc quốc gia là kết quả tác động lẫn nhau giữa quốc gia này với các quốc gia liên quan khác. Cũng có thể nói, chủ nghĩa dân tộc mang tính phản ứng và phòng ngự của Trung Quốc ngày nay, trong quá trình tác động lẫn nhau với chủ nghĩa dân tộc của các nước khác, cũng có thể trong tương lai, diễn biến thành một chủ nghĩa dân tộc mang tính tấn công. Hiện tại, chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc ngày càng thể hiện tính tự phát của mình. Chủ nghĩa dân tộc đã diễn biến thành một sự tồn tại khách quan tại Trung Quốc. Một mặt, Chính phủ thực sự có thể lợi dụng chủ nghĩa dân tộc, để chứng minh tính hợp lý, hợp pháp của một số chính sách đối nội, đối ngoại của mình. Song tính đến nay, Chính phủ Trung Quốc hết sức tiết chế. Từ trung ương cho đến địa phương, chưa có một nhân vật chính trị nào có thể trắng trợn động viên chủ nghĩa dân tộc, phải dùng đến chủ nghĩa dân tộc để đạt được mục tiêu chính trị đặc biệt. Ngược lại, Chính phủ Trung Quốc luôn quản lý và kiểm soát đối với chủ nghĩa dân tộc. Mặt khác, trong phương diện quản lý và kiểm soát chủ nghĩa dân tộc, Chính phủ Trung Quốc đối mặt với các thách thức ngày càng lớn. Chính phủ Trung Quốc thường gặp phải sự chỉ trích thậm chí là đả kích mạnh mẽ của những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc trong và ngoài nước. Một số quan chức chính phủ, nhất là quan chức trong hệ thống ngoại giao, bị dân chúng coi là “Hán gian” và “kẻ bán nước”. Đồng thời, chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc không những ngày càng thể hiện tình cảm quyết liệt, khiến cho nó có thể sinh ra tính phá hoại to lớn, mà còn làm tăng thêm áp lực đối với Chính phủ. 
Vấn đề cũng hết sức quan trọng là- chúng ta cần có nhận thức đầy đủ về sự thay đổi của tính chất chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản. Vì Nhật Bản là quốc gia dân chủ, trong thời gian dài đến nay, chúng ta không có nhận thức đầy đủ về mối nguy hiểm tiềm tàng đối với chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản. Bất luận là Mỹ, phương Tây hay các quốc gia châu Á khác đều có thái độ “hiểu” đối với chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản, luôn cho rằng Nhật Bản là quốc gia “hoà bình”. Có hai lý do: một là Hiến pháp hoà bình của Nhật Bản, hai là sự thay đổi xã hội của Nhật Bản (như dân chủ, xã hội tiêu dùng, sinh ít con, dân số lão hoá…). Ngay tại Trung Quốc, những người có cách nhìn như vậy cũng không ít. Nhưng tình hình trên thực tế thì như thế nào? 
Nhiều năm trở lại đây, chủ nghĩa dân tộc cực hữu của Nhật Bản luôn phát triển. Đồng thời, số phần tử chính trị ưu tú cũng đang động viên sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc. Giống với rất nhiều quốc gia phát triển khác, dân chủ đại chúng của Nhật Bản ngày càng khó tạo ra một Chính phủ có sức mạnh. Vì nhu cầu chính trị, các nhân vật chính trị luôn mượn cớ dân chủ, dùng phương thức chính trị chủ nghĩa dân tuý, huy động tài nguyên chủ nghĩa dân tộc đang tồn tại trong xã hội. Kết quả, vật hy sinh luôn là quan hệ giữa Nhật Bản và các quốc gia khác, nhất là quan hệ với nước láng giềng Trung Quốc và Hàn Quốc. Hiện tượng này được thể hiện rõ nhất trong thời gian Junichiro Koizumi cầm quyền. 
Xu thế thông thường của Chính phủ Nhật Bản hiện nay là, bất luận là đảng cầm quyền hay đảng đối lập, bất luận là nhân vật chính trị trung ương hay là nhân vật chính trị địa phương, bất luận là Chính phủ hay xã hội, đều có động lực rất lớn phải dùng đến chủ nghĩa dân tộc. Các nhân vật như Junichiro Koizumi (cựu Thủ tướng), Ishihara (Thị trưởng thành phố Tôkyô), Hashimoto (Thị trưởng Osaka), sở dĩ trở thành minh tinh chính trị của Nhật Bản, một trong những nguyên nhân rất quan trọng chính là họ giỏi động viên sức mạnh dân tộc chủ nghĩa. Có thể tưởng tượng, cùng với việc Chính phủ Nhật Bản tiếp tục suy yếu và sự nổi lên của những thành phần ưu tú chính trị dân tộc chủ nghĩa, xu thế phát triển của chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản sẽ như thế nào trong khi sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản lại tất yếu sẽ làm chuyển hướng và kích động chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc. Rất rõ ràng, đúng như mọi người đã cảm nhận thấy, trong quan hệ Trung-Nhật, sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc ngày càng thể hiện năng lượng to lớn. Trong đại xu thế như vậy, quan hệ Trung-Nhật sẽ đi về đâu? Tương lai quan hệ Trung-Nhật sẽ như thế nào? Mọi người có thể liên tưởng đến một số tình hình sau đây có thể trở thành hiện thực. 
Thứ nhất, chính phủ hai nước Trung-Nhật quay trở lại lý trí, đồng thời mỗi bên tự có khả năng quản lý hữu hiệu chủ nghĩa dân tộc nước mình. Trong tình hình này, mặc dù chủ nghĩa dân tộc cực hữu của hai nước đôi khi sẽ bùng phát khiến hai nước thường xuyên tranh cãi, nhưng không đến mức xảy ra xung đột và chiến tranh. Về phương diện này, không cần nghi ngờ năng lực của Chính phủ Trung Quốc, nhưng Chính phủ Nhật Bản sẽ phải đối mặt với hoàn cảnh khó khăn rất lớn. Hiện nay, trong kết cấu dân chủ đại chúng, Nhật Bản rất khó xuất hiện một Chính phủ có sức mạnh và hiệu quả. Không chỉ có vậy, các phần tử ưu tú chính trị của Nhật Bản vì quyền lực, không chỉ không kiềm chế chủ nghĩa dân tộc, ngược lại phải dùng đến chủ nghĩa dân tộc. 
Thứ hai, trạng thái lý tưởng nhất là Chính phủ hai nước có thể có quyền “tự chủ” tương đối (Chính phủ không chịu ảnh hưởng quá mức bởi chủ nghĩa dân tộc cực hữu), đạt được nhận thức chung “gác tranh chấp, cùng khai thác”, đồng thời có thể chuyển hoá nhận thức này thành chính sách cụ thể, từ đó thực hiện biến Đông Hải (biển Hoa Đông) thành vùng biển “hữu nghị” như cựu Thủ tướng Nhật Bản Hatoyama từng nói. Nhưng xét trong bối cảnh hiện nay, tình hình này là ý tưởng xa vời không thể đạt được. Đứng trước chủ nghĩa dân tộc của hai nước đều mạnh mẽ, tính “tự chủ” của Chính phủ, nói thì dễ làm thì khó.   
Thứ ba, quan hệ Trung-Nhật tồn tại bên cạnh chủ nghĩa dân tộc tiếp tục lớn mạnh và không ngừng xấu đi. Nhìn từ lịch sử, lôgíc của chủ nghĩa dân tộc là khi sức mạnh trỗi dậy và lớn mạnh đến một trình độ nhất định, tất yếu có lực lượng chính trị thông qua sử dụng chủ nghĩa dân tộc để nắm chính quyền đất nước. Nếu như vậy, có nghĩa hai nước đều có thể bị thế lực cực đoan gây sức ép, cuối cùng khiến xung đột và chiến tranh trở nên không thể tránh khỏi. Song, chiến tranh cũng không giải quyết được vấn đề. Chiến tranh có thể giải quyết, nhiều nhất cũng chỉ là vấn đề ai chiếm lĩnh thực tế đảo Điếu Ngư/Senkaku. Nhưng cho dù như vậy, bên nào thua trận cũng sẽ không thừa nhận bên kia. Như vậy, chiến tranh chỉ có thể để lại hận thù cho thế hệ tiếp theo mà thôi.  
Tình hình thứ tư chính là hai nước Trung-Nhật quay trở lại trạng thái truyền thống “cô lập” tương đối. Hai nước Trung-Nhật sống chung với nhau hàng nghìn năm, nhưng về mặt chiến lược đa số thời gian hai nước đều ở trong trạng thái “cô lập” tương đối với nhau. Trạng thái cô lập tương đối này, hoàn toàn không gây trở ngại cho giao lưu trên nhiều phương diện như thương mại, văn hoá. Nhưng khi hai nước có ý muốn tiến hành trao đổi trên bình diện chiến lược, hoặc nói quan hệ chính trị hai nước quá gần, hai bên sẽ không có cuộc sống “hạnh phúc”. Mặc dù hai nước đều biết khái niệm “một núi không thể có hai hổ”, nhưng hai nước lại có thể nằm ở hai “đầu núi”, đều có đủ năng lực bảo vệ mình. Để tránh xung đột và chiến tranh quy mô lớn, trở về trạng thái truyền thống “cô lập” tương đối này cũng là một sự lựa chọn lý trí. Giống như trong quá khứ, trong trạng thái “cô lập tương đối”, cũng có thể phát triển giao lưu nhân dân mang tính thực chất, nhất là về lĩnh vực văn hoá và thương mại.
Trịnh Vĩnh Niên-Viện trưởng Viện Đông Á, Trường đại học Quốc lập Xinhgapo, đồng chủ biên “Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc quốc tế”
Văn Cường (gt)