Thứ Năm, 25 tháng 10, 2012

17. Sự thay đổi địa chính trị châu Á-Thái Bình Dương và lựa chọn chiến lược của Trung Quốc

Email In PDF.
Đặc điểm địa lý, quy mô kinh tế và tương lai phát triển không hạn chế là những nhân tố quyết định để khu vực châu Á-Thái Bình Dương thay thế khu vực châu Âu-Đại Tây Dương thành trọng tâm địa chính trị toàn cầu. Trong bối cảnh mới này, bước đi chiến lược của Trung Quốc sẽ như thế nào?

Môi trường chiến lược địa chính trị và sự lựa chọn chiến lược địa chính trị của Trung Quốc là chủ đề chiến lược lớn thường được nói tới và luôn luôn mới. Chiến lược địa chính trị của Trung Quốc trong tương lai chắc chắn phải lấy châu Á-Thái Bình Dương làm địa bàn trọng điểm cơ bản do Trung Quốc có vị trí địa lý đặc thù nằm ở rìa phía Đông đại lục Âu - Á và trung tâm châu Á-Thái Bình Dương, có nguồn gốc “chế độ thiên tử - chư hầu”, truyền thống chiến lược đặc thù lấy xung quanh làm trọng điểm, có nhu cầu chiến lược trỗi dậy hòa bình và thực tế châu Á-Thái Bình Dương đang trở thành trung tâm địa chính trị của thế giới. Do đó, nghiên cứu môi trường và lựa chọn địa chiến lược của Trung Quốc không thể không lấy sự thay đổi cục diện và dạng thức địa chính trị khu vực châu Á-Thái Bình Dương và sự ứng phó chiến lược làm điểm khởi đầu. 
Hai dạng thức thay đổi cục diện địa chính trị châu Á-Thái Bình Dương 
Người ta thường cho rằng cục diện chỉ một cơ cấu và trạng thái quan hệ quốc tế tương đối ổn định do một nhóm quốc gia và nước lớn có vai trò trụ cột chiến lược tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Nội hàm cơ bản của cục diện là so sánh lực lượng giữa nước lớn và nhóm nước lớn, hoặc là số lượng và chủng loại của các chủ thể hành động và trạng thái phân chia quyền lực của họ. Cục diện địa chính trị cũng như vậy. Do đó, chúng ta muốn nghiên cứu cục diện địa chính trị khu vực châu Á-Thái Bình Dương và triển vọng diễn biến của cục diện này sau 5 - 10 năm tới thì không thể không xem xét số lượng, loại hình và tình hình phân chia quyền lực của nước lớn, tổ chức các nước lớn hoặc chủ thể hành động quốc tế chủ yếu. Trước hết, người viết muốn đề cập đến phạm vi các quốc gia khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Do vị thế địa chính trị toàn cầu của khu vực này không ngừng tăng lên, nên các nước như Mỹ và Nga không ngừng “biến hóa” để trở thành quốc gia thành viên. Ấn Độ cũng có ý đồ thoát khỏi Ấn Độ Dương và tiểu khu vực Nam Á để tích cực “hướng Đông”, trở thành một quốc gia thuộc khu vực này. Về lâu dài, các nước Trung Á không giáp biển, địa lý khá khép kín cũng tích cực tranh thủ trở thành quốc gia châu Á-Thái Bình Dương. Tóm lại, phạm vi châu Á-Thái Bình Dương sẽ không ngừng tăng thêm các thành viên trên nền tảng “ASEAN+N” hoặc của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), đồng thời có thể kết nạp các nước Nam Á, Trung Á và tất cả các quốc gia Thái Bình Dương. 
Thứ hai, một châu Á-Thái Bình Dương không ngừng mở rộng, bao trùm các nước quanh Thái Bình Dương và các nước chủ yếu của châu Á sẽ có địa vị thế nào trong phân chia quyền lực địa chính trị toàn cầu? Triển vọng phát triển sẽ ra sao? Về mặt địa lý tự nhiên, khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ bao gồm Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Trung Á, Nam Á, nhóm các quần đảo ở Thái Bình Dương và vành đai các nước trong khu vực Nam Bắc Mỹ. Số lượng các quốc gia trong khu vực này gấp đôi Liên minh châu Âu (EU), không thể dưới 50 nước. Tổng dân số lên tới gần 4 tỷ người gấp 8-10 lần EU, chiếm hơn một nửa dân số thế giới. Hiện nay, khu vực này bao gồm những quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới (Nga, Trung Quốc và Mỹ), 4 trong số những quốc gia đông dân nhất thế giới (Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ và Inđônêxia), 3 cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới (Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản). Về chính trị, Đại châu Á-Thái Bình Dương tập trung 3 trong 5 ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (Trung Quốc, Mỹ và Nga), 7/10 cường quốc quân sự hàng đầu thế giới (Trung Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc). Về quy mô kinh tế, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của 21 nước thành viên Diễn đàn hợp tác châu Á-Thái Bình Dương (APEC) chiếm 54% tổng GDP thế giới, tổng lượng hàng hóa và dịch vụ thương mại chiếm tới 44% thế giới. Cuối cùng, về tương lai phát triển, Đại châu Á-Thái Bình Dương có số lao động và nhu cầu thị trường cực lớn với những quốc gia là thị trường mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước ASEAN; có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú với Trung Á, khu vực viễn đông của Nga, Đông Nam Á, Ôxtrâylia, Canađa; có công nghệ cao và kinh nghiệm quản lý của các nước như Mỹ, Nhật Bản. Nếu những nền kinh tế này có cơ hội tập hợp lại với nhau, không gian tăng trưởng kinh tế châu Á-Thái Bình Dương có thể tiếp tục mở rộng. 
Thứ ba, từ khi bước vào thế kỷ XXI đến nay, châu Á-Thái Bình Dương luôn là khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Theo thống kê, từ năm 2007 – 2012, mặc dù tăng trưởng kinh tế toàn cầu đi xuống, tổng lượng kinh tế của các quốc gia mới nổi ở khu vực này lại tăng thêm gần 50%, tỷ trọng trong nền kinh tế thế giới cũng gia tăng. Trong 5 – 10 năm tới, kinh tế những quốc gia mới nổi tại châu Á-Thái Bình Dương vẫn có khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng như vậy. Xem xét đến nền kinh tế Bắc Mỹ tăng trưởng cao hơn châu Âu và tiến trình khu vực hóa châu Á-Thái Bình Dương không ngừng tiến triển, nếu tính cả Bắc Mỹ tổng lượng kinh tế Đại châu Á-Thái Bình Dương sẽ chiếm 2/3 tỷ trọng kinh tế thế giới. 
Đặc điểm địa lý vốn có, quy mô kinh tế và tương lai phát triển không hạn chế là những nhân tố quyết định để khu vực châu Á-Thái Bình Dương thay thế khu vực châu Âu – Đại Tây Dương, vươn lên trở thành trọng tâm địa chính trị toàn cầu. Tương lai thế giới là hòa bình hay chiến tranh, ổn định phồn vinh hay rối ren nghèo đói ngày càng quyết định bởi diễn biến cục diện địa chính trị của khu vực châu Á-Thái Bình Dương và bàn cờ sức mạnh địa chính trị tại khu vực này. 
Như vậy, cục diện địa chính trị Đại châu Á-Thái Bình Dương sẽ thay đổi như thế nào trong 5 – 10 năm tới? Nói cách khác, các nước lớn chủ yếu hay sức mạnh địa chính trị chủ yếu sẽ phân hóa và xếp sắp lại ra sao? Đáp án rất khó đoán định, từ đó cũng đặt ra cho giới nghiên cứu chiến lược câu hỏi khó nhất và điều kiện nghiên cứu lớn nhất. 
Về lý luận, cuộc đấu địa chính trị Đại châu Á-Thái Bình Dương có hai triển vọng chiến lược hoặc phương thức chiến lược. Thứ nhất là phương thức có thắng có thua, có thể gọi là “phương thức xung đột”. Do bối cảnh địa chính trị ở châu Á-Thái Bình Dương cực kỳ phức tạp, khi mổ xẻ các yếu tố quyết định phương thức cuộc đấu địa chính trị khu vực châu Á-Thái Bình Dương, người ta dễ đưa ra kết luận khá bi quan: Triển vọng địa chính trị đi theo xu hướng “phương thức có thắng có thua” hoặc “phương thức xung đột” vẫn tồn tại thực sự nghiêm trọng. Về ý thức hệ, châu Á-Thái Bình Dương tập trung những quốc gia xã hội chủ nghĩa tập trung quyền lực như Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam; có những quốc gia tư bản “tam quyền phân lập” như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia; có quốc gia ý thức hệ hỗn hợp như Ấn Độ; lại có những nước đang trong quá trình chuyển đổi như Nga và các quốc gia Trung Á. Về giai đoạn phát triển, châu Á-Thái Bình Dương có “những quốc gia hậu hiện đại” có nền kinh tế rất phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Canađa, Ôxtrâylia, cũng có những quốc gia mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), còn có những “quốc gia tiền hiện đại” như Mianma, Ápganixtan, Pakixtan. Về bối cảnh văn hóa tôn giáo, Mỹ, Canađa, Ôxtrâylia, Philíppin theo Kitô giáo; Inđônêxia, Malaixia, Pakixtan, Ápganixtan theo Hồi giáo, Mianma, Nêpan, Thái Lan theo Phật giáo, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên cơ bản là nước vô thần. Đồng thời, các dân tộc, tộc người, tập quán, ngôn ngữ giữa các nước có sự khác biệt lớn. Về cơ cấu sức mạnh, châu Á-Thái Bình Dương có các lực lượng mạnh về quyền lực trên biển như Mỹ, Nhật Bản, Ôxtrâylia, cũng có những nước lớn mạnh về quyền lực trên đất liền như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ. Ngoài ra, giữa các nước tại khu vực này còn tồn tại mối thù hận lịch sử và mâu thuẫn thực tại rất đa dạng. Chẳng hạn như mối quan hệ giữa Nhật Bản với Nga, Nhật Bản với Bắc Triều Tiên, Ấn Độ với Pakixtan, Campuchia với Thái Lan và những quốc gia lên tiếng về chủ quyền Biển Đông như Việt Nam, Philíppin, Malaixia, Brunây, Inđônêxia đều tồn tại tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, vùng biển. Bán đảo Triều Tiên vẫn ở trạng thái bị chia cắt. Đại lục Trung Quốc và Đài Loan vẫn chưa thống nhất. Món nợ lịch sử do Nhật Bản phát động chiến tranh xâm lược tàn phá các quốc gia Đông Á từ thời cận đại đến nay vẫn chưa hoàn toàn được tính sổ. Điều quan trọng hơn là quan hệ giữa hai siêu cường ở châu Á-Thái Bình Dương là Trung Quốc và Mỹ tồn tại những nhân tố khó lường. Cạnh tranh quân sự quốc tế mà châu Âu là địa bàn chủ yếu có khả năng chuyển sang chạy đua vũ trang tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương là chủ yếu. 
Nhân tố xung đột trong cơ cấu địa chính trị của khu vực này tuy có nhiều nhưng cốt lõi là nhân tố xung đột trong quan hệ địa chiến lược Trung - Mỹ, nhân tố khác đều xoay quanh nó. Các nhân tố phụ thuộc khác hoặc góp phần giảm bớt, gia tăng hoặc kích hoạt. Một mặt, tổng lượng kinh tế thương mại của Trung Quốc hiện nay đứng thứ hai châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời đứng thứ hai thế giới. 5-10 năm tới, kinh tế Trung Quốc vẫn có khả năng giữ mức tăng trưởng cao trên dưới 8%. Năm 2012, Trung Quốc có hy vọng vượt qua Mỹ trở thành cường quốc thương mại đứng đầu châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời cũng đứng đầu thế giới. Khi đó sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng của Trung Quốc làm gia tăng sự chênh lệch so với các lực lượng chủ yếu ở châu Á-Thái Bình Dương như Nhật Bản, Ấn Độ, Nga, Hàn Quốc và ASEAN. Mặt khác, Mỹ hiện nay là nước có nền kinh tế lớn nhất châu Á-Thái Bình Dương và thế giới, cho dù địa vị kinh tế của họ bị thay thế thì họ vẫn sẽ giữ vị trí thứ hai trong khu vực này và trên thế giới trong một thời gian dài, địa vị nước lớn quân sự số một của họ thậm chí còn được giữ vững trong thời gian dài hơn. Do đó, cho dù địa vị kinh tế thương mại của họ giảm xuống hay không thì Mỹ cũng là nước có ảnh hưởng lớn tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trên thực tế, khu vực này sở dĩ nhanh chóng trở thành trọng tâm địa chính trị thế giới, không những trên cơ sở sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc kéo theo hàng loạt các quốc gia mới nổi vươn lên tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, mà còn trên cơ sở Mỹ nhanh chóng chuyển từ nước thuộc Đại Tây Dương truyền thống sang quốc gia Thái Bình Dương để phù hợp với sự trỗi dậy tại châu Á-Thái Bình Dương. Giữa Trung Quốc và Mỹ, ai là anh cả, ai là anh hai, hai nước chia rẽ hay hợp tác đều sẽ gây ảnh hưởng cơ bản đối với sự xếp sắp lại địa chính trị và triển vọng chiến lược của châu Á-Thái Bình Dương. 
Trung Quốc và Mỹ tồn tại đối lập về chế độ chính trị và ý thức hệ, bối cảnh và hệ thống giá trị văn hóa tôn giáo cũng hoàn toàn khác nhau, giữa hai nước còn có lịch sử đối đầu Chiến tranh Lạnh lâu dài, quyết liệt. Hai nước hiện nay còn va chạm, xung đột trên một số vấn đề lớn như kinh tế, sở hữu trí tuệ, nhân quyền, Đài Loan, Tây Tạng, Biển Đông, tiến trình liên kết khu vực châu Á-Thái Bình Dương, biến đổi khí hậu toàn cầu, phương thức chống khủng bố.... Vấn đề quan trọng nhất: Trung Quốc là nước lớn mới trỗi dậy, Mỹ là nước lớn hiện tại. Sự trỗi dậy của Trung Quốc tại châu Á-Thái Bình Dương chắc chắn sẽ phải “chèn lấn” sang “phần lợi ích” bất hợp lý, quá bành trướng, tích tụ trong một thời gian dài của Mỹ tại khu vực này. Do đó, căn cứ vào tư duy lôgích của “phái bảo thủ mới” và những người theo chủ nghĩa thực tế của Mỹ, họ đang là nước lớn tại khu vực này, ngược lại, Trung Quốc lại là nước đế quốc. Theo chủ trương của những người này, Mỹ phải đảm bảo “quyền lực” bành trướng quá mức của họ tại châu Á-Thái Bình Dương, phải cố gắng ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Hơn nữa, ngăn chặn một cách mạnh mẽ sự trỗi dậy của Trung Quốc thì không thể không lựa chọn chính sách kiềm chế thậm chí gây chiến với nước này. Một khi chủ trương của họ trở thành cách giải thích chủ lưu trong giới hoạch định chính sách Mỹ và chuyển hóa thành chính sách, cuộc đấu địa chính trị giữa hai nước tại châu Á-Thái Bình Dương có thể diễn biến quanh “phương thức có thắng có thua”. Trong tình hình đó, các nước trong khu vực này chỉ có thể lựa chọn đứng về phía Trung Quốc hoặc Mỹ, xung đột địa chính trị châu Á-Thái Bình Dương cuối cùng có thể chuyển biến thành sự đối kháng tập thể. Những đối kháng này không những mang đặc điểm các nước lớn tranh giành địa vị lãnh đạo trong khu vực mà còn mang tính đối đầu trên biển và trên đất liền, đối đầu về ý thức hệ, quan niệm giá trị văn hóa và chế độ quốc tế. Mức độ quyết liệt và quy mô của sự đối địch này không hề thua kém sự đối đầu giữa Mỹ và Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. 
Phương thức thứ hai trên bàn cờ địa chính trị tương lai là phương thức hợp tác hòa bình. Cơ cấu địa chính trị châu Á-Thái Bình Dương tuy tồn tại nhiều nhân tố xung đột, nhưng cũng có nhiều nhân tố hợp tác. Trước hết, về mặt kinh tế thương mại và đầu tư, các nước châu Á-Thái Bình Dương đã hình thành mối quan hệ lợi thiệt cùng nhau. Khoảng 60% tổng lượng thương mại của Trung Quốc bắt nguồn từ quan hệ với các nước châu Á-Thái Bình Dương cũ. Nếu tính thêm cả Mỹ, Canađa, Ôxtrâylia thì tổng lượng thương mại với các nước trong khu vực này đã chiếm hơn ¾ kim ngạch thương mại của Trung Quốc. Tổng lượng thương mại giữa Mỹ và các nước châu Á-Thái Bình Dương cũng lớn hơn so với bất kỳ khu vực nào trên thế giới trong đó có EU. Không những thế, có mối quan hệ chặt chẽ giữa việc Trung Quốc xuất siêu thương mại sang Mỹ với Mỹ xuất siêu thương mại sang các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc nhập siêu từ các quốc gia trong khu vực này. Điều này đã phản ánh lợi ích và sự bổ sung lẫn nhau giữa các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương. Thứ hai, về lĩnh vực chính trị an ninh, giữa các quốc gia trong khu vực này tuy tồn tại nhiều nhân tố xung đột, nhưng đều tìm kiếm phương thức hòa bình, hợp tác, hiệp thương chứ không sử dụng phương thức chiến tranh để giải quyết bất đồng, xung đột. Đồng thời, việc thiết lập nhiều tổ chức, cơ chế hợp tác khu vực ở cấp độ cao như APEC, “ASEAN+N” và ở phạm vi nhỏ hơn như Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, Cơ chế đàm phán sáu bên, Tổ chức tiểu vùng sông Mê Công, diễn đàn tại các khu vực đã chuẩn bị điều kiện để tiếp tục hợp tác sâu sắc hơn. Về khái niệm, điều quan trọng hơn là đa số các nước châu Á-Thái Bình Dương theo đuổi hòa bình phồn vinh và hợp tác. Nhật Bản đã từng phát động chiến tranh ở Thái Bình Dương cũng không có ý dùng phương thức chiến tranh quy mô lớn để thực hiện nhu cầu lợi ích của mình. Do đó, châu Á-Thái Bình Dương không những có khả năng thực hiện phương thức thứ hai, mà khả năng thực hiện phương thức này lớn hơn phương thức thứ nhất. 
Lựa chọn địa chiến lược của Trung Quốc tại châu Á-Thái Bình Dương 
Khi nghiên cứu lựa chọn chiến lược của Trung Quốc tại châu Á-Thái Bình Dương, trước hết, người viết phải làm rõ nhu cầu địa chiến lược của Trung Quốc ở khu vực này. Trong vòng từ 5 - 10 năm tới, yêu cầu hoặc mục tiêu địa chiến lược của Trung Quốc tại châu Á - Thái Bình Dương đơn giản là: tranh thủ và tích cực xây dựng một môi trường chiến lược hòa bình tại châu Á-Thái Bình Dương, bao gồm môi trường kinh tế thương mại và an ninh tích cực, cùng có lợi nhằm đảm bảo kinh tế Trung Quốc có thể tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khoảng 8% một năm, từ đó đảm bảo cho Trung Quốc tiếp tục tiến bước vững chắc trên con đường trỗi dậy hòa bình. Để làm được điều đó, địa chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Trung Quốc trong 5 – 10 năm tới phải chủ động lựa chọn phương thức hợp tác hòa bình, tránh phương thức “có thắng có thua”, đồng thời tích cực xây dựng tư thế nước lớn, khắc phục các nhân tố tiêu cực trong quan hệ địa chính trị châu Á-Thái Bình Dương, dẫn dắt đông đảo các nước thuộc khu vực sử dụng phương thức hòa bình hợp tác để giải quyết bất đồng về địa chính trị, thúc đẩy cuộc cạnh tranh địa chính trị ở châu Á-Thái Bình Dương diễn biến theo phương thức hợp tác hòa bình. 
Trước hết, điều chỉnh quan niệm, định hướng rõ tư duy, xây dựng quan niệm chiến lược lớn kiến tạo châu Á-Thái Bình Dương thành “vành đai chỗ dựa chiến lược”, đồng thời lấy quan niệm đại chiến lược hoàn toàn mới này để chỉ đạo chiến lược địa chính trị và chính sách cụ thể đối với khu vực này, thoát ra khỏi “tính toán gây hại” giản đơn theo kiểu con buôn. Nhìn suốt lịch sử chiến lược từ xưa đến nay, bất cứ nước lớn nào mới trỗi dậy cũng đều tồn tại vấn đề làm thế nào để có vành đai chỗ dựa. Về mặt này, Mỹ đã có những tiền lệ khá thành công. Từ một nước lớn trên thế giới trở thành một trong hai siêu cường, sau đó là siêu cường duy nhất trên thế giới, duy trì kỷ lục luôn giành thắng lợi trong hai cuộc đại chiến thế giới và Chiến tranh Lạnh, ngoài nhân tố địa lý tự nhiên của họ, một nguyên nhân quan trọng là họ có “sân sau” khá ổn định. Sự ổn định của khu vực Nam Mỹ và Bắc Mỹ đã trở thành vành đai chỗ dựa chiến lược đáng tin cậy. Khi xây dựng sân sau tại Nam và Bắc Mỹ, nước Mỹ chưa bao giờ ham lợi nhỏ mà tìm cách đứng vững lâu dài tại khu vực này. Chẳng hạn, Mỹ rất thoáng trong vấn đề biên giới với Canađa và Mêhicô. Mỹ cũng cung cấp nhiều “sản phẩm công cộng” cho các quốc gia ở khu vực này. Mỹ không thực hiện thủ đoạn mạnh bắt nạt yếu, sử dụng vũ lực với những quốc gia láng giềng. Ví dụ như Chính phủ Cuba xã hội chủ nghĩa vẫn an toàn trong mấy chục năm nay dù ở sát ngay nước Mỹ, hoặc Tổng thống Vênêduêla Hugo Chavez luôn chửi bới Mỹ, nhưng Mỹ cũng chưa hề gây chiến tranh. Trái lại, Liên Xô lại có cách hành xử ngược với Mỹ. Năm 1956, Liên Xô đem quân sang Hunggari, gây sức ép với Ba Lan, chiếm lĩnh Praha năm 1968, xâm lược Ápganixtan vào năm 1979, lên mặt “anh cả” với Trung Quốc. Kết quả là vành đai chỗ dựa chiến lược của họ bị sụp đổ, trở thành mồ chôn Liên Xô trước đây. Trung Quốc phải tiếp thu kinh nghiệm và bài học xây dựng vành đai chỗ dựa chiến lược của các nước lớn trong lịch sử. Trung Quốc phải xây dựng vành đai ở châu Á-Thái Bình Dương theo nguyên tắc hợp tác hòa bình, cố gắng giải quyết một cách hòa bình bất đồng với các quốc gia xung quanh, đặc biệt là những nước láng giềng gần, xây dựng quan hệ hợp tác tích cực, toàn diện, xóa bỏ những nghi kỵ, phấn đấu để không có nước nào là kẻ thù của Trung Quốc. Do đó, khi xử lý quan hệ với các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc cần tiếp tục duy trì nguyên tắc cùng có lợi trong một thời gian dài về mặt quan hệ thương mại; hai là phải gánh vác trách nhiệm của nước lớn châu Á-Thái Bình Dương, cung cấp “sản phẩm công cộng” cho các nước trong khu vực theo khả năng của mình. Khi các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương gặp khó khăn, Trung Quốc phải phát huy vai trò nước lớn đang trỗi dậy. Ba là khi xử lý bất đồng lớn với các quốc gia xung quanh, Trung Quốc phải giữ vững truyền thống “có lý, có lợi, có bài bản”, tính kế lâu dài, tránh bị quyến rũ bởi cái lợi trước mắt. Bốn là phải biết kiềm chế trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ lãnh hải, rất dễ kích động tình cảm dân tộc, kiên trì phương châm những việc có thể giải quyết thì giải quyết, không giải quyết hợp lý được thì “gác lại”, không cam chịu trước kẻ mạnh, cũng không lấy mạnh nạt yếu. Phải làm cho dân chúng thấy rõ, chiến lược tốt không thể chỉ biết tiến không biết lùi, ngoại giao giỏi không thể chỉ biết thắng không biết thua. 
Thứ hai, Trung Quốc tích cực thúc đẩy tiến trình liên kết châu Á-Thái Bình Dương, gánh vác trách nhiệm tương ứng, đưa ra chủ trương của mình. Một là về vấn đề “Đại châu Á-Thái Bình Dương” hay “châu Á-Thái Bình Dương cũ”, phải giữ vững quan điểm Đại châu Á-Thái Bình Dương, duy trì ý tưởng mở cửa, thúc đẩy xây dựng cơ chế khu vực Đại châu Á - Thái Bình Dương dung nạp cả Mỹ, Nga, Ấn Độ, Ôxtrâylia và các nước Trung Á, trước giả sau thật, đồng thời nỗ lực làm cho khu vực này trở thành hình thức “châu Á-Thái Bình Dương” hài hòa. Hai là trong cơ chế “ASEAN+N”, tiếp tục ủng hộ địa vị chủ đạo của ASEAN. Tuy nhiên, trong cơ chế khu vực Đại châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc phải đưa ra ý tưởng Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga làm thế nào để phát huy vai trò chỉ huy của nước lớn. Ba là xử lý tốt mối quan hệ giữa tổ chức khu vực nhỏ với cơ chế khu vực Đại châu Á-Thái Bình Dương. Phải tiếp tục củng cố Tổ chức hợp tác Thượng Hải và cơ chế hợp tác Trung – Nhật – Hàn, để các cơ chế này trở thành sự bổ sung của tổ chức khu vực Đại châu Á-Thái Bình Dương. Nếu có thể thúc đẩy cơ chế “ASEAN+N” trở thành cơ sở cho khuôn khổ mới của Tổ chức khu vực Đại châu Á-Thái Bình Dương là tốt nhất, còn nếu không cũng làm cho cơ chế này trở thành trụ cột chủ yếu của Tổ chức khu vực Đại châu Á-Thái Bình Dương. Nếu được chính quyền Obama đã mời Trung Quốc tham dự Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Trung Quốc có thể xem xét tham gia đàm phán, nhưng phải đề phòng Mỹ dùng TPP để nhóm thêm lò lửa, lũng đoạn quyền chủ đạo liên kết châu Á-Thái Bình Dương, thậm chí làm đổ vỡ tiến trình liên kết châu Á-Thái Bình Dương. 
Thứ ba, với tiền đề giữ vững nguyên tắc vốn có như không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, Trung Quốc có thể xem xét tham gia và giúp đỡ hiệp thương giải quyết hòa bình những xung đột và bất đồng giữa các các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt là giữa các nước láng giềng xung quanh, được coi là nội dung quan trọng để quốc gia này phát huy vai trò nước lớn và cung cấp “sản phẩm công cộng” tại châu Á-Thái Bình Dương. Nước Trung Hoa mới sau khi ra đời, trong một thời gian khá dài, luôn giữ nguyên tắc “không can thiệp”. Đối với bất đồng, xung đột giữa các quốc gia xung quanh, Trung Quốc nói chung nên “đứng ngoài nhìn vào”. “Không can thiệp” đã trở thành một bộ phận của văn hóa chiến lược Trung Quốc. Đương nhiên, Trung Quốc đã trở thành nước lớn chủ yếu ở châu Á-Thái Bình Dương, sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế ngày càng tăng, nhiều quốc gia ở châu Á-Thái Bình Dương mong muốn Trung Quốc phát huy vai trò lớn hơn, cung cấp “sản phẩm công cộng” nhiều hơn, bản thân Trung Quốc cũng cần xây dựng một “châu Á-Thái Bình Dương hài hòa”. Do đó, Trung Quốc cần làm tốt hơn công tác chuẩn bị tham gia, giúp đỡ tháo gỡ bất đồng và khó khăn giữa các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương, đóng góp vào việc giải quyết tình trạng thiếu tin cậy lẫn nhau giữa các quốc gia trong khu vực này. Chẳng hạn, hiện nay Trung Quốc đã tích cực tham gia và lãnh đạo Hội đàm 6 bên giải quyết vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Sau này, nếu xuất hiện các vấn đề như xung đột giữa Ấn Độ với Pakixtan, Thái Lan với Campuchia, trong tình huống được mời, Trung Quốc sẽ xem xét phát huy vai trò hòa giải. Tuy nhiên, Trung Quốc phải tránh chủ động can dự, đặc biệt là tránh ủng hộ bên này, gây sức ép với bên kia. 
Thứ tư, Trung Quốc tăng cường hợp tác với các nước lớn chủ yếu tại châu Á-Thái Bình Dương như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ..., cố gắng tránh hình thành quan hệ đối đầu với bất kỳ một nước lớn nào trong khu vực này, đặc biệt là với Mỹ. Giữa Trung Quốc và Mỹ tuy tồn tại nhiều nhân tố xung đột lợi ích địa chiến lược, nhưng nhu cầu hợp tác địa chiến lược song phương còn nhiều hơn. Ví dụ, kinh tế giữa hai nước đã hình thành quan hệ phụ thuộc chặt chẽ với nhau, Mỹ là đối tác thương mại lớn nhất, nước xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc. Trung Quốc lại là nước nhập khẩu lớn nhất và nước xuất khẩu lớn thứ ba của Mỹ. Trong 5 – 10 năm tới, Trung Quốc và Mỹ sẽ là đối tác thương mại lớn nhất của nhau. Trung Quốc vẫn là chủ nợ lớn nhất của Mỹ ở nước ngoài. Trong vấn đề thúc đẩy ổn định, phồn vinh châu Á-Thái Bình Dương và chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, chống khủng bố tại khu vực này, hai nước đều có nhu cầu phối hợp với nhau. Trong nước Mỹ tuy có một số nhóm lợi ích, phương tiện thông tin đại chúng, dư luận và các nghị sĩ quốc hội có thế lực muốn xử lý quan hệ Trung – Mỹ theo “phương thức xung đột”, nhưng nhìn chung, các nhà hoạch định chính sách Mỹ chủ trương hợp tác, chính quyền Obama và các cơ quan của chính phủ ngày càng có xu hướng tích cực thúc đẩy hợp tác Trung – Mỹ. Chính quyền Đảng Dân chủ gần đây một mặt đón tiếp Phó Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình một cách long trọng, mặt khác còn tổ chức lễ kỷ niệm chuyến thăm mở cửa quan hệ Trung – Mỹ cách đây 40 năm của Tổng thống Mỹ Nixon, thậm chí không hề quan tâm Nixon là người thuộc Đảng Cộng hòa. Những hành động trên chứng tỏ chính phủ Mỹ thực sự coi trọng quan hệ Trung – Mỹ. Trong lễ kỷ niệm 40 năm Nixon thăm Trung Quốc do các quan chức Mỹ tổ chức vào ngày 7/3/2012, Ngoại trưởng Mỹ Hillary có một bài phát biểu rất dài, trong đó đề cập đến “Trung Quốc và Mỹ bắt tay nhau tuy không thể giải quyết tất cả vấn đề của thế giới, nhưng nếu hai nước không tham gia thì không thể giải quyết được bất kỳ vấn đề nào trên thế giới”. Bà còn hy vọng Trung Quốc trở thành “bên liên quan có lợi ích toàn diện” của Mỹ, tích cực đóng vai trò “người nắm trò chơi chủ yếu trên thế giới”. Trên cơ sở đó, trong 5 – 10 năm tới, quan hệ Trung – Mỹ đi theo con đường hợp tác là tất yếu và cũng khả thi. Nếu quan hệ Trung – Mỹ thực sự phát triển theo “phương thức hợp tác”, thì cạnh tranh địa chính trị châu Á-Thái Bình Dương cũng diễn biến theo phương thức này chứ không phải là ngược lại. 
Cùng với thúc đẩy “phương thức hợp tác” cạnh tranh địa chiến lược ở châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc vẫn không thể không chú ý tăng cường sức mạnh chiến lược một cách thích hợp. Thứ nhất, khu vực Đại châu Á-Thái Bình Dương vừa bao gồm cả trên biển và trên đất liền, ngang dọc hàng vạn hải lý, diện tích rộng lớn. Nếu Trung Quốc muốn phát huy vai trò nước lớn mang tính xây dựng tại châu Á-Thái Bình Dương, tích cực nâng cao “sản phẩm công cộng”, thì phải nỗ lực xây dựng năng lực về mặt này. Chẳng hạn, muốn tham gia hoạt động hỗ trợ cứu nạn như động đất, sóng thần ở châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc phải có khả năng đi xa, mà về lĩnh vực này thì còn kém nhiều so với Mỹ và Nga, không tương xứng với tư cách nước lớn châu Á-Thái Bình Dương. Thứ hai, tuy Trung Quốc ra sức thúc đẩy phương thức hợp tác trong cạnh tranh địa chính trị khu vực và có khả năng đem lại hiệu ứng tích cực, nhưng hòa bình hợp tác không phải hễ muốn là được. Châu Á-Thái Bình Dương vốn có mâu thuẫn quốc tế cực kỳ phức tạp, vẫn thịnh hành chủ nghĩa thực dụng và chủ quyền lãnh thổ trên hết, không thể bảo đảm tất cả các quốc gia đều tích cực hưởng ứng giải quyết bất đồng địa chính trị theo phương thức hòa bình hợp tác. Câu danh ngôn của người Rôma cổ đại “để có hòa bình, phải chuẩn bị chiến tranh” vẫn mang giá trị chiến lược. Để bảo đảm phương thức hợp tác hòa bình được đông đảo các nước ủng hộ, Trung Quốc nhất định phải tăng cường sức mạnh quân sự một cách thích đáng. Thứ ba, Trung Quốc là nước lớn châu Á-Thái Bình Dương, mặc dù làn sóng chạy đua vũ trang tại khu vực này chủ yếu nhằm vào đối tượng Trung Quốc, nhưng sức mạnh quân sự của Trung Quốc chỉ chiếm ưu thế so với các quốc gia vừa và nhỏ trong khu vực. Do đó, việc tăng cường sức mạnh quân sự một cách thích đáng hiển nhiên không phải để đáp trả chạy đua vũ trang với các quốc gia vừa và nhỏ. Tuy Mỹ là đối tượng hợp tác chủ yếu của Trung Quốc tại châu Á-Thái Bình Dương, nhưng Mỹ cũng là quốc gia duy nhất tại khu vực này có khả năng tạo thành mối đe dọa cơ bản đối với an ninh quân sự Trung Quốc. Việc xây dựng khả năng quân sự của Trung Quốc cũng chủ yếu là để ứng phó với mối đe dọa chiến lược đó. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng không nên chạy đua vũ trang với Mỹ, không nên tiêu phí hàng nghìn tỷ USD cho ngân sách quân sự mỗi năm như Mỹ, càng không nên theo đuổi khả năng can thiệp toàn cầu không có giới hạn như quân đội Mỹ. Trọng điểm xây dựng sức mạnh quân sự của Trung Quốc phải là vừa tiếp tục tăng cường khả năng răn đe hạt nhân, vừa tăng cường thích đáng sức mạnh của hải quân, không quân và các ngành quân sự kỹ thuật mới công nghệ cao như ngành không gian vũ trụ, mạng Internet...
Quốc Trung (gt)