Chiếc áo “yêu nước” của phong trào biểu tình chống Nhật đã biến màu rất nhanh, dẫn đến đập phá, bạo lực, cướp bóc và trở thành một trò hề tự mình hại mình. Chuyên gia Vương Quân đánh giá đây là sự thất bại trong chính sách đối nội của Trung Quốc.
Các cuộc biểu tình đường phố chống Nhật thời gian gần
đây tại một số thành phố của Trung Quốc được khoác lên mình chiếc áo
“yêu nước”, nhưng đã biến màu rất nhanh, xuất hiện các hoạt động bạo lực
phá phách, cướp bóc. Về mặt hình thức, ngòi nổ của các hoạt động biểu
tình này là do Chính phủ Nhật Bản quốc hữu hoá đảo Điếu Ngư/Senkaku,
nhưng đây chỉ là một mặt của vấn đề. Bình tĩnh suy xét lại, sự chuyển
ngoặt gần đây trong quan hệ Trung-Nhật và sự kiện bạo lực ở các địa
phương có thể đem lại sự gợi mở về hai phương diện cho Trung Quốc: Một là,
thất bại ngoại giao lần này cho thấy rõ chính sách đối ngoại của Trung
Quốc có vấn đề, phản ánh tính không hiệu quả của khuôn mẫu tư duy trong
giải quyết tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc. Vì nếu trước đó Trung
Quốc định ra được chính sách đối ngoại hữu hiệu, thì không những có thể
ngăn chặn được hành động quốc hữu hoá đảo Điếu Ngư/Senkaku của Nhật Bản,
mà trong nước cũng sẽ không xuất hiện các hoạt động biểu tình như nói ở
trên. Hai là, sự kiện bạo lực vừa qua cho thấy rõ sự thiếu sót
về tố chất quốc dân của Trung Quốc, Trung Quốc đã “nếm quả đắng” từ bộ
máy tuyên truyền nhà nước gây ra, vì tinh thần dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi
đã phát tác, ban đầu là kháng nghị đối ngoại, sau đó diễn biến thành
một trò hề tự người mình hại người mình. Có thể nói, bất kể là sự thất
bại của ngoại giao lần này, hay là hành động phá phách cướp bóc, phần
lớn đều có thể quy kết là do sự thất bại của chính sách đối nội Trung
Quốc.
Tác giả cho rằng một loạt sự kiện
kể trên khiến mọi người nhớ đến tranh luận mấy chục năm trước đây giữa
hai đảng Quốc-Cộng (Quốc dân đảng và Cộng sản đảng) xung quanh vấn đề
“bài ngoại, yên trong”. Ở một chừng mực rất lớn, “bài ngoại” và “yên
trong” được ví như gà với trứng gà, ai quan trọng hơn, khó có thể đạt
được nhận thức chung. Tuy nhiên, đối với làn sóng chống Nhật lần này,
tác giả suy luận: kháng nghị đường phố và tình trạng phá phách, cướp bóc
cho thấy “bên trong” của Trung Quốc bất an, nếu trước đó làm tốt “bài
ngoại” thì nội bộ có thể an. Nói cách khác, ngòi nổ của hoạt động kháng
nghị lần này và sau đó là sự kiện bạo lực đều bắt nguồn từ sự không thoả
đáng trong các biện pháp, chính sách đối nội của Trung Quốc.
Theo các thông tin công khai do
giới truyền thông gần đây tiết lộ, sự thất bại ngoại giao lần này của
Trung Quốc không chỉ phản ánh rõ nguyện vọng ban đầu của giới hoạch định
chính sách liên quan của Trung Quốc chưa thực sự nỗ lực, chưa thể hiện
rõ nỗ lực ngoại giao mà quốc dân kỳ vọng, thậm chí các bộ ngành liên
quan không dự báo được kết quả xấu nhất có thể xảy ra. Ví dụ, khi Chính
phủ Nhật Bản tuyên bố mua đảo Điếu Ngư/Senkaku, cách thức xử lý tuyên
truyền đối ngoại của phía Nhà nước Trung Quốc lại không thống nhất, có
nhiều động tác tỏ ra bất lực. Hoặc có thể do sự việc liên quan đến nhiều
bộ ngành nên khó phối hợp điều hoà, nhưng công chúng không nhận được ý
kiến uy tín thống nhất mang tính định hướng từ các bộ ngành chính phủ
trong thời gian đầu diễn ra các hoạt động biểu tình.
Theo tác giả, đảo Điếu Ngư/Senkaku
và vùng biển phụ cận của nó bị người Nhật kiểm soát thực tế trong thời
gian dài, điều này không thể không khiến Trung Quốc phải suy xét lại
tính hiệu quả của nguyên tắc “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Vì tình
hình hiện thực luôn Trung Quốc đã gác tranh chấp, song nước khác lại
đang khai thác và lợi dụng, Trung Quốc chưa kiểm soát thực tế đảo tranh
chấp nào, chính vì vậy không thể khai thác được gì. Điều này ít nhiều
phản ánh các bộ ngành có liên quan đến yếu tố nước ngoài của Trung Quốc
trong thời gian dài có tư duy cứng nhắc. Hành động gần đây của Trung
Quốc trong việc thành lập “thành phố Tam Sa” đã nói rõ điểm này, hơn 60
năm thành lập nước, trong suốt thời gian dài không thành lập đơn vị hành
chính trên vùng đất mà mình cho là chủ quyền lãnh thổ của mình, cho
thấy Chính phủ Trung Quốc thiếu quyết tâm muốn kiểm soát vùng lãnh thổ
này. Sự thiếu sót của chính bản thân Trung Quốc mới dẫn đến thế bị động
của ngoại giao hiện nay.
Xem xét tình hình trong nước Nhật
Bản, bất luận là Chính phủ Noda đang cầm quyền hiện nay quyết định quốc
hữu hoá đảo Điếu Ngư/Senkaku, hay Shinzo Abe có khả năng quay lại chính
trường, thì đều là do dân chúng Nhật Bản bầu lên, họ là những người đại
diện cho đa số ý dân Nhật Bản. Nói cách khác, trong khi Trung Quốc xem
hành động của Nhật Bản là “trò hề” quái gở, nhưng tại Nhật Bản lại nhận
được sự ủng hộ mạnh mẽ của dân chúng. Dựa vào lôgíc này, trừ phi dân ý
của Nhật Bản phát sinh thay đổi, nếu không những sự kiện khiến Trung
Quốc khó chịu như trên sẽ khó có thể chấm dứt trong thời gian trước
mắt.
Tác giả cho rằng về mặt nguyên lý,
phạm trù của ngoại giao thuộc lĩnh vực cộng đồng, chính sách ngoại giao
là một dạng của chính sách cộng đồng, vì vậy nó cũng cần thể hiện ý
nguyện và đòi hỏi của công chúng xã hội. Sứ mệnh của ngoại giao là thúc
đẩy công chúng nước nhà hiểu biết chính sách đối ngoại và nâng cao địa
vị, vai trò của nước mình trên trường quốc tế. Tại một số nước, ngoại
giao là một ngành sôi động và cực kỳ quan trọng, như Bộ Ngoại giao Mỹ.
Tại quốc gia dân chủ, công chúng xã hội có thể “chỉ tay năm ngón” hoặc
can thiệp đối với chính sách ngoại giao. Ngành ngoại giao đã sớm không
còn là một cơ quan thần bí xa rời quần chúng, hoạt động bí mật, mà là
một bộ ngành cởi mở liên quan thiết thực với toàn thể công dân.
Ngoại giao và quốc phòng đều là do
tiền nộp thuế của dân nuôi sống, vì thế, họ phục vụ người nộp thuế là
đạo lý hiển nhiên, không gì nghi ngờ, trong khi điều này cũng là yêu cầu
cơ bản nhất của công chúng đối với lĩnh vực liên quan đến nước ngoài.
Người định ra chính sách ngoại giao cung cấp dịch vụ và sản phẩm ngoại
giao nên xuất phát từ yêu cầu quốc dân, tương xứng với thực lực tổng thể
quốc gia, trong khi nghĩa vụ của quốc phòng nằm ở chỗ bảo đảm cảm giác
an ninh và cảm giác về tinh thần của công dân không bị ngoại lai xâm
phạm. Hai cảm giác này nếu bất cứ bên nào xuất hiện vấn đề đều sẽ dẫn
đến sự bất mãn của dân chúng. Chính sách đối ngoại thành công chí ít còn
cần thể hiện ý chí tập thể của công chúng xã hội, thể hiện yêu cầu luân
lý như bảo vệ chính nghĩa.
Trong hiện thực, chúng ta sẽ phát
hiện không ít hành động ngoại giao giương cao chiêu bài an ninh quốc
gia, “bắt cóc” ý chí người nộp thuế. Ví dụ nổi bật nhất là quan hệ Trung
Quốc-Bắc Triều Tiên. Một lượng lớn tiền mồ hôi nước mắt của người nộp
thuế bị ném vào một quốc gia như thùng không đáy, trong khi đây là một
quốc gia bất cứ khi nào cũng có thể trở mặt với Trung Quốc, như “quả bom
hẹn giờ”, vì quốc gia này luôn tách biệt với cộng đồng quốc tế. Trong
thời gian dài làm bạn với quốc gia như vậy, “phương thức kết bạn” này
không chỉ đã làm tổn hại hình ảnh đất nước Trung Quốc, mà còn sớm dẫn
đến sự bất mãn của dân chúng. Năm 2006, sau khi Bắc Triều Tiên tiến hành
thử bom hạt nhân, báo chí chính thống Trung Quốc nói Bắc Triều Tiên
“ngang ngược” tiến hành thử nghiệm hạt nhân. Cách nói này khiến mọi
người không thể liên tưởng đến khẩu hiệu “đối tác tốt, láng giềng tốt,
anh em tốt” với nhân dân Trung Quốc. Chí ít, nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên
khi đó còn thực sự không coi “anh cả” Trung Quốc là quan trọng, trong
khi đó Trung Quốc vẫn lún sâu vào ảo giác quan hệ Trung-Triều “dùng máu
đào hun đúc tình hữu nghị”.
Các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế
đã sớm cảnh báo Trung Quốc hiện nay bị cô lập từ bốn phía, mối đe doạ
hiện diện khắp mọi nơi. Nhìn ra các nước xung quanh, cho dù là Nhật Bản
hay Philíppin và Việt Nam, đều có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Từ
đáy lòng, các nước này không chấp nhận Trung Quốc và càng không thể bái
phục Trung Quốc. Giữa các quốc gia vì lợi ích kinh tế mà thúc đẩy họ
đến với nhau, kiểu quan hệ nhà nước như vậy phần lớn thuộc mô hình lạnh
về chính trị, nóng về kinh tế. Do thể chế chính trị, quan điểm trị quốc,
giá trị quan khác nhau, trong thời điểm then chốt, những nước này có
phải là bạn của chúng ta? Điều này e rằng sẽ là thách thức lớn mà tương
lai ngoại giao Trung Quốc không thể tránh khỏi.
Tục ngữ nói nước yếu không có
ngoại giao, tổng lượng kinh tế của Trung Quốc hiện nay đã đứng thứ hai
thế giới, nhưng điểm lại thành quả ngoại giao của Trung Quốc những năm
gần đây không chỉ hết sức mờ nhạt, thậm chí trong những hoàn cảnh nào đó
còn nguy hiểm hơn 30 năm trước đây, nghiên cứu nguyên nhân, không thể
không suy xét lại chính sách ngoại giao. Vấn đề mấu chốt ở đây là ngoại
giao rốt cuộc phục vụ ai? Ai là người hoạch định chính sách ngoại giao?
Nguyên tắc ngoại giao “giấu mình chờ thời” mấy năm gần đây đã diễn ra
tranh luận giữa các giới học thuật trong nước, có học giả thuộc lĩnh vực
quan hệ quốc tế cho rằng Trung Quốc hiện nay so với 30 năm trước cần có
vai trò lớn hơn trên vũ đài quốc tế. Phê bình khéo léo này có nghĩa
người hoạch định chính sách ngoại giao Trung Quốc thực sự tồn tại thiếu
sót, không làm tròn nhiệm vụ của mình, thậm chí một bộ phận học giả và
công chúng đều có nhận định như vậy.
Thật ra, bất luận là “giấu mình
chờ thời” hay “gác tranh chấp, cùng khai thác”, đều là chuẩn tắc ngoại
giao được đưa ra từ nhiều năm trước. Đến nay, sự kỳ vọng của dân chúng
Trung Quốc đối với ngoại giao đã không còn như xưa, các giới xã hội bức
thiết đòi hỏi một hình ảnh đất nước và địa vị quốc tế tương xứng với một
nước lớn như Trung Quốc hiện nay. Nếu người hoạch định chính sách ngoại
giao không thể tiến cùng thời đại, vẫn theo đuổi quan điểm “thà không
đạt thành tích, cũng không thể xảy ra vấn đề”, như vậy chính sách đối
ngoại của Trung Quốc sẽ không thể thoả mãn kỳ vọng của dân chúng, tình
huống thất bại ngoại giao vẫn sẽ xảy ra.
Trong thời điểm 40 năm bình thường
hoá quan hệ bang giao Trung-Nhật, quan hệ hai nước ngày càng căng
thẳng, mặc dù nói ngoại giao Trung Quốc gặp thất bại, nhưng Bộ Quốc
phòng và An ninh cũng khó thoái thác trách nhiệm. Vì nếu Trung Quốc có
chính sách thỏa đáng đối với Nhật Bản, nếu quốc phòng thể hiện được sức
răn đe đáng tin cậy, thì về cơ bản Nhật Bản sẽ không dám làm liều trước
Trung Quốc. Trên quốc tế đã có rất nhiều án lệ có thể giúp các nhà hoạch
định chính sách Trung Quốc học tập. Nhìn Nga xử lý tranh chấp biển đảo
với Nhật Bản như thế nào, vấn đề 4 hòn đảo phương Bắc luôn là một cái
gai trong quan hệ Nga-Nhật, nhưng từ trước đến nay ngoại trừ kháng nghị
ngoại giao, Nhật Bản hầu như không dám áp dụng bất cứ hành động mang
tính thực chất nào. So sánh hai nước Trung-Nga, mặc dù tổng lượng kinh
tế của Trung Quốc đã sớm vượt Nga mấy lần, nhưng tiếng nói, tác dụng và
vai trò của Trung Quốc trên vũ đài quốc tế vẫn khiêm tốn hơn nhiều so
với Nga, ngoại giao Trung Quốc hoàn toàn chưa thể hiện được sứ mệnh và
tham vọng tương xứng với sức mạnh kinh tế của mình.
Quay trở lại vấn đề trong nước,
trong một số vấn đề cơ bản nhất, Trung Quốc cần lý trí, nếu không cục
diện ngoại giao cô lập sẽ không thể giải quyết triệt để, tình hình bất
an cả bên trong và bên ngoài sẽ tiếp tục quấy nhiễu Trung Quốc. Một
trong các vấn đề là chính sách đối ngoại của Trung Quốc có bao nhiêu
phần trăm đại diện cho ý dân? Nhà hoạch định chính sách có lẽ sẽ cho
rằng ý dân hiện nay là ấu trĩ, quá khích thậm chí là hẹp hòi, cố tình
không cần thu hút sự ủng hộ ý dân. Hiện nay, các nhà hoạch định chính
sách Trung Quốc đã xa rời quần chúng, cách thức làm việc là đóng cửa để
định ra chính sách đối ngoại mãi mãi không thể đại diện cho ý dân; mặt
khác cho rằng ý dân không đáng tin cậy. Cho dù thế nào, bất cứ chính
sách gì, bao gồm việc xây dựng và thực thi chính sách ngoại giao, nếu
không lấy ý dân làm cơ sở, sẽ không thể trường tồn.
Tính đến lực lượng phi chính thức
của Trung Quốc ngày càng lớn mạnh, cho dù Chính phủ không có ý cuốn vào
tranh chấp lãnh thổ, nhưng Chính phủ cũng nên cho phép, chí ít là không
phản đối lực lượng phi chính thức tham gia vào quá trình khai thác và sử
dụng các đảo tranh chấp. Điều này mới là sáng suốt, cũng là sự lựa chọn
chiến lược thực sự tính toán xuất phát từ lợi ích quốc gia.
Theo trang mạng Nhận thức chung (Trung Quốc)
Quốc Trung (gt)