Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

23. "Nam - Bắc và Đông - Tây "

BBT: Khoa Quốc tế học xin giới thiệu bài của Ông Dương Trung Quốc phát biểu trong hội thảo "Engaging with Vietnam: An interdisciplinary dialogue" ngày 4-5 tháng 12 năm 2011, đã được chỉnh sửa và đăng trong báo điện tử Lao động cuối tuần.
Ông Dương Trung Quốc trình bày tại hội thảo. (Nguồn ảnh: Thành Long/USSH)
Mới rồi, cuộc hội thảo khoa học quốc tế nghiên cứu về Việt Nam lần thứ III, một tiếp xúc khoa học truyền thống giữa các nhà nghiên cứu về Việt Nam đến từ nhiều nước trên thế giới do hai trường đại học của Việt Nam (Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội) và Australia (Monash) chủ trì được tổ chức tại Hà Nội.
Được mời tới làm khách thuyết trình chủ đề “Giao lưu Đông - Tây với vai trò người trí thức” như lời giáo đầu cho cuộc trao đổi, lại thấy ngồi dưới có nhiều chuyên gia hàng chót vót như GS Carlyle Thayer (Học viện Quốc phòng Australia) hay TS Charles Morisson (Giám đốc Trung tâm Đông - Tây, Hoa Kỳ) v.v... tự hỏi sẽ nói gì về một vấn đề lớn của thời đại trong vòng có ba mươi phút.
Một trong những chủ đề của cuộc trao đổi này đề cập tới vai trò của tầng lớp trí thức địa phương có mối liên hệ như thế nào với cuộc tiếp xúc Đông - Tây, tập trung ở Châu Á trong bối cảnh toàn cầu hoá... Vì thế nên không thể không đề cập tới những nét riêng của trí thức Việt Nam được hình thành trong hoàn cảnh lịch sử như thế nào xuyên suốt trong lịch sử, về căn bản được chia ra làm hai giai đoạn: trong “Thế giới Trung Hoa” kéo dài hơn hai thiên niên kỷ và trong tiếp xúc với thế giới phương Tây trong đó có nước Pháp thời thực dân và phần còn lại của thế giới thực sự mới cách nay vài thế kỷ. Điều cần nhấn mạnh là với dân tộc Việt Nam, muốn nói đến giao lưu Đông - Tây thì không bao giờ được quên và tách nó ta khỏi quan hệ Nam - Bắc, không chỉ trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Xin lược lại những gì đã nói để chia sẻ với bạn đọc cuối tuần.
Bàn đến quan hệ giao lưu Đông - Tây và vai trò người trí thức ngày nay trong cuộc giao lưu ấy, trước tiên không thể không nói đến quan hệ “Nam -Bắc”.
Quan hệ Nam -Bắc, diễn đạt cho cụ thể hơn là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa. Nước Việt Nam về lãnh thổ và tên gọi (quốc danh) trong lịch sử có nhiều lần thay đổi, nhưng về địa lý, luôn nằm ở phía Nam trong tương quan với Trung Hoa. Lãnh thổ và tên gọi nước Trung Hoa cũng vậy và nó luôn nằm ở phía Bắc nước Việt Nam.
Vì hoàn cảnh địa lý, núi liền núi, sông liền sông, chung một con đường biên giới trên đất liền và cùng có bờ biển hướng ra Thái Bình Dương về phía đông mà giữa hai quốc gia đã từng có cả những chung đụng và xung đột trong lịch sử hàng ngàn năm. Đó là một câu chuyện dài....
Chỉ có thể nói rằng, Việt Nam vốn nằm trong không gian của một cộng đồng rất to lớn của các tộc Việt sinh sống ở phía nam sông Dương Tử gọi chung là Bách Việt, gắn với nền văn minh lúa nước và đã đạt tới một trình độ văn minh khá cao, mà với những tộc Việt là tổ tiên trực tiếp của dân tộc Việt Nam ngày nay, đó là nền Văn hoá Đông Sơn với biểu tượng là những chiếc trống đồng tinh tế, gắn với huyền thoại về thời kỳ dựng nước của dân tộc Việt Nam, tương ứng với một giai đoạn lịch sử cách nay chừng hơn hai thiên niên kỷ rưỡi.
Nhưng rồi với sức bành trướng của người Hán từ phía trên sông Dương Tử tràn xuống phương Nam, hầu hết các tộc trong Bách Việt, kể cả lãnh thổ của các Vua Hùng và những triều đại kế tiếp đều bị thôn tính vào trong đế chế rộng lớn từ phương Bắc tràn xuống này. Nền cai trị kéo dài hơn một thiên niên kỷ với một chính sách đồng hoá khắc nghiệt và triệt để đến mức, cho đến ngày hôm nay người Việt Nam hiện đại vẫn đứng trước câu hỏi: liệu trước khi bị người Hán đô hộ, người Việt đã có chữ viết của mình chưa? Và những tầng lớp tinh hoa của cộng đồng là ai ngoài những ý niệm về các thủ lĩnh quân sự?
Với một ngàn năm Bắc thuộc, sự có mặt của ngưòi Hán vừa là kẻ cai trị, vừa là người đến định cư và hoà trộn thành phần dân cư với người Việt bản địa đã tạo ra một cộng đồng dân cư mà hạt nhân là người Kinh, một thành phần đa số và có vị thế ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Văn minh phương Bắc ban đầu là sự áp đặt thuần tuý của kẻ đến từ bên ngoài và thống trị. Nhưng với hơn một ngàn năm, những nhân tố tích cực ưu trội của nền văn minh này được du nhập và được tiếp nhận. Tổ tiên chúng ta một mặt không ngừng tìm cơ hội để thoát ra khỏi ách thống trị của đế chế phương Bắc về phương diện chính trị (mà những tên tuổi của Hai Bà Trưng, Bà Triệu v.v... là biểu tượng), nhưng cũng chấp nhận nhiều giá trị có nguồn gốc từ phương Bắc. Việc sử dụng chữ Hán như một ngôn ngữ viết chính thức là một bằng chứng. Nguời Việt sẵn lòng tôn vinh viên quan cai trị nhà Hán Sĩ Nhiếp là “Nam Giao học tổ” lập đền thờ phụng; các nhân vật cai trị khác như Tích Quang, Nhâm Diên cũng được tôn trọng tương tự...
Trên phương diện văn hoá, người Việt tiếp nhận những giá trị văn hoá phương Bắc để làm phong phú cho chính mình nhưng không chấp nhận bị đồng hoá. Do vậy, trong khi chấp nhận Hán tự làm chữ viết thì vẫn nói tiếng nói riêng của mình. Đã có những nỗ lực của các nhà trí thức Việt Nam sáng tạo ra “chữ Nôm” trên cơ sở sử dụng các bộ nét trong chữ Hán tượng hình để định dạng ghi lại tiếng nói của mình. Chữ Nôm đã phát triển một cách mạnh mẽ tuy chưa đạt tới sự hoàn thiện nhưng là một biểu hiện của bản lĩnh và năng lực bảo tồn và sáng tạo văn hoá riêng của người Việt Nam trong hoàn cảnh sống cạnh và bị sự đô hộ của một đế chế sở hữu một nền văn minh lớn như Trung Hoa.
Trong thời kỳ lịch sử dài hơn thiên niên kỷ này, bên cạnh các quan lại người Hán, hẳn đã hình thành một tầng lớp “tinh hoa” trong cộng đồng những người dân bị trị cũng như một bộ phận quan lại, tầng lớp trên có xu hướng ly khai với nền đô hộ của triều đình phương Bắc diễn ra trước thời tự chủ bắt đầu từ Ngô Quyền (938), như Dương Đình Nghệ, các nhà lãnh đạo họ Khúc... Phải chăng những người dẫn đạo tinh thần tự chủ của người Việt Nam thời đó là những trí thức đầu tiên (!?). Sứ mệnh của họ là từ trong cơ chế chính trị đương thời chống lại sự đô hộ của ngoại bang không chỉ bằng bạo lực mà bằng cả các tri thức, trong đó có cả những tri thức của nền văn minh của chính kẻ đã thống trị dân tộc mình.... Đó chính là nét phác hoạ đầu tiên về sứ mệnh tiếp nhận văn hoá bên ngoài cho nội lực dân tộc của một tầng lớp xã hội mà sau này ta gọi là trí thức.
Dần từng bước, cùng với sự truyền bá đạo Phật vào Việt Nam, tầng lớp tăng lữ của tôn giáo có đặc trưng nhập thế rất sâu sắc này đã trở thành một lực lượng trí thức dân tộc, đồng hành cùng dân tộc thúc đẩy quá trình xây dựng nền tự chủ quốc gia. Sau Ngô Quyền, vị tổ trung hưng thứ nhất xác lập nền tự chủ bằng chiến thắng Bạch Đằng (938), lần lượt các triều Đinh và (Tiền) Lê tuy ngắn ngủi nhưng từng bước củng cố nền tự chủ bằng việc thống nhất lực lượng dân tộc và tiếp tục khẳng định nền tự chủ ấy bằng sự nghiệp chống mưu toan thôn tính trở lại của phương Bắc (lúc này là nhà Tống).
Năm ngoái (năm 2010), Việt Nam tổ chức trọng thể 1000 năm Vua Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (nay là Hà Nội) như một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt. Vị vua này không có chiến công của người giành độc lập từ tay ngoại bang nhưng lại là người có một tầm nhìn vượt lên trên các bậc tiền bối. Điều đó thể hiện qua việc lựa chọn nơi định đô ngay sau khi lên ngôi. Qua việc Ngài không chấp nhận kinh đô Hoa Lư của các triều Đinh, (Tiền) Lê và cũng không trở về Cổ Loa có từ thời An Dương Vương mà vị tổ trung hưng Ngô Quyền sau khi lập lại nền tự chủ đã lựa chọn như sự “nối lại quốc thống”.
Lý Công Uẩn đã chọn Đại La, nơi chính quyền đô hộ Trung Hoa mà tiêu biểu là viên quan cai trị Cao Biền đặt trị sở, làm kinh đô của nước Đại Việt tự chủ, cho thấy một tầm nhìn sáng suốt của vị vua sáng lập triều Lý, mà đứng đằng sau là các vị tăng lữ Phật giáo tiêu biểu như sư Vạn Hạnh. Tầm nhìn ấy dựa trên một nguyên lý sáng suốt, đó là: Dân tộc Việt Nam thường trực phải đối phó với nước láng giềng phương Bắc không phải chỉ là một thế lực bành trướng, một nguy cơ bị xâm lăng mà còn là một nền văn minh lớn và một cơ hội để chúng ta có thể tiếp thu những tinh hoa từ bên ngoài nhằm làm giàu chính nền văn hiến của dân tộc mình.
Chính là nhà Lý đã đưa Khổng Tử về thờ (lập Văn Miếu), tổ chức các kỳ thi chữ Hán, học Tứ Thư, Ngũ Kinh của phương Bắc để tuyển chọn nguồn nhân lực cho quốc gia (Quốc Tử Giám) v.v... Nhưng cũng chính nhà Lý đã tuyên ngôn “Nam Quốc sơn hà Nam đế cư...”. Cũng như sau này là nhà Lê, lập triều từ việc chấm dứt ách cai trị 20 năm của phương Bắc (nhà Minh), lại là triều đại tiếp nhận một cách mạnh mẽ những ảnh hưởng văn hoá của phương Bắc, đặc biệt là trong việc xây dựng thiết chế chính trị của nhà nước trung ương. Lại cũng chính nhờ vậy mà triều Lê dù trải qua nhiều thăng trầm nhưng gìn giữ được bờ cõi hơn 3 thế kỷ phương Bắc không lai vãng. Hơn thế, chính trong thời kỳ lịch sử này, bờ cõi được mở mang về phương Nam với công lao của các Chúa Nguyễn. Việc mở mang này vô cùng quan trọng không chỉ về không gian lãnh thổ mà là sự tiếp nhận nhiều nguồn văn hoá mới “phi Trung Hoa” từ phương Nam (Ấn Độ và hải đảo Đông Nam Á cùng những nền văn hóa bản địa của những vùng đất mới).
Đây cũng là một quá trình lâu dài hình thành tầng lớp nho sĩ thành đạt với đội ngũ quan lại và đông đảo những nhà nho gần gũi với nhân dân ở các làng xã có ảnh hưởng sâu sắc trong việc tiếp thu có chọn lựa những nhân tố tích cực của văn hoá Trung Hoa, gây dựng cũng như bảo tồn những giá trị văn hoá bản địa và tạo dựng thành truyền thống. Vai trò tầng lớp trí thức này là vô cùng to lớn tạo nên nền văn hiến Đại Việt, nền tảng của tinh thần dân tộc và sức mạnh nội lực giúp Việt Nam tồn tại cạnh Trung Hoa như một quốc gia tự chủ về chính trị và thân thiện về văn hoá.
Quan hệ Nam - Bắc ấy đã chi phối như nhân tố chủ đạo của một trường kỳ lịch sử xuyên suốt lịch sử và cho đến ngày nay vẫn còn là một yếu tố không thể bỏ qua cho dù thời đại đã có rất nhiều thay đổi.
Cho dù người phương Tây đã đến Việt Nam từ sớm hơn thông qua việc truyền giáo hay buôn bán nhưng về căn bản cho đến thế kỷ thứ XVIII, Việt Nam vẫn bị bao trùm trong “thế giới Trung Hoa” mà những trí thức Việt Nam vẫn phải “ngụp lặn” vừa để ứng phó chống trả, vừa nương dựa vào những giá trị của nó để tiếp thu, học hỏi... Trải nghiệm lịch sử ấy đã tạo nên một bản lĩnh cũng như sắc thái của tầng lớp trí thức Việt Nam, sẽ đi tiếp trong một thử thách mới khi một “thế giới ngoài Trung Hoa” đã cận kề.
Ý niệm về mối quan hệ “Đông -Tây” hình thành vào thời điểm mà sự truyền giáo cũng như cuộc chinh phục thuộc địa từ các quốc gia Châu Âu đã bước qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa sang những phần đất còn lại của thế giới, đặc biệt là với 2 nền văn minh lớn (Trung Hoa, Ấn Độ) và rộng hơn là Châu Á trong đó có Việt Nam.
Có thể tiếp cận với nền văn minh mới mẻ này đầu tiên là những tín đồ Thiên Chúa giáo hay các nhà buôn vốn không mạnh ở nước ta, cùng với nhà cầm quyền luôn e ngại những yếu tố mới, xa lạ, nằm ngoài những khuôn vàng thước ngọc của thánh hiền chỉ có thể là man-di-mọi-rợ lấy sự khước từ làm phản xạ ban đầu.
Cũng chính vì thế mà người trí thức trong bộ máy quan lại, trong dân gian và trong hàng ngũ giáo dân đóng một vai trò rất quan trọng để tạo ra những đột phá trong việc tiếp nhận và giao lưu văn hoá với phương Tây.
Cần phải nói thêm rằng, ngay từ phía phương Tây cũng sớm đưa ra nhận thức cực đoan “Đông là Đông, Tây là Tây” như một sự phân ranh không suy xuyển và cùng với nó là quan niệm “phương Tây chinh phục phương Đông” của chủ nghĩa thực dân.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam, như trên đã nói, một dân tộc từng chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa rất sâu sắc nhưng trong tâm thức lại luôn muốn thể hiện mình khác Trung Hoa và luôn tìm cơ hội để tách dần ra khỏi ảnh hưởng Trung Hoa mà trước tiên là thoát khỏi ách đô hộ về chính trị.
Đàng Trong (nơi các Chúa Nguyễn lập nghiệp và mở mang bờ cõi) không chỉ xa về địa lý với Trung Hoa, cát cứ với triều đình trung ương mà còn đựơc tiếp nhận các nền văn minh “phi Trung Hoa” nên nó cũng rất nhạy bén khi tiếp xúc với văn minh phương Tây. Cùng thời với Phố Hiến ở Đàng Ngoài, Hội An ở Đàng Trong là cửa ngõ hướng ra bên ngoài, trong đó có các thành phần phương Tây (nhà truyền giáo, nhà hàng hải, thương nhân...).
Nhưng, chính Hội An ở Đàng Trong lại là cái nôi tiếp nhận những giá trị văn minh phương Tây mạnh mẽ và tiêu biểu là sự ra đời của chữ viết sau này đuợc gọi là quốc ngữ tại đây. Nhu cầu truyền giáo buộc phải đi tìm cây cầu ngôn ngữ để thâm nhập vào cư dân và xã hội bản địa. Các nhà truyền giáo Tây ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia, Pháp… đã tìm đến chữ latinh làm công cụ ghi âm tiếng nói của dân bản địa và truyền đạo.
Cũng giống như quan hệ Nam -Bắc, quan hệ Đông - Tây ở Việt Nam cũng khắc nghiệt bởi cho dù có yếu tố truyền giáo hay thương mại... thì chủ yếu vẫn diễn ra trong bối cảnh của chủ nghĩa thực dân phương Tây tiến hành chinh phục bằng bạo lực và xâm chiếm thuộc địa ở phương Đông (Viễn Đông) mà ở Việt Nam là chủ nghĩa thực dân Pháp.
Phạm Duy tốn, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh là những trí thức Tây học theo chủ nghĩa ôn hòa. Ảnh: TL
Cũng giống như trong quá khứ, quan hệ Đông-Tây, ban đầu là một sự kháng cự có phần tuyệt vọng bằng bạo lực. Chủ nghĩa thực dân phản động khi xâm lăng, và đô hộ dân tộc khác nhưng khách quan nó cũng lại truyền bá nền văn minh phương Tây tiên tiến và nhân bản. Triều đình Việt Nam sau những kháng cự bán đầu đã từng bước khiếp nhược trước sức mạnh, vũ khí phương Tây và chấp nhận sự đầu hàng. Ngay trong giới trí thức quan lại cũng bị chia rẽ sâu sắc trước câu hỏi “Chủ chiến hay chủ hoà?”. Tầng lớp trí thức trong dân cũng đứng trước câu hỏi “duy tân hay thủ cựu”.
Những vấn đề liên quan đến sự lựa chọn thái độ với văn minh phương Tây - sự cộng tác hay chống đối sự cai trị của chế độ thực dân luôn là một vấn đề sát sườn của giới trí thức cận đại. Những Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký hay Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh... luôn là những trường hợp có sự đánh giá trái chiều...
Thời cận và hiện đại gắn với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc luôn tạo ra thử thách cho giới trí thức, trong đó có giới trí thức Tây học, được đào tạo trong nền giáo dục Pháp (ở thuộc địa hay chính quốc)... Khỏi phải phân tích dài dòng, cùng với thời gian càng ngày chúng ta càng nhận ra, về căn bản những người trí thức đều quy tụ về một mối là hướng tới dân tộc bằng cách tiếp cận với văn hoá phương Tây, vì với nền văn hoá ấy, chủ nghĩa thực dân chỉ là một hiện tượng lịch sử, còn những giá tri tiến bộ, giá trị căn bản của một nền văn minh luôn là nguồn lực cho sự phát triển, nhất là với văn minh phương Tây, những giá trị Dân chủ là một ưu thế mang tính chất tiên phong.
Hiện tượng “chữ quốc ngữ” là một thí dụ: ban đầu, với các nhà truyền giáo nó là công cụ truyền bá, với thực dân nó là công cụ hành chính và phương thức để gạt dần ảnh hưởng của Trung Hoa, nhưng với người Việt Nam thì đó là công cụ để hội nhập với thế giới ngoài Trung Hoa, hướng tới những giá trị tiên tiến của phương Tây nên rất nhanh chóng được chấp nhận, phát triển thành ngôn ngữ xã hội và nghệ thuật để rồi trở thành “quốc ngữ”, ngôn ngữ chính thống kể từ khi nước Việt Nam độc lập (1945).
Nhân vật Hồ Chí Minh có thể là một biểu tượng tập trung của sự hình thành , lựa chọn và hành động của trí thức Việt Nam thời hiện đại mà vấn đề trung tâm là sứ mạng giải phóng dân tộc. Sự sa sút của tầng lớp nho sĩ nhanh chóng đựơc thay thế bằng những trí thức tân học (Tây học)... gánh vác những đòi hỏi phát triển của xã hội.
Lẽ ra, tại cuộc hội thảo này phải nói về vai trò của tầng lớp trí thức trong cuộc giao lưu Đông - Tây hiện tại, nhưng là một nhà sử học tôi chỉ muốn nói rằng, trong mọi sự phát triển, những di sản của quá khứ luôn có mặt như một sự lựa chọn giữa bảo thủ và truyền thống. Ứng xử trong mối quan hệ Nam - Bắc đã giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và trưởng thành bên cạnh nước Trung Hoa thì giải quyết tốt mối giao lưu Đông - Tây hiểu theo nghĩa hẹp của dân tộc Việt Nam vẫn là những truyền thống đã từng có trong quá khứ : tồn tại và trưởng thành, nhưng theo nghĩa rộng chính là sự hội nhập với toàn thế giới, cho dù ngày nay vẫn là một thế giới phức tạp và không ổn định.
Đã từng có thời “Đông là Đông -Tây là Tây”, lại có thời “Gió Đông thổi bạt Gió Tây” hay ngược lại... Ngày nay thế giới càng nhận thức được rằng Đông hay Tây đều là của chung nhân loại, một nhân loại chung sống trên một hành tinh ngày càng mỏng manh nếu những ngọn gió không chịu thổi thuận chiều... đó là chưa nói đến những biến đổi khí hậu mà Đông hay Tây đều phải chung tay ứng phó. Nếu tầng lớp trí thức là những người có trách nhiệm nhất với tương lai thì nó vẫn phải đi đầu trong cuộc vận động của lịch sử đương đại...”
Dương Trung Quốc