THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
TTXVN ( Hồng Công 17/9)
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thời gian gần đây giới chuyên gia nói nhiều
đến mối quan hệ cộng sinh cũng như những căng thẳng chiến lược trong
quan hệ giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới hiện nay là Mỹ và Trung
Quốc. Mối quan hệ này ngoài việc tác động đến bản thân hai cường quốc,
còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến trật tự khu vực châu Á. Tờ Bưu Điện Hoa Nam
Buổi Sáng (Hồng Công) vừa đăng bài phân tích của Andrew Leung, một
chuyên gia độc lập về Trung Quốc ở Hồng Công, trong đó đưa ra những nhận
định cụ thể về vấn đề này như sau:
Trong nhiều thập kỷ, Biển Hoa Nam (Biển Đông)
tương đối yên tĩnh, mặc dù đôi khi xảy ra xung đột lãnh hải. Vùng biển
bày đến nay phụ thuộc vào một chiếc ô quân sự Mỹ chiếm ưu thế vượt trội
mà ở đó các quốc gia khu vực phát triển theo một chuỗi sản xuất và cung
ứng cho toàn cầu với Trung Quốc là trọng tâm. Sự ổn định này hiện nay
đang bị phiền nhiễu bởi một vài mặt trận.
Đầu tiên, Trung Quốc coi Biển Đông như một khu
vực có tầm quan trọng chiến lược ngày càng gia tăng đến mức nước này trở
nên ngạo mạn hơn bao giờ hết. Trung Quốc từ lâu đã đưa ra các tuyên bố
chủ quyền lãnh hải lịch sử đối với một số hòn đảo nhất định và các đảo
san hô vòng và theo đó là một vùng biển rộng lớn ở Biển Đông, được phân
ranh giới bởi “đường lưỡi bò” hay “đường 9 đoạn” đầy tranh cãi. Nằm
trong các vùng nước đó là các tuyến hàng hải sống còn đối với sự tồn tại
của nền kinh tế cũng như là những tiềm năng khổng lồ về trữ lượng năng
lượng. Các đối thủ cùng tuyên bố chủ quyền với Trung Quốc trong vùng
biển này đã trở nên quyết đoán hơn nhiều trong các tuyên bố của họ, dẫn
đến một số căng thẳng trên biển trong thời gian gần đây.
Trong những năm qua, Trung Quốc đã xây dựng các
mối quan hệ hài hòa với các nước xung quanh và cả các nước ngoài khu
vực. Bắc Kinh đã ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác với Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2003. Với việc thực thi Khu Thương mại Tự do
ASEAN – Trung Quốc, “con đường ASEAN”, dựa trên sự đồng thuận và bình
đẳng, Trung Quốc đã giành được sức cuốn hút. Tuy nhiên, sự hài hòa cùng
có lợi này giờ đây đang cho thấy những dấu hiệu của sự căng thẳng.
Thứ hai, có một sự cạnh tranh quân sự đang ngày
càng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc. Trung Quốc đang bắt đầu xây dựng
một lực lượng hải quân biển xa, với việc trang bị chiếc tàu sân bay đầu
tiên của nước này. Các chiến lược gia của Mỹ cũng đã bắt đầu lo ngại bởi
những tiến bộ của Trung Quốc trong lĩnh vực chế tạo những quả tên lửa
cơ động được mệnh danh là “sát thủ diệt tàu sân bay”, cũng như chiến
tranh mạng, kỹ thuật không gian và nhiều lĩnh vực khác.
Để chống lại Trung Quốc, quân đội Mỹ được cho là
đang lên kế hoạch mở rộng trên qui mô lớn hệ thống rađa phòng thủ chống
tên lửa ở Châu Á. Gần đây, Thời báo Hoàn Cầu của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc đưa tin rằng Trung Quốc đang phát triển một loại tên lửa đạn đạo
tầm xa có khả năng mang nhiều đầu đạn hạt nhân có thể vượt qua hệ thống
phòng thủ tên lửa của Mỹ.
Thứ ba, có một sự chia rẽ đang lớn dần trong mối
quan hệ kinh tế cộng sinh giữa Mỹ và Trung Quốc. Mỹ giờ đây đang cảm
thấy đau đớn vì mất nhiều việc làm vào tay Trung Quốc. Điều đó đã được
báo động bởi mức tiêu dùng quá cao đến mức ngập trong nợ nần của Mỹ và
được Trung Quốc hào phóng hỗ trợ về tài chính. Về phần mình, Trung Quốc
thận trọng với việc dựa quá nhiều vào xuất khẩu cũng như vấn đề tích
trưc tiết kiệm quá nhiều trong một “cái bẫy đôla Mỹ”. Hơn nữa, việc phổ
biến “mối đe dọa Trung Quốc” đã dẫn đến sự không hài lòng và thiếu tin
tưởng lẫn nhau giữa hai nước. Do đó, những lập trường sai lầm này đòi
hỏi một sự xem xét lại về một trật tự châu Á bền vững hơn. Trước tiên,
cần phải hiểu là với những thách thức nội tại đang đe dọa khu vực, Trung
Quốc cần một môi trường quốc tế ổn định và hòa bình để phát triển và
tiến bộ. Theo lời khuyên của cố lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc sẽ
không tìm cách đạt được vai trò lãnh đạo trước khi trở thành nước phát
triển hoàn toàn. Hơn nữa, khi phúc lợi kinh tế và an ninh quốc gia của
Trung Quốc tiếp tục phụ thuộc vào việc hội nhập với trật tự thế giới,
Trung Quốc sẽ có những lợi ích trong việc hành xử như một cường quốc có
trách nhiệm.
Trung Quốc do đó đã hoạt động, và có lợi , trong
một trật tự khu vực ổn định chủ yếu do Mỹ thiết lập. Trong khi một nước
Trung Quốc đang nổi lên có thể không còn chấp nhận sự thống trị của Mỹ
một cách dè dặt nữa, việc đánh bật Mỹ khỏi khu vực châu Á sẽ không phải
là một lợi thế tốt nhất của Trung Quốc, thậm chí là ngay cả khi Trung
Quốc đủ khả năng làm được như vậy. Dưới quan điểm này, sự lớn mạnh của
Trung Quốc sẽ không cần phải phụ thuộc vào Mỹ.
Ngoài ra, theo Ủy ban tình báo quốc gia Mỹ, trong
một thế giới liên kết và phụ thuộc lẫn nhau, khả năng của Mỹ trong việc
lãnh đạo thế giới đã bị kiềm chế hơn. Để ngăn chặn các thách thức toàn
cầu và để duy trì trật tự thế giới, Mỹ cần hợp tác chặt chẽ với nhiều
nước và vùng lãnh thổ, cũng như là các đồng minh và phi đồng minh, trong
đó có các nước đang nổi lên. Thay vì kiểm tra “sự trỗi dậy hòa bình”
của Trung Quốc, Mỹ nên tận dụng một cách chiến lược sự trỗi dậy này của
Trung Quốc để đạt được một sự ổn định khu vực bền vững.
Hơn nữa, không một láng giềng nào của Trung Quốc,
gồm cả Nhật Bản, muốn tham gia một khối quân sự chống Trung Quốc do tất
cả các nước đó đề phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế.
Đối lập với nền tảng này, những ý tưởng về một
trật tự châu Á ổn định hơn đang được một số chiến lược gia nổi tiếng đưa
ra. Như đã nêu trong cuốn sách “Sự lựa chọn Trung Quốc” mang ý tưởng
kích động của mình, Giáo sư Hugh White đã lưu truyền tư tưởng về một
châu Á “phối hợp các quyền lực” để tránh một đối thủ chiến lược có khả
năng nguy hiểm chết người. Mỹ là một đối tác và chia sẻ quyền lực khu
vực với Trung Quốc trên cơ sở bình đẳng, sẵn sàng giúp đỡ hoặc cân bằng
với các lợi ích khu vực cốt lõi của Trung Quốc, cùng với những lợi ích
như vậy của Nhật Bản và Ấn Độ. Mặc dù cách tiếp cận của Giáo sư White có
thể được xem xét, nhưng thách thức là làm thế nào có thể đạt được những
điều đó khi không có sự thỏa hiệp trong các lợi ích của các đồng minh
khu vực của Mỹ?
Zbigniew Brzezinski, một chuyên gia kỳ cựu về
chính sách ngoại giao ở Mỹ, đề xuất một chiến lược lớn của Mỹ trên toàn
cầu, bao gồm một “Phương Tây rộng lớn hơn” bằng cách lôi kéo Nga và Thổ
Nhĩ Kỳ vào một Liên minh châu Âu (EU) mở rộng và một “Phương Đông phức
hợp”, nơi Mỹ sẽ hành động như một “người cân bằng khu vực” giống như vai
trò của Anh trong nền chính trị châu Âu trước thế kỷ 20.
Một điểm mấu chốt trong thành phần hợp thành
chiến lược của Brzezinski về phương Đông là “Tam giác hợp tác Mỹ – Nhật –
Trung” được nuôi dưỡng thông qua việc tái hòa giải giữa Trung Quốc và
Nhật Bản, giống như đã từng diễn ra giữa Đức và Pháp sau Chiến tranh thế
giới thứ hai. Để điều tiết các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc,
Brzezinski gợi ý giải pháp ban đầu cho những vấn đề bế tắc chính trong
quan hệ Mỹ – Trung, đặc biệt là vấn đề Đài Loan. Chuyên gia này hoài
nghi việc Đài Loan có thể né tránh hoàn toàn một tiến trình gắn kết
chính thức hơn với Trung Quốc Đại lục, có lẽ là dưới công thức “một nước
vài chế độ” nhằm tránh bất kỳ hình thức triển khai nào của Quân Giải
Phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) trên hòn đảo này. Sự tái trỗi dậy của
Trung Quốc như một cường quốc thế giới đánh dấu một bước ngoặt khác
trong vòng quay của lịch sử. Một màn kịch chuyển giao quyền lực kiểu cổ
điển đang diễn ra. Sự đổ vỡ của trật tự châu Á là một viễn cảnh rõ ràng.
Một chiến lược hoàn toàn thiên về quân sự chứa đựng đầy rẫy những nguy
cơ không thể kiểm soát có thể leo thang thành chiến tranh. Quản lý và
điều tiết sự trỗi dậy của Trung Quốc mà không hi sinh các lợi ích của Mỹ
thể hiện sự hiểu biết chiến lược sâu sắc và suy nghĩ táo bạo trong các
bối cảnh mở rộng nhất.
Trong khi sự phát triển và những sự kiện hiện nay
chưa chắc phù hợp với bất kỳ công thức nào, việc hiểu biết sâu sắc hơn
và tranh luận về động lực hợp tác có lẽ có tác dụng hỗ trợ tốt hơn cho
việc quản lý một trật tự châu Á bền vững hơn, với trụ cột là sự phát
triển quan hệ Mỹ – Trung, một mối quan hệ song phương quan trọng nhất
thế kỷ 21.
***
TTXVN (Rôma 18/9)
Trung Quốc đang trỗi dậy một cách nhanh chóng
và mạnh mẽ. Vậy tại sao các nước còn lại ở châu Á không hành động cùng
nhau? Đây là câu hỏi đặt ra trong bài viết có tiêu đề “Thùng thuốc súng ở
Thái Bình Dương” của tác giả Rowan Callick đăng trên trang điện tử
“Foreign Policy”. Bài viết có nội dung sau:
Trong thập kỷ qua, các nước Đông Nam Á đã gây
ngạc nhiên cho nhiều nhà quan sát do sự thiết tha của những nước này
trong việc cùng nhau hợp tác. Xét cho cùng, đây là một khu vực nơi mà
các mối thù hận lâu đời (và không quá lâu đời) đang trở nên sâu sắc.
Nhưng các nhà quan sát không nên hy vọng nhiều: Những nước đối địch thời
hiện đại cùng với các hành trang lịch sử vẫn đang cản trở tiến trình
chuyển hóa các dàn xếp này trở thành sự hợp tác khu vực thực sự.
Về lý thuyết, sự tiến bộ dường như đang diễn ra
một các nhanh chóng. Năm 2010, Trung Quốc, Ôxtrâylia và Niu Dilân đã
thực hiện các thỏa thuận thương mại tự do với Hiệp hội Các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), cung cấp sự tiếp cận ưu đãi đối với các thị trường của
nhau. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đang đàm phán một hiệp định
thương mại tự do. Thậm chí hai kẻ thù lâu đời của Trung Quốc và Đài Loan
đã tham gia một thỏa thuận kinh tế theo đó giảm bớt các rào cản thương
mại, chẳng hạn như thuế quan và hạn ngạch cho cả hai phía “kim ngạch
thương mại giữa Đài Loan và Trung Quốc đã đạt 128 tỷ USD trong năm 2011,
tăng 13% so với năm trước đó, thời điểm mà thỏa thuận này bắt đầu có
hiệu lực.
Nhưng những liên minh kinh tế chắp vá ở Đông Á
đang bị đè nặng bởi lịch sử và bị cản trở bởi những thỏa thuận an ninh
không hiệu quả. Ba vấn đề nóng lớn nhất của khu vực đã tồn tại trong
nhiều thập kỷ, nếu không nói là nhiều thế kỷ, và giống như những ngọn
núi lửa – chủ yếu đang nằm im song đôi khi là đã tắt. Bên cạnh các cuộc
chiến tranh giữa Việt Nam với Pháp, Mỹ và Trung Quốc, cuộc chiến toàn
diện gần đây nhất là Chiến tranh Triều Tiên, vốn đã chấm dứt cách đây
gần 6 thập kỷ. Nhưng hậu quả của nó vẫn kéo dài cho đến ngày nay: Bắc
Triều Tiên và Mỹ chưa bao giờ ký một hiệp ước hòa bình và về kỹ thuật
vẫn đang trong tình trạng chiến tranh. Tương tự, sự xâm lược trước đây
của Nhật Bản đối với Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và trên thực tế là
cả khu vực Đông Nam Á là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự chuyển biến ở
châu Á trong thế kỷ 20. Chiến tranh Thế giới thứ hai cũng vẫn đang gây
nên những ảnh hưởng về chính trị ở châu Á lớn hơn nhiều so với ở Mỹ –
như việc phá vỡ một hiệp ước quân sự Hàn Quốc – Nhật Bản hồi tháng bảy
do tâm lý chống Nhật lâu nay cho thấy.
Nếu Nhật Bản bị đè nặng bởi hành trang lịch sử
của mình, thì Trung Quốc cũng vậy. Sau khi quân du kích Trung Quốc đánh
bật Nhật Bản vào năm 1945, Mao Trạch Đông và những người theo chủ nghĩa
dân tộc ra đảo Đài Loan vào năm 1049, một hòn đảo mà hiện Trung Quốc vẫn
đang tuyên bố chủ quyền (và họ đang triển khai hướng vào hòn đảo này
khoảng 1.000 quả tên lửa). Hồi tháng Bảy, Trung Quốc đã tổ chức lễ thành
lập Thành phố Tam Sa, một khu vực gồm 3.500 dân mà Trung Quốc cho là
bao phủ khoảng 770.000 dặm vuông ở Biển Đông. Tuyên bố chủ quyền này
đang chọc giận 5 nước khác (trong đó có lãnh thổ Đài Loan), vốn đang coi
nhiều phần ở Biển Đông là lãnh thổ của mình. Tổng thống Philippin
Bengigno Aquino dường như đã đưa ra phát ngôn đại diện cho tất cả người
dân ở khu vực này hồi tháng Bảy: “Nếu một ai đó bước vào sân của bạn và
nói với bạn rằng anh ta sở hữu nó, liệu bạn có chấp nhận điều đó?”
Trung Quốc, Nhật Bản và Đài Loan cũng đang tranh
chấp gay gắt chuỗi đảo không có người ở mà Trung Quốc và Đài Loan gọi là
Điếu Ngư còn Nhật Bản gọi là Senkaku. Chuỗi đảo này có vị trí nằm gần
Đài Loan, Trung Quốc và đảo Okinawa của Nhật Bản. Vấn đề này đang làm
dấy lên tâm lý dân tọc chủ nghĩa trong số 3 bên đối địch này: Thị trưởng
Tôkyô Shintaro Ishihara hồi tháng Sáu đã đưa ra một đề xuất rằng một
chú gấu trúc con dự kiến ra đời ở Vườn thú Tôkyô nên được đặt tên là
Sen-sen hoặc Kaku-kaku (Trong tiếng Nhật đều là để chỉ chuỗi đảo
Senkaku).
Bạn có thể cho rằng các nước Đông Á, vốn đang
ngày càng giàu có và ổn định, sẽ tìm kiếm các đồng minh khu vực nhằm
giúp bảo vệ những lợi ích và chủ quyền của chính họ. Nhưng đây là một
khu vực đang có sự thay đổi về hoạt động ngoại giao, và sự hoài nghi rõ
ràng đang tiếp tục gây lúng túng cho những dàn xếp dựa trên lí trí. Điều
khó tin là hiện chỉ có một liên minh khu vực vốn đòi hỏi phải có một sự
phản ứng quân sự trước một cuộc tấn công – đó là liên minh giữa Trung
Quốc và Bắc Triều Tiên, một thỏa thuận đang được “đóng dấu bằng máu”,
như Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt mô tả nó trong năm
2009.
Dĩ nhiên, Mỹ có những cam kết tương tự đối với
nhiều nước ở khu vực này. Oasinhtơn có những dàn xếp quốc phòng chính
thức với Nhật Bản, Hàn Quốc, Philíppin, Thái Lan và Ôxtrâylia, và các
mối quan hệ đối tác về an ninh chặt chẽ (một cấp thấp hơn so với các
liên minh) với Đài Loan, Xinhgapo và Inđônêxia. Nhưng những thỏa thuận
này đã không được thử nghiệm kể từ Chiến tranh Triều Tiên, khi các binh
sĩ Mỹ đẩy lùi một cuộc tấn công dữ dội của quân đội Trung Quốc dọc sông
Áp Lục; nguy cơ xảy ra chiến tranh với Trung Quốc có thể khiến Mỹ phải
cân nhắc kỹ lưỡng về việc tôn trọng những dàn xếp an ninh của mình.
Một hiệp ước quân sự được áp dụng khác ở khu vực
này là Thỏa thuận phòng thủ của 5 nước giữa Ôxtrâylia, Anh, Niu Dilân,
Malaixia và Xinhgapo ký năm 1971. Năm nước này nhất trí sẽ vẫn tham vấn
lẫn nhau trong trường hợp xảy ra xâm lược từ bên ngoài đối với bán đảo
Mã Lai, mà giờ đây chỉ còn là chú thích lịch sử. Không thể nói rằng các
nước châu Á hiện không tập trung vào vấn đề phòng thủ: các ngân sách
quân sự đang được gia răng một cách nhanh chóng. Ngân sách quốc phòng
của Trung Quốc sẽ tăng gần gấp đôi trong 3 năm tới, còn các nước Đông
Nam Á đã gia tăng chi tiêu quốc phòng với mức trung bình là 13,5% trong
năm 2011, đồng thời tổng chi tiêu quân sự của châu Á sẽ có thể vượt của
châu Âu lần đầu tiên trong năm nay. Chỉ có điều là các nước châu Á hiện
nay càng không xích lại gần nhau.
ASEAN, tổ chức chính trị khu vực hàng đầu ở Đông
Á, giờ đây đang bị kiềm chế do sự trỗi dậy của Trung Quốc. Được thành
lập vào năm 1967 với mục đích tạo sự đoàn kết để đối phó với cái dường
như được coi là trào lưu cộng sản lúc đó, ASEAN rõ ràng không phải một
hiệp ước phòng thủ: Các thành viên ASEAN chỉ thỏa thuận không tấn công
lẫn nhau (mặc dù vậy họ đã phá vỡ cam kết này, nhất là gần đây trong
giai đoạn 2008-2011, khi binh sĩ Campuchia và Thái Lan xung đột với nhau
liên quan đến quyền sở hữu ngôi đền năm giữa biên giới hai nước).
ASEAN giờ đây đã bao gồm cả Việt Nam và Lào, hai nước chính thức là cộng
sản. Trong cuộc họp hàng năm mới đây nhấy hồi tháng Bảy, lần đầu tiên
trong lịch sử ASEAN đã không đưa ra được một thông cáo chung cơ bản, có
thể là do sự can thiệp của Trung Quốc và tham vọng của Bắc Kinh trong
việc đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông.
Việc Trung Quốc trở thành một trung tâm mới với
tư cách là đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các nước ở khu vực có
nghĩa rằng mặc dù các nước láng giềng đang lo ngại về sự phô trương sức
mạnh quân sự ngày càng gia tăng cũng như giọng điệu mang tính dân tộc
chủ nghĩa của Trung Quốc, nhưng họ không muốn để các nền kinh tế của
mình phải đối mặt với nguy cơ nếu đương đầu trực tiếp với Bắc Kinh.
Nhưng Trung Quốc cũng cảm thấy dễ bị tổn thương. Zhu Feng, Phó giám đốc
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược tại Đại học Bắc Kinh, năm 2009 đã mô tả
Trung Quốc là “một cường quốc đang trỗi dậy cô đơn” – một mô tả thích
hợp với một nước mà với 14 nước láng giềng thì chỉ liên minh duy nhất
với Bắc Triều Tiên, quốc gia dường như đang ngày càng bị xa lánh.
Điều đó không có nghĩa là hiện không có những
điểm sáng. Inđônêxia, nền dân chủ lớn ở trong khối, đã và đang dần dần
thể hiện tâm lý ác cảm đối với Trung Quốc – trong nhiều thập kỷ cho đến
tận năm 2000, nước này thậm chí đã cấm nhập khẩu các xuất bản phẩm được
viết bằng tiếng Trung Quốc. Mianma thì đang tự do hóa. Bất chấp những
tuyên bố đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với Đài Loan, cả hai bờ Eo
biển Đài Loan đã cải thiện quan hệ kể từ khi Tổng thống Mã Anh Cửu đắc
cử năm 2008. Nhưng tình trạng thiếu tin cậy lẫn nhau có nghĩa rằng một
cuộc xung đột khu vực có thể quét sạch những thành quả kinh tế.
***
TTXVN (Bắc Kinh 17/9)
Chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 4-5/9 của Ngoại
trưởng Mỹ Hillary Clinton đang tiếp tục khiến dư luận quan tâm về nhiều
vấn đề liên quan đến nhiều phương diện. Tạp chí “Tuần tin tức Trung
Quốc” số ra ngày 10/9/2012 cho rằng điều đình về các vấn đề tranh chấp
lãnh thổ Trung Quốc – Nhật Bản ngày càng nóng lên là chủ đề quan trọng
trong chuyến thăm, đồng thời bà ngoại trưởng Mỹ cũng có thể giải thích
về chiến lược “trở lại châu Á” của Mỹ. Xét về tính chất lâu dài qua việc
Mỹ muốn nâng cao quyền phát ngôn và xu hướng lợi ích mà Mỹ đang cần
củng cố, Trung Quốc cần phải có cách nhìn lâu dài đối với chiến lược như
vậy của Mỹ và phải đối phó, ứng xử một cách bình tĩnh và tích cực chứ
không hẳn mọi sự đều là bao vây Trung Quốc.
Là chặng dừng chân thứ ba trong chuyến thăm 6
nước châu Á – Thái Bình Dương, chuyến thăm Trung Quốc lần này của Ngoại
trưởng H. Clinton tỏ ra đột ngột hơn mọi chuyến thăm thông thường trước
đó, cho đến tận ngày 28/8 khi công bố thông tin đối ngoại, Bộ ngoại giao
Mỹ vẫn chưa tiết lộ chút thông tin gì về lịch trình chuyến thăm này.
Bối cảnh chuyến thăm diễn ra đúng vào lúc châu Á –
Thái Bình Dương đang bước vào một “mùa nhiều vấn đề”: Vấn đề đảo Điếu
Ngu ngày càng căng thẳng, vấn đề Nam Hải (Biển Đông) giữa Trung Quốc và
Philíppin cũng đang rắc rối. Ngày 30/8 khi trả lời câu hỏi của các phóng
viên, Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Patrick Ventrell cho biết
tranh chấp lãnh thổ là chủ đề quan trọng trong chuyến thăm Trung Quốc
của Ngoại trưởng H. Clintn, đồng thời cũng đề cập đến các vấn đề khác mà
hai bên cùng quan tâm.
Chủ nhiệm Ban nghiên cứu vấn đề quốc tế, Viện
Khoa học xã hội Trung Quốc, Giáo sư Trương Uẩn Lĩnh cho rằng “các hoạt
động dồn dập gần đây của Ngoại trưởng H. Clinton ở khu vực châu Á – Thái
Bình Dương chủ yếu xoay quanh việc cấu trúc lại chiến lược trở lại châu
Á – Thái Bình Dương của Mỹ. Chiến lược đó chủ yếu là đề phòng Trung
Quốc ngạo mạn, bảo vệ lợi ích của Mỹ. Muốn thực hiện điểm này, cần phải
bàn bạc với Trung Quốc”. Trong các công việc song phương, khu vực và
quốc tế, nếu không có sự tham gia và bàn bạc của Trung Quốc, thậm chí sẽ
có thể dẫn đến đối đầu, lợi ích của nước Mỹ cũng sẽ bị tổn hại.
1. Chuyến thăm “cuối cùng trên cương vị ngoại trưởng” và lợi ích của nước Mỹ
Về lịch trình chuyến thăm Trung Quốc lần này,
theo quan sát của Phó giám đốc Học viện quan hệ quốc tế, Đại học Nhân
dân Trung Quốc Kim Xán Vinh, có thể xem xét một số phương diện về mặt kỹ
thuật:
Thứ nhất, bà Clinton sẽ rời khỏi vị trí Ngoại
trưởng Mỹ sau kỳ bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm nay, đây có thể sẽ
là chuyến thăm Trung Quốc cuối cùng của bà trên cương vị Ngoại trưởng,
và đây là dịp để bà đến chào các nhà lãnh đạo chủ chốt của Trung Quốc.
Xét về mặt lễ nghi thì đây là yếu tố rất cần thiết.
Thứ hai, cách đây hai tháng, trong “chuyến đi 13
ngày 9 nước” của bà Clinton, từ Nhật Bản phía Đông Trung Quốc đến Mông
Cổ ở phía biên giới Bắc Trung Quốc, tiếp đến là Việt Nam, Lào,
Campuchia, bà Clinton đã đi một nửa vòng lớn quanh Trung Quốc. Tờ “The
Financial Times” của Anh khi đó đưa tin bình luận, “chuyến thăm châu Á
của bà Ngoại trưởng Mỹ để lại dấu ấn Trung Quốc sâu đậm, đã hoàn toàn
nhắm vào Trung Quốc nhưng lại không có từ nào nhắc đến từ “Trung Quốc”.
Theo cách bình luận của Kim Xán Vinh, “xét về
phương diện ngoại giao là có chút thất lễ, cần phải lấp lại cho đầy. Còn
theo Phó trưởng ban nghiên cứu nước Mỹ thuộc Viện khoa học xã hội Trung
Quốc Nghê Phong, “nếu muốn có một dấu chấm câu cho hết chuyến đi châu Á
mà không đến Trung Quốc thì đó là một dấu chấm không hoàn chỉnh”.
Theo quan sát của Trương Uẩn Lĩnh, còn một bối
cảnh ngoại giao quan trọng khác thúc đẩy chuyến thăm Trung Quốc của
Ngoại trưởng H. Clinton, đó là tình hình Đông Bắc Á căng thẳng sẽ gây
tổn hại cho chiến lược tổng thể châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ. “Trong
khi quan hệ Trung – Nhật căng thẳng, Nhật Bản và Hàn Quốc đối đầu, nhiều
bên đều muốn Nhật Bản không tiếp tục làm cho tình hình căng thẳng thêm
nên muốn Mỹ đứng ra nói chuyện”. Trương Uẩn Lĩnh cho biết trong khi tình
hình Nam Hải căng thẳng, ở mức độ nào đó Mỹ phấn khởi, vì như vậy sẽ có
lợi cho Mỹ, đối với Trung Quốc là bất lợi. Nhưng tình hình Đông Bắc Á
lại không như vậy. Cả Hàn Quốc và Nhật Bản đều là đồng minh của Mỹ, nếu
tình hình khu vực này quá rối ren sẽ xảy ra nhiều mâu thuẫn, thậm chí
còn khuấy lên Chủ nghĩa dân tộc, như vậy cũng không đảm bảo được cho lợi
ích của bản thân nước Mỹ.
2. Chuyến thăm dàn xếp
Đây là chuyến thăm Trung Quốc thứ hai của bà H.
Clinton trong năm nay, chuyến thăm được quan tâm trong thời điểm tranh
chấp liên quan vấn đề Nam Hải và Điếu Ngư tăng lên.
Là nước đồng minh của Nhật Bản, Mỹ không những
nhiều lần tuyên bố “Hiệp ước đảm bảo an ninh Nhật – Mỹ” sẽ áp dụng thích
hợp cho đảo Điếu Ngư, mà gần đây Mỹ còn tổ chức diễn tập quân sự liên
hợp “chống cướp đảo”, Chính phủ Mỹ còn thừa nhận dùng âm đọc trong từ
ngữ Nhật Bản để gọi đảo Điếu Ngư là Senkaku. Trong khi va chạm giữa ba
nước Trung Quốc – Mỹ – Nhật Bản xung quanh vấn đề đảo Điếu Ngư không
ngừng diễn ra, các phương tiện truyền thông đồn đoán rộng rãi rằng đảo
Điếu Ngư sẽ là chủ đề đầu tiên mà bà Clinton sẽ vấp phải trong chuyến
thăm.
Báo “Liên hợp buổi sáng” của Xinhgapo đưa tin
nhiệm vụ số một trong chuyến thăm Trung Quốc của Ngoại trưởng Clinton là
đề phòng Trung Quốc và Nhật Bản sử dụng sức mạnh quân sự do tranh chấp
đảo Điếu Ngư gây ra, tránh cho lợi ích ngoại giao và lợi ích chiến lược
của Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương bị ảnh hưởng nhiều.
Trong vấn đề đảo Điếu Ngư, ngoài va chạm giữa
Trung Quốc và Nhật Bản, thái độ của Mỹ cũng khiến một số dư luận và các
nhà quan sát phê phán. Theo tin của Tân Hoa Xã, Ted Carpenter – Nghiên
cứu viên cao cấp về chính sách quốc phòng và ngoại giao thuộc Hội học
thuật Cato (Cato Institute) ở Mỹ cho biết lập trường của Chính phủ Mỹ tự
mâu thuẫn trong vấn đề này.
Capenter nói “bởi phương thức duy nhất mà Hiệp
ước đảm bảo an ninh Mỹ – Nhật áp dụng thích hợp cho đảo Điếu Ngư là Mỹ
coi Điếu Ngư là lãnh thổ Nhật Bản, vì thế tôi không biết lập trường của
Mỹ trong vấn đề này sẽ thống nhất trong cách nói như thế nào”. Carpenter
cho rằng ý đồ thực sự của Mỹ trong vấn đề đảo Điếu Ngư là hi vọng thấy
được lập trường của Nhật Bản thắng thế. Về mặt sách lược, khả năng kiểm
soát đảo Điếu Ngư của Nhật Bản lớn hơn Trung Quốc, Mỹ hi vọng sẽ giữ
nguyên trạng nhưng mặt khác, Mỹ không muốn vì thế mà quan hệ với Trung
Quốc xảy ra khủng hoảng.
Ngày 3/9, tại buổi họp báo thường kỳ, Người phát
ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi cho biết trong vấn đề đảo Điếu
Ngư, “Hiệp ước đảm bảo an ninh Mỹ – Nhật” là di sản của của thời kỳ
chiến tranh Lạnh, không nên vượt quá phạm trù song phương, không được
gây tổn hại cho lợi ích của bên thứ ba, hi vọng Mỹ thực sự thể hiện thái
độ trung lập trong vấn đề này.
Trương Uẩn Lĩnh nói “vấn đề đảo Điếu Ngư chủ yếu
vẫn là vấn đề giữa Trung Quốc và Nhật Bản, nhưng phía sau có nhân tố Mỹ.
Trung Quốc sẽ tỏ rõ thái độ phản đối Mỹ phối hợp phòng vệ”, đồng thời
cho rằng nếu theo cách nói của Mỹ thì cặp quan hệ Nhật – Mỹ là hết sức
quan trọng đối với Mỹ, nhưng cụ thể Mỹ sẽ đảm nhận nghĩa vụ bảo vệ an
ninh như thế nào, vấn đề này sẽ được quyết định bởi phán đoán của bản
thân nước Mỹ. Trong vấn đề đảo Điếu Ngư, Mỹ sẽ không có bất cứ cam kết
nào, nhưng sẽ nhấn mạnh lập trường không đứng về bên nào trong vấn đề
chủ quyền, có nghĩa vụ đảm bảo an ninh đối với đảo Điếu Ngư, và hi vọng
hai bên giải quyết hòa bình.
Trương Uẩn Lĩnh cho rằng việc Mỹ quan tâm nhất là
không để tình hình khu vực mở rộng và không để Mỹ bị cuốn hút vào. “Nếu
làm to chuyện quá, đồng minh của Mỹ nhiều như vậy sẽ đều mong muốn nhảy
vào can thiệp”.
Nghê Phong nói “trong vấn đề Nam Hải và đảo Điếu
Ngư, các bên đều biết rõ điểm giới hạn của nhau”, đồng thời chỉ rõ việc
phát triển đến mức độ nào đó sẽ phải kìm xuống, tất cả đều không muốn
cho vấn đề bùng nổ.
3. Tái cấu trúc chiến lược
Đối với rất nhiều báo chí và dư luận, chuyến thăm
châu Á – Thái Bình Dương của Clinton lần này vẫn để lộ rõ ý đồ nhằm vào
Trung Quốc.
Theo tờ “The Financial Times” của Anh, chuyến
thăm của bà H. Clinton cho thấy Nam Thái Bình Dương đang trở thành một
bộ phận để Mỹ và Trung Quốc đọ sức toàn diện nhằm tranh giành ảnh hưởng
địa chính trị ở khu vực châu Á.
Tạp chí “Nhà ngoại giao” của Nhật Bản cho hay bà
H. Clinton quyết định tham gia Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương,
cho thấy địa vị chiến lược của Nam Thái Bình Dương ngày càng quan trọng,
việc bà Clinton tham gia diễn đàn có thể cũng là sự đáp trả của Mỹ
trước ảnh hưởng đang ngày càng mở rộng của Trung Quốc ở khu vực này.
Theo tờ “Los Angeles Times” của Mỹ, mục tiêu
chiến lược trở lại châu Á của Mỹ là Trung Quốc. Mỹ cho rằng Ôxtrâylia –
đồng minh lớn nhất của mình ở khu vực này đã không đủ lực để kiềm chế
Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong khi tham gia Diễn đàn các quốc
đảo Nam Thái Bình Dương ngày 31/8, bà H. Clinton phát biểu rằng “châu Á –
Thái Bình Dương đủ rộng để chứa cả nước Mỹ và Trung Quốc”, đồng thời
nhấn mạnh Mỹ hoạt động nhiều ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương không
phải nhằm vào quốc gia đặc biệt nào.
Theo Trương Uẩn Lĩnh, thái độ lần này của bà
Clinton là một cách đáp lại Trung Quốc. Tháng 2 năm nay, trước khi khởi
hành đi thăm Mỹ, khi trả lời phỏng vấn của “Washington Post”
bằng văn bản, Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã nói rõ “Thái Bình
Dương đủ rộng để dung nạp hai nước Trung – Mỹ. Vì vậy, đó cũng là một
cách đáp lại Trung Quốc, chứng tỏ bà Clinton tán đồng với quan điểm của
Trung Quốc. Ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Trung Quốc và Mỹ không
phải cứ mỗi nước phải ở một chỗ, mà là một kiểu quan hệ cùng chung sống”
“The Financial Times” đưa tin, những năm gần đây
tiềm lực của Trung Quốc tăng mạnh ở khu vực Nam Thái Bình Dương. Theo
con số của Viện nghiên cứu chính sách quốc tế Lowy ở Ôxtrâylia, viện trợ
và các khoản cho vay mềm của Trung Quốc đối với khu vực Nam Thái Bình
Dương đã tăng từ 23 triệu USD năm 2005 lên 200 triệu USD hiện nay.
Tuilaepa, Thủ tướng Samoa gần đây cho biết so với Mỹ, Trung Quốc là
người bạn tốt hơn của các nước Nam Thái Bình Dương, Trung Quốc viện trợ
linh hoạt, còn Mỹ thì “chỉ hào hứng với những nơi nào có chiến tranh”.
Trương Uẩn Lĩnh cho rằng trước đây Mỹ không hề
coi trọng Diễn đàn các quốc đảo Nam Thái Bình Dương, nhưng Trung Quốc
gần đây lại luôn là đối tác quan trọng của Diễn đàn này. Ảnh hưởng của
Trung Quốc ở khu vực này đang từng bước mở rộng. Nhân tố Trung Quốc ở
các khu vực Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương đã nổi lên rõ, chiến lược
trở lại châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ chắc chắn sẽ phải cân bằng với
Trung Quốc, kiềm chế vai trò chủ đạo của Trung Quốc.
Tuy nhiên, Trương Uẩn Lĩnh không đồng tình với
những dư luận theo cách hiểu cho rằng đó là sự “bao vây Trung Quốc”, mà
“từ khi có cuộc chiến chống khủng bố đến nay Mỹ quả thực đầu tư vào
những khu vực này rất ít, mọi nguồn lực chủ yếu chỉ tập trung cho những
khu vực khác. Một số lợi ích truyền thống của Mỹ đang suy yếu đi, ví dụ
như Đông Nam Á, Nam Thái Bình Dương, không còn chỗ nào đế Mỹ quan tâm
đến, việc trở lại như hiện nay là trở lại tăng cường và khôi phục sự có
mặt của nước Mỹ ở khu vực này”.
Kim Xán Vinh nhìn nhận một nhiệm vụ quan trọng
khác trong chuyến thăm châu Á – Thái Bình Dương của bà H. Clinton lần
này là giải thích lại và cấu trúc lại chiến lược “trở lại châu Á” của
Mỹ, vì xét từ thời điểm hiện nay, “trở lại châu Á” đã dẫn đến một số vấn
đề phiền phức. Trước hết là dẫn đến sự căng thẳng của Trung Quốc, tính
đến nay Trung Quốc đã tương đối kiềm chế, không có động tác nào lớn
nhưng dư luận Trung Quốc rất bất bình, Mỹ cần chú ý đến điểm này và phải
có một số điều chỉnh. Kim Xán Vinh nêu rõ, điều quan trọng hơn nữa là ở
trong nước Mỹ đã tỏ ra nghi ngờ về chính sách này của Mỹ.
Mới đây, tờ “The Wall Street Journal”, đại diện
cho giới thương gia, đã bắt đầu phê phán chính sách “trở lại châu Á”
thật là trống rỗng. không có kết quả thực chất mà đem lại một núi phiền
phức.
Trương Uẩn Lĩnh cho biết đứng trước chiến lược
“trở lại châu Á” của Mỹ, Trung Quốc cần điều chỉnh lại thái độ. “Một mặt
phải thấy được sự thách thức đối với chúng ta,muốn nâng cao lợi ích của
nước Mỹ thì phải làm yếu đi sự hiện diện của Trung Quốc. Mặt khác, cũng
phải bình tĩnh xử lý, đó là một kiểu quan hệ đa tầng chứ không phải là
một tai nạn, các nước khác ở châu Á muốn phát triển quan hệ cũng không
thể hoàn toàn coi thường Trung Quốc”.
Theo quan điểm của Trương Uẩn Lĩnh, việc Mỹ “trở
lại châu Á”, nâng cao sự hiện diện và củng cố lợi ích của họ ở khu vực
này, có thể là xu hướng phát triển trong thời gian rất dài tới đây,
Trung Quốc cần đối phó tích cực, “nhưng nếu hiểu quá cặn kẽ, quá cảnh
giác thì có khả năng sẽ đi đến một hướng đối đầu”.
***
Ngày 10/9, trang “Tin tức Trung Quốc” đăng bài viết “Khó khăn của Nhật Bản khi quay lại châu Á” của tác giả Bào Thịnh Cương, có nội dung như sau:
Cốt lõi trong chiến lược quay trở lại châu Á của
Nhật Bản là liên minh Nhật – Mỹ, mục tiêu một là kiềm chế Trung Quốc
trỗi dậy, hai là hồi sinh tham vọng của Nhật Bản tại khu vực châu Á –
Thái Bình Dương. Rõ ràng Mỹ quay trở lại châu Á được Nhật Bản cho là
thời cơ đổi vận ngàn năm khó gặp, hoàn toàn đã quên những năm 1980 của
thế kỷ trước, đây là thời kỳ Mỹ thổi phồng thuyết về mối đe dọa từ Nhật
Bản và tiến hành kiềm chế Nhật Bản, khiến cho Nhật Bản lâm vào tình
trạng mất phương hướng trong hơn 20 năm. Nhật Bản quay trở lại châu Á,
tham vọng tràn trề, xuất quân mọi hướng thì tại sao Nhật Bản đột nhiên
lại rơi vào hoàn cảnh khó khăn, đối mặt với bốn bề trở ngại?
Thứ nhất, Nhật Bản đã sai lầm khi lý giải và tính
toán ý đồ và thực lực khi quay trở lại châu Á của Mỹ, kiềm chế của
Trung Quốc trỗi dậy là mục tiêu chiến lược chung của Mỹ và Nhật Bản,
trong khi thực lực của Nhật Bản không thể bằng Mỹ, đối với sự trỗi dậy
hòa bình của Trung Quốc, kẻ thù lớn nhất rõ ràng là Mỹ và Nhật Bản. Dư
luận Nhật Bản phổ biến cho rằng Mỹ quay trở lại châu Á – Thái Bình Dương
là nhằm cân bằng với sự trỗi dậy ngày càng nhanh của Trung Quốc. Do lo
ngại thực lực quân sự của Trung Quốc tăng nhanh, nên việc Mỹ muốn mở
rộng sự hiện diện tại châu Á hiển nhiên là một cơ hội thuận lợi đối với
Nhật Bản. Từ Chính phủ đến các phương tiện truyền thông Nhật Bản đều vui
mừng, cho rằng Mỹ muốn liên kết với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và
Ôxtrâylia hình thành vành đai bao vây đối với Trung Quốc. Với phán đoán
như vậy, Nhật Bản đã phối hợp với chiến lược quay trở lại châu Á – Thái
Bình Dương của Mỹ, sẵn sàng thỏa hiệp trên nhiều vấn đề. Mỹ quay trở lại
châu Á trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và kinh tế suy thoái, lại
thiếu nguồn tài nguyên cần thiết mà to lớn để thực hiện chiến lược
“chuyển hướng này”, điều này đã quyết định tính hạn chế và tính không
bền vững của nguồn tài nguyên chiến lược quay trở lại châu Á của Mỹ. Mỹ
hi vọng thông qua Nhật Bản và các nước đồng minh châu Á khác gánh vác
một phần áp lực, bản thân đứng đằng sau thực hiện chính sách trung lập
và cân bằng hai bờ (Đông – Tây Thái Bình Dương), đổ thêm dầu vào lửa.
Trong khi Nhật Bản có tính toán của riêng mình, muốn lợi dụng việc Mỹ
quay trở lại châu Á, cậy thế bắt nạt người, không chỉ muốn kiềm chế
Trung Quốc, mà còn hi vọng qua đó làm hồi sinh tham vọng của mình tại
châu Á, rõ ràng, tính toán của Mỹ là vì lợi ích bản thân, lợi dụng Nhật
Bản và đồng minh kiềm chế Trung Quốc, tránh được việc mình phải trực
tiếp can dự và bỏ phí đầu tư, vì Mỹ đã không còn đủ sức để đảm đương một
cuộc chiến tranh khác, trong khi suy nghĩ và hành động của Nhật Bản rõ
ràng là hơi quá mức, nếu không có sự can dự và ủng hộ của toàn lực Mỹ,
Nhật Bản tự mình có thể làm được gì?
Thứ hai, Nhật Bản đã sai lầm khi đánh giá sức
mạnh của mình, cho rằng theo đuôi Mỹ sẽ có thể hoành hành ngang ngược,
không chỉ tăng bốc phát triển sức mạnh quân bị, mà còn xuất quân bốn
phía, không đã đắc tội với Trung Quốc, mà còn đắc tội với Nga và Hàn
Quốc, khiến các nước xung quanh có tâm lý cảnh giác và có hành động đáp
trả đối với Nhật Bản, cho nên Nhật Bản lâm vào hoàn cảnh khốn cùng bốn
phía, hoàn toàn là do tự chuốc vạ vào thân, gieo gió gặp bão. Tháng
4/2012, Thủ tướng Nhật Bản Noda tiến hành hội đàm với Tổng thống Mỹ
Obama tại Oashinhtơn, đồng thời ra tuyên bố chung “Kế hoạch chung hướng
tới tương lai”. Tuyên bố này kêu gọi từng bước tăng cường bảo đảm an
ninh và hợp tác kinh tế, làm sâu sắc liên minh Mỹ – Nhật nhằm duy trì ổn
định và thịnh vượng của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đứng trên
trận tuyến “quay trở lại châu Á – Thái Bình Dương” của Mỹ, hai bên tỏ rõ
Mỹ và Nhật Bản sẽ bắt tay giữ vai trò chủ đạo trật tự mới của khu vực
này. Đối với Trung Quốc, Nhật Bản theo đuôi Mỹ thổi phồng thuyết về mối
đe dọa từ Trung Quốc, thực chất là tìm cớ để bành trướng. Phối hợp với
Mỹ xây dựng vòng đai bao vây chuỗi đảo đối với Trung Quốc lấy liên minh
Mỹ – Nhật làm hạt nhân. Can dự vào Nam Hải (Biển Đông), gây mâu thuẫn và
chia rẽ giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực nhằm kiềm chế Trung
Quốc, gia tăng các hành động đối với đảo Điếu Ngư.
Bên cạnh đó, thái độ của Nhật Bản, Nga và Hàn
Quốc trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ biển đảo cũng có xu hướng cứng
rắn, Nhật Bản cho rằng Mỹ quay trở lại châu Á tạo cơ hội tốt cho Nhật
Bản, nếu thời điểm này không giải quyết và thu hồi đảo tranh chấp, sau
này sẽ không còn cơ hội, sự thật chứng minh điều này là một sai lầm.
Cuối cùng, Nhật Bản sai lầm khi đánh giá lập
trường và sự lựa chọn của các quốc gia châu Á đối với Trung Quốc, cho dù
Mỹ và Nhật Bản ra sức kích động, gây chia rẽ quan hệ giữa Trung Quốc
với các quốc gia châu Á, mưu cầu bảo đảm châu Á tiếp tục thịnh vượng và
phát triển chung, mong muốn cô lập Trung Quốc, kết quả lại khiến Mỹ và
Nhật Bản tự rơi vào hoàn cảnh bị cô lập. Mỹ và Nhật Bản quay trở lại
châu Á, mục đích quá rõ ràng là nhằm kiềm chế Trung Quốc, nhưng dựa vào
đồng minh, dựa vào diễn tập quân sự, dựa vào chút ít hành động là có thể
kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy sao? Sự thật chứng minh Mỹ – Nhật nằm ở
quân sự và chiến lược kiềm chế, chiến lược này kéo dài từ thời kỳ Chiến
tranh Lạnh, tư tưởng cốt lõi là chủ nghĩa tiến công hiện thực, nhưng
Trung Quốc đã áp dụng chiến lược mang tính phi đối xứng, nhằm đợi đối
thủ mệt mỏi mới tấn công, tránh được mũi đao đâm trực diện. Ngoài ra,
hiện nay Trung Quốc không chỉ là động cơ phát triển kinh tế thế giới, mà
còn là nước thúc đẩy sự phát triển chung và thịnh vượng của các quốc
gia châu Á, sự phát triển kinh tế giữa các quốc gia châu Á với Trung
Quốc có mối liên quan chặt chẽ, nhu cầu của các quốc gia châu Á là một
khu vực hòa bình, ổn định, kinh tế phát triển và thịnh vượng chứ không
phải là xung đột và bất ổn, bị trói buộc trên chiến xa của Mỹ, trở thành
kẻ đầy tớ và vật hi sinh cho lợi ích của Mỹ.
Mỹ quay trở lại châu Á thực sự là một thời cơ tốt
để Nhật Bản đổi vận, nhưng sai lầm của Nhật Bản là: một là đánh giá quá
cao ý đồ chiến lược và thực lực quay trở lại châu Á của Mỹ, sự thật, Mỹ
đã không còn là nước Mỹ trước đây; hai là Nhật Bản đánh giá quá cao
thực lực của mình, bộc lộ quá sớm ý đồ chiến lược và dã tâm khu vực, từ
đó dẫn đến tâm lý cảnh giác của các nước xung quanh; ba là Nhậ Bản quá
vội vàng lạc quan cho rằng chỉ cần theo đuôi Mỹ, thổi phồng thuyết về
mối đe dọa từ Trung Quốc, là có thể hình thành liên minh chống Trung
Quốc lấy Mỹ – Nhật làm hạt nhân, khiến cho Trung Quốc bị rơi vào thế cô
lập và bị gạt ra rìa, từ đó kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Sai lầm
về chiến thuật có thể sửa chữa, phán đoán sai lầm về chiến lược sẽ dần
trở thành tai họa không thể cứu vãn, việc đánh giá sai lầm đối với chiến
lược quay trở lại châu Á của Mỹ làm cho Nhật Bản đi hết sai lầm này đến
sai lầm khác, dẫn đến bốn bề đều gây thù địch, cuối cùng rơi vào tình
thế khó khăn, mưu đồ kiềm chế và cô lập Trung Quốc nhưng ngược lại chính
Nhật Bản lại bị cô lập và bị gạt ra rìa.