Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

16. Phát triển quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc

21:42' 24/7/2013
TCCSĐT - Thực hiện đường lối đổi mới và chính sách mở cửa, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp nhằm biến biên giới Việt - Trung thành biên giới của hoà bình, hữu nghị, đoàn kết và hợp tác, trong đó phát triển thương mại, mở rộng giao lưu kinh tế được xem là một trong những giải pháp quan trọng.


Về quy mô xuất, nhập khẩu
Từ kim ngạch gần 3 tỷ USD vào năm 2000, hai nước đã đưa ra mục tiêu kim ngạch buôn bán hai chiều 5 tỷ USD vào năm 2005 (tăng bình quân hơn 11,1%/năm), nhưng mục tiêu này hầu như đã bị “đổ” ngay từ năm 2003, khi kim ngạch đã lên tới 4,87 tỷ USD. Đến năm 2005, kim ngạch buôn bán hai chiều đạt 8,739 tỷ USD (cao gấp 1,75 lần), tăng trưởng bình quân 19,79%/năm. Năm 2006, với kim ngạch buôn bán hai chiều đạt con số 10,421 tỷ USD - “ngưỡng” 10 tỷ USD cũng đã bị vượt qua.
Năm 2010, Trung Quốc lần đầu tiên chính thức trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam (kim ngạch buôn bán hai chiều đạt 27,328 tỷ USD). Việt Nam trở thành bạn hàng lớn thứ 5 của Trung Quốc trong khối các nước ASEAN. Năm 2012, nước ta nhập siêu từ Trung Quốc trên 16,4 tỷ USD. Trong 6 tháng đầu năm 2013, kim ngạch nhập khẩu cả nước xấp xỉ 63,45 tỷ USD, trong đó nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc gần 17 tỷ USD (chiếm 26,8%), nhưng xuất khẩu vào Trung Quốc chỉ đạt 6,0 tỷ USD (chiếm 9,7% xuất khẩu của cả nước), số nhập siêu là 11,0 tỷ USD.
Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) được ký kết ngày 29-11-2004, có hiệu lực từ đầu năm 2005 và các nước bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế từ ngày 01-7-2005. Về cơ bản, nhiều mặt hàng sẽ được đưa về thuế suất 0% và Việt Nam hoàn toàn mở cửa thị trường vào năm 2015. Với những ưu đãi về thuế quan từ ACFTA, nhiều nước thuộc khối ASEAN như Malaysia, Thái Lan, Philippines... đang xuất siêu vào Trung Quốc, cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất điện tử, cơ khí… Trong khi đó, nhập siêu của Việt Nam từ thị trường này lại ngày càng gia tăng. Có thể nhận xét:
Quy mô nhập siêu từ thị trường Trung Quốc ngày càng lớn cả về giá trị và tỷ lệ tương đối
Nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc của Việt Nam bắt đầu gia tăng mạnh từ năm 2000. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, vượt qua cả Nhật Bản và Hàn Quốc. Tỷ trọng nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ năm 2000 đến nay liên tục gia tăng (năm 2000 - 2005 - 2010 - 2012 các tỷ lệ tương ứng là 8,9 - 16,0 - 23,8 - 25,3%), lớn hơn bất kỳ một nước hay khu vực nào khác. Tốc độ tăng nhập khẩu từ Trung Quốc cao hơn nhiều tốc độ tăng xuất khẩu sang thị trường này.
Tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu từ Trung Quốc luôn lớn hơn tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu chung của cả nước
Năm 2001 tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu từ Trung Quốc là 14,9% trong khi tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu của cả nước là 7,9%. Từ năm 2007, các cặp số tương ứng vẫn “tuân thủ quy luật” đó nhưng độ doãng cách lớn hơn. Năm 2007 là: 272,4 và 29,3%; năm 2008 là: 277,5% và 28,8%; năm 2009 là: 234,9% và 22,5%. Từ năm 2010, tình hình có cải thiện nhưng vẫn đứng ở mức cao (năm 2010: 173,9% và 17,5%; năm 2011: 128,6% và 10,2%; năm 2012: 101,2% và 0,2%).
Nhập siêu từ Trung Quốc chiếm phần lớn nhập siêu của Việt Nam
Tuy nhiên, chúng ta chủ yếu nhập khẩu ở thị trường này những công nghệ, kỹ thuật trung bình và thấp, sao chép nên không tranh thủ được nguồn hàng từ những quốc gia có nền công nghệ, kỹ thuật nguồn hàng đầu thế giới. Nếu kể cả thương mại dịch vụ, bao gồm ngân hàng, du lịch, viễn thông và mua điện thì chắc chắn thâm hụt thương mại của Việt Nam còn cao hơn số liệu đã được Hải quan Việt Nam và Hải quan Trung Quốc công bố và tình trạng nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc rất khó để khắc phục.
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Trung Quốc hiện đang là một trong những thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của Việt Nam, với nhiều mặt hàng như gạo, sắn lát, cao su thiên nhiên, các loại rau và hoa quả, hạt điều và thủy, hải sản...
Ngoài than đá, giày dép, khoáng sản (quặng sắt, đồng, titan...), sản phẩm nhựa,... hiện nay, Trung Quốc đang là bạn hàng nhập khẩu số một về gạo, cao su, hạt điều, là nước nhập khẩu thuỷ sản thứ 3 và nhập khẩu trên 56% giá trị rau quả tươi xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, một số mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam cũng bắt đầu thâm nhập và từng bước mở rộng thị phần trên thị trường Trung Quốc như hàng dệt may, linh kiện điện tử,... Trong những năm gần đây, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Trung quốc đã không ngừng được mở rộng cả về quy mô và chủng loại.
Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu
Số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy, cơ cấu của từng nhóm mặt hàng trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc vẫn khá ổn định qua từng năm. Trong các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc, có khoảng 30 mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD, trong đó có 6 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (lớn nhất là máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; tiếp đến là điện thoại các loại và phụ tùng; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; vải; sắt thép; xăng dầu...).
Có một số mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc có kim ngạch chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng tương ứng của cả nước, như: khí đốt 53,2%, phân bón 50,7%, rau hoa quả 48,8%, thuốc trừ sâu 46,1%, điện thoại các loại và linh kiện 45,4%, vải 43,4%, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng 32,2%, nguyên phụ liệu dệt may da 30,2%, sắt thép 29,5%, hoá chất 27%, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 26,6%, xơ sợi 26,4%, ô tô nguyên chiếc 25,1%,...
Đa phần các nguyên liệu nhập từ Trung Quốc đều là sản phẩm đầu vào của các hàng xuất khẩu trong chuỗi sản xuất toàn cầu. Đối với nhóm hàng hoá máy móc thiết bị, Việt Nam ưa chuộng hàng Trung Quốc bởi công nghệ của Trung Quốc thường không quá đắt và phù hợp với tài chính của các doanh nghiệp trong nước. Một nguyên nhân quan trọng nữa khiến cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị từ Trung Quốc tăng mạnh là do các nhà thầu Trung Quốc liên tục thắng thầu ở các công trình lớn và quan trọng tại Việt Nam, chủ yếu là xây dựng các nhà máy nhiệt điện, phân đạm, ximăng, bôxít, đường sắt… Tính đến tháng 4-2012, Trung Quốc trúng thầu 13 dự án nhiệt điện (tổng thầu EPC), chiếm tới 30% công suất toàn ngành điện; 49/62 dây chuyền dự án xi măng; 5/6 dự án phân đạm; dự án bôxít và nhiều dự án nhỏ và vừa khác. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng kim ngạch nhập khẩu.
Với chi phí nhân công tại Trung Quốc thấp, máy móc thiết bị rẻ hơn và sự hỗ trợ từ chính sách tỷ giá đồng NDT yếu, các doanh nghiệp Trung Quốc cạnh tranh hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài khác và các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề giá bỏ thầu. Các gói thầu mà doanh nghiệp Trung Quốc trúng thường được thực hiện theo hình thức EPC, tức là các nhà thầu Trung Quốc sẽ làm trọn gói từ khâu thiết kế, mua sắm thiết bị đến xây dựng. Các chủ đầu tư trong nước chỉ làm nốt công đoạn cuối là vận hành và sử dụng. Một số công trình lớn của Việt Nam đang do các nhà thầu Trung Quốc đảm nhận bao gồm: nhà máy đạm Cà Mau, nhiệt điện Hải Phòng 1 và 2; nhiệt điện Quảng Ninh 1 và 2, nhiệt điện Kiên Lương, dự án đường sắt nội đô Hà Nội gói thầu 350 triệu USD, dự án dây chuyền 2 ximăng Nghi Sơn và ximăng Công Thanh, dự án cao tốc Bắc Nam đoạn Sài Gòn - Long Thành - Dầu Giây, dự án khai thác bôxít Tây Nguyên và nhiều dự án khác,…
Do các ngành hỗ trợ sản xuất nguyên vật liệu phục vụ xuất khẩu của Việt Nam chưa phát triển nên Việt Nam phải nhập khẩu từ Trung Quốc. Sự phụ thuộc này là một lẽ tự nhiên bởi Trung Quốc ở gần Việt Nam. Khoảng cách địa lý thuận lợi sẽ giúp cho việc vận chuyển hàng hoá dễ dàng với chi phí thấp. Hơn nữa, sản phẩm sản xuất trong nước lại không phải đáp ứng các chất lượng tiêu chuẩn khắt khe của hàng xuất khẩu nên việc lựa chọn các máy móc thiết bị từ Trung Quốc là phù hợp. Còn với các hàng hoá xuất khẩu, Việt Nam thường xuất thô hoặc xuất khẩu hàng sơ chế nên các máy móc sản xuất cũng không yêu cầu quá phức tạp, và việc lựa chọn thiết bị nhập khẩu từ Trung Quốc có thể giúp giảm chi phí đầu tư lớn.
Đáng ngạc nhiên hơn, Trung Quốc cũng bán hoa quả và rau cho Việt Nam với tổng giá trị gấp 3 lần mức mà nước này mua từ Việt Nam. Việt Nam là thị trường bên ngoài hoàn hảo cho hàng hóa Trung Quốc vì điều kiện kinh tế tương đồng, văn hóa tiêu dùng và chi phí vận chuyển thấp.
Con số kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của nước ta từ thị trường Trung Quốc lớn hơn gấp nhiều lần kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này qua các năm cho thấy một thực tế: dù thị trường nước ta còn rất nhỏ, nhưng các doanh nghiệp Trung Quốc đã khai thác thị trường Việt Nam tốt hơn nhiều so với những gì các doanh nghiệp nước ta làm được từ thị trường này.
Nếu như thâm hụt thương mại về số lượng đặt ra những vấn đề nghiêm túc về cân đối tài khoản vãng lai giữa hai nền kinh tế thì cơ cấu hàng xuất, nhập khẩu lại cho thấy chất lượng của trao đổi thương mại giữa hai nước ngày càng bất lợi cho phía Việt Nam. Tuy nhiên, nhập siêu từ thị trường Trung Quốc không hoàn toàn mang tính tiêu cực. Cần thấy rằng đây là vấn đề mang tính khách quan, lịch sử và cũng có phần tích cực.
Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc là vấn đề mang tính chiến lược của nước ta hiện nay do Trung Quốc - một nền kinh tế mang tính “công xưởng” của thế giới sẽ còn tiếp tục duy trì tốc độ phát triển cao trong những năm tới. Vấn đề đặt ra là: nếu như cơ cấu hàng hoá xuất khẩu không có những đột phá và bước chuyển mạnh mẽ, xu thế suy giảm tốc độ xuất khẩu sang thị trường này sẽ là điều khó tránh khỏi.
Ngoài ra, trong quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn còn một số hạn chế có thể kể ra là:
- Khung khổ pháp lý cho trao đổi thương mại đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn còn một số vấn đề vướng mắc như trong việc thực hiện Hiệp định ACFTA, quản lý hàng hoá trao đổi qua biên giới,...
- Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội để khai thác tốt các cơ hội thâm nhập thị trường Trung Quốc trong bối cảnh phía Trung Quốc mở cửa thị trường, thực hiện cam kết chung trong Chương trình thu hoạch sớm, đặc biệt là đối với mặt hàng nông sản, thuỷ sản của Việt Nam mà các tỉnh Tây Nam Trung Quốc có nhu cầu lớn.
- Thương mại chưa thật sự gắn với đầu tư và chuyển giao công nghệ. Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội đầu tư từ Trung Quốc để xuất khẩu sang thị trường này và các thị trường khác.
- Mặc dầu có lợi thế về vị trí địa kinh tế, nhưng Việt Nam vẫn chưa khai thác triệt để yếu tố này để tăng kim ngạch xuất khẩu. Lượng hàng hoá của Trung Quốc quá cảnh qua Việt Nam vẫn còn nhỏ bé. Đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông để kết nối với hệ thống giao thông của Trung Quốc vẫn còn nhiều mặt bất cập và hạn chế.
Bối cảnh và những vấn đề đặt ra
Thị trường Trung Quốc có 4 đặc điểm lớn. Thứ nhất, đây là thị trường khổng lồ với dân số gần 1,4 tỷ người, có nhu cầu rất lớn phục vụ ổn định đời sống người dân và xã hội trước mắt cũng như các nhu cầu dự trữ chiến lược trong trường hợp thiên tai, biến đổi khí hậu,... Trung Quốc còn là công xưởng lớn nhất thế giới, có nhiều nhu cầu nhập khẩu đối với tất cả các loại nguyên, nhiên vật liệu, khoáng sản, nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, tiêu dùng trong nước, cho gia công xuất khẩu.
Thứ hai, Trung Quốc là thị trường láng giềng lớn nhất của Việt Nam. Hai nước có chung đường biên giới dài trên 1.353 km với 8 cặp cửa khẩu quốc tế và 13 cặp cửa khẩu chính cùng nhiều cửa khẩu phụ và chợ đường biên. Phong tục, tập quán, nền văn hoá có nhiều nét tương đồng. Hệ thống chính trị và mô hình phát triển kinh tế có những điểm giống nhau. Mô hình phát triển kinh tế đều hướng ra xuất khẩu. Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu có nhiều nét giống nhau. Thương mại hai bên được tiến hành theo nhiều phương thức mậu dịch phong phú (chính ngạch, buôn bán qua biên giới, tạm nhập tái xuất, quá cảnh, chuyển khẩu, trao đổi hàng hoá giữa cư dân biên giới hai nước).
Thứ ba, đây là thị trường có nhu cầu đa dạng. Nhu cầu giữa các vùng, miền ở Trung Quốc khác nhau. Các tỉnh Đông Bắc và khu vực miền Trung có nhu cầu thường xuyên về rau quả nhiệt đới, thực phẩm, đồ uống chế biến từ nguyên liệu hoa quả nhiệt đới. Miền Tây Nam Trung Quốc có nhu cầu thường xuyên về thuỷ hải sản do không có biển. Miền Đông và các đặc khu kinh tế cần nhiều loại sản phẩm cao cấp từ các nước láng giềng phía Nam; đồ gỗ cao cấp, thuỷ hải sản tươi sống cao cấp, hoa quả nhiệt đới cao cấp. Các tỉnh phía Nam và giáp biên thường xuyên có nhu cầu về than, khoáng sản (do vận chuyển từ phía Bắc xuống không hiệu quả).
Thứ tư, đây là thị trường đang phát triển. Hiện Trung Quốc đang hoàn thiện dần thị trường trao đổi hàng hoá tại các đô thị, trung tâm kinh tế thông qua hệ thống chợ bán buôn, chợ đầu mối và hệ thống siêu thị, chuỗi cửa hàng tiện ích. Thị trường nông thôn Trung Quốc với hơn 700 triệu người tiêu dùng chủ yếu vẫn thông qua hệ thống chợ truyền thống và hệ thống hơn 2 vạn cửa hàng “Lợi dân” do Bộ Thương mại Trung Quốc xây dựng và quản lý tại các địa phương từ cấp xã trở lên.
Nhận định về thị trường Trung Quốc, nhà nghiên cứu, TS. Alan Phan cho rằng, đây là một thị trường rất rộng lớn và phức tạp, phân khúc không đồng đều. Ngay tại các thành phố lớn, dù lượng người giàu tăng lên nhanh chóng nhưng người dân nghèo vẫn rất nghèo, không kém ở những vùng thôn quê. Khi xây dựng chiến lược kinh doanh với thị trường Trung Quốc, cần phải xác định cụ thể xem doanh nghiệp muốn thâm nhập vào phân khúc thị trường nào. Các doanh nghiệp Việt Nam nên chủ động tìm hiểu đối tác bằng cách thuê các doanh nghiệp đặc biệt của Trung Quốc có khả năng thẩm định lý lịch và khả năng tài chính của doanh nghiệp đối tác Trung Quốc.
Điểm nổi bật trong thị trường Trung Quốc là sự cạnh tranh khốc liệt. “Cái gì có thể kiếm được tiền họ đều làm hết. Điều này dẫn tới việc hàng nghìn người có thể làm giả, làm nhái một mặt hàng”. Về “luật chơi” của thị trường Trung Quốc, TS Alan Phan cho rằng nó mờ mờ, ảo ảo, mơ hồ, tùy cách diễn giải của từng người, từng địa phương. Cùng với sự cạnh tranh khốc liệt, tại thị trường này, việc liên kết giữa các đối thủ để “làm giá” là điều rất phổ biến. Các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam muốn xâm nhập thị trường rộng lớn này cần phải có sản phẩm đặc thù để tạo lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường. “Không nên bắt chước những gì họ đã làm vì nếu bắt chước thì chỉ có nước thua” - “đừng làm sản phẩm gì giống sản phẩm doanh nghiệp Trung Quốc đã làm, phải có sản phẩm đặc thù”, TS. Alan Phan đưa ra lời khuyên.
Trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, Việt Nam đóng vai trò chuyên trách cung cấp nguyên, nhiên liệu và nông sản thô, còn Trung Quốc thì xuất khẩu sản phẩm công nghiệp công nghệ thấp và trung bình cho Việt Nam với khối lượng vượt trội. Cứ 100 USD nhập từ Trung Quốc thì gần 25 USD là thiết bị máy móc, 70% tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu là hàng trung gian. Phần quan trọng nhất liên quan đến thâm hụt thương mại với Trung Quốc chính là thiết bị máy móc và hàng trung gian nhập về để sản xuất hàng tiêu dùng trong nước. Nếu xử lý được vấn đề này, có thể cải thiện được một bước cơ bản tình trạng nhập siêu.
Tháng 4-2013, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã công bố báo cáo “Đánh giá tổng thể tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam sau 5 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO” theo đó, từ năm 2007, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang hầu hết các thị trường đều tăng so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, Việt Nam thu được lợi ích ngày càng ít hơn từ xuất khẩu vào Trung Quốc. Lượng hàng trung gian nhập khẩu quá lớn phản ánh nền kinh tế Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đang phụ thuộc rất lớn vào nguồn hàng nhập từ Trung Quốc. Khả năng cạnh tranh, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam rất yếu cũng cho thấy chúng ta đang phụ thuộc vào thị trường này, cả hàng trung gian lẫn hàng tiêu dùng cuối cùng.
Triển vọng tiếp tục gia tăng nhập siêu từ Trung quốc trong những năm tới là rất lớn. Do vậy, vấn đề tìm kiếm những giải pháp để khắc phục quá trình tăng tốc nhập siêu khi quyết định tăng tốc quan hệ thương mại hai chiều lên 60 tỷ USD vào năm 2015 đã trở thành vấn đề ngày càng bức xúc.
Mặc dù có sự thâm hụt cao trong cán cân thương mại với Trung Quốc nhưng đó cũng là điều kiện cho phát triển kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường khác. Như vậy, nhập siêu cao nhưng không phải là điều quá lo lắng khi thâm hụt này được bù đắp bằng thặng dư từ các thị trường khác. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng: Nhập siêu rất lớn ở một số quốc gia châu Á, xuất siêu ở một số quốc gia ngoài khu vực này đã trở thành “căn bệnh cố hữu” của nền kinh tế nước ta.
Cơ cấu thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc là một ví dụ điển hình cho quan hệ Bắc - Nam (khái niệm trong kinh tế học được dùng để chỉ quan hệ thương mại giữa nước phát triển ở phía Bắc bán cầu và nước đang phát triển ở phía Nam), trong đó Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu, sản phẩm thô có giá trị gia tăng thấp và nhập những sản phẩm chế tác, có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao hơn do Trung Quốc sản xuất... Điều này này đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về sự phát triển kinh tế của chúng ta: thâm hụt thương mại này có thể tiếp diễn đến mức độ nào và sẽ tác động như thế nào tới nền kinh tế Việt Nam (về cán cân thanh toán quốc tế, nhất là cán cân vãng lai, việc làm và thu nhập của lao động Việt Nam...).
Xét về phương thức giao dịch, thương mại Việt Nam - Trung Quốc chủ yếu thực hiện qua đường tiểu ngạch. Buôn bán tiểu ngạch tạo thuận lợi cho doanh nghiệp giảm được thuế, tiết kiệm một số chi phí, bao bì, chất lượng hàng hoá không đòi hỏi cao, thậm chí tránh được kiểm dịch về an toàn vệ sinh. Tuy nhiên, buôn bán tiểu ngạch có nhiều điểm yếu, điểm yếu nhất là bị động, không ổn định. Yếu tố không chắc chắn trong buôn bán tiểu ngạch khiến thương mại Việt - Trung rủi ro cao và cũng tác động vào các hợp đồng thương mại chính ngạch trong nước. Buôn bán tiểu ngạch diễn ra phụ thuộc chủ yếu vào giá cả, khi giá tăng dẫn tới hiện tượng tranh mua ở thị trường trong nước, việc tranh mua đối với nhiều loại nông sản phá vỡ các hợp đồng của các đối tác đã ký hợp đồng tiêu thụ nông sản với nông dân.
Việt Nam và Trung Quốc có chỉ số thương mại trên đầu người đáng kể, nhưng với Việt Nam, tỷ lệ thương mại trên GDP là 150, gấp đôi so với Trung Quốc, chỉ là 71,3. Cấu trúc thương mại cũng rất khác biệt. Với Việt Nam, nông sản phẩm, dầu khí và các sản phẩm khai khoáng chiếm 46,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, trong khi đó, tỷ lệ này với Trung Quốc chỉ 6,7%. Sự khác biệt trong khả năng và cấu trúc kinh tế, cũng như trong tỷ trọng của mỗi nước trong kinh tế toàn cầu tạo nên khuôn khổ quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước./.
TS. Doãn Công KhánhViện Nghiên cứu Thương mại