CHỦ TỊCH TRƯƠNG TẤN SANG THĂM VIẾNG HOA KỲ
Các bài viết về việc Chủ
tịch Trương Tấn Sang thăm viếng Hoa Kỳ:
2013
1.
BBC (11-7-2013): Chủ tịch Sang
chuẩn bị thăm Hoa Kỳ.
2.
VOA (12-7-2013): Chủ tịch nước Việt Nam sang Mỹ thảo luận chiến
lược.
- RFA (12-7-2013): Mỹ sẽ nhượng bộ Việt Nam vấn đề nhân quyền?
4.
SGTT (14-7-2013): Việt – Mỹ: mở đường cho quan hệ đối tác mới.
- RFI (16-7-2013): Phát triển quan hệ Mỹ-Việt: Thời cơ đang thuận lợi.
- RFI (17-7-2013): Lợi ích chung Mỹ - Việt: Đồng pha hay lệch pha?
- ĐNO (22-7-2013): Đã tới lúc Việt - Mỹ xác lập khuôn khổ đối tác mới.
- BBC (23-7-2013): Chủ tịch Việt Nam lên đường thăm Mỹ.
- RFI (23-7-2013): Mỹ công nhận vai trò quan trọng của Việt Nam trong chính sách xoay trục qua châu Á.
- BBC (24-7-2013): Bốn kịch bản cho cuộc gặp Mỹ-Việt.
- BBC (24-7-2013): 'Việt Nam quan trọng với Hoa Kỳ'.
12. RFA (24-7-2013): Quà ngoại giao.
13. RFA (24-7-2013): Việt Nam giữa Mỹ và Trung Quốc: Trò bập bênh đau khổ.
14. VN+ (24-7-2013): Đề nghị Hoa Kỳ mở cửa thị trường cho
hàng hóa Việt.
15. NVO (25-7-2013): Ông Sang
khẳng định “muốn hợp tác toàn diện với Mỹ”.
16. VN+ (26-7-2013): Chủ tịch nước gặp lãnh đạo của Thượng
viện Hoa Kỳ.
17. TNO (26-7-2013): Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang hội đàm với Tổng thống Barack Obama: Đã đến lúc xác lập quan hệ đối tác
toàn diện.
18. TNO (26-7-2013): Tuyên bố chung của Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama.
19. VNN (26-7-2013): Bức thư đặc biệt của Việt Nam cho Tổng
thống Obama.
20. BBC (26-7-2013): Việt - Mỹ nâng cấp quan hệ.
21. RFI (26-7-2013): Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang bác bỏ yêu sách “đường 9 đoạn” của Trung Quốc
tại Biển Đông.
22. RFA (26-7-2013): Gặp gỡ Obama-Trương Tấn
Sang: hai bên cùng thắng.
23. VN+ (26-7-2013): Quốc tế đánh giá cao quan hệ toàn diện
Việt Nam-Mỹ.
*****
Chủ tịch Sang chuẩn bị thăm Hoa Kỳ
BBC
- Thứ năm, 11 tháng 7, 2013
Tin cho hay Tổng thống Barack Obama đã
chính thức mời Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang đi thăm Hoa Kỳ trong
thời gian tới.
Hãng
tin Pháp AFP dẫn nguồn từ Washington nói chuyến thăm dự tính diễn ra
trước cuối tháng này, và quan chức hai bên đang nỗ lực chuẩn bị cho
thời điểm có thể là tuần cuối tháng Bảy.
Hiện
các kênh chính thức của hai bên chưa phát biểu gì về lịch trình này.
Một
nguồn tin chưa thể kiểm chứng độc lập còn cho hay cuộc gặp giữa hai
nguyên thủ sẽ diễn ra hôm 25/7 tại Tòa Bạch Ốc.
Các
chủ đề chính trên nghị trình sẽ là thúc đẩy quan hệ an ninh và
thương mại giữa hai nước.
Tuy
nhiên, giữa Việt Nam và Mỹ còn tồn tại một số khác biệt, nhất là
trong lĩnh vực nhân quyền.
Đây
là lần đầu tiên ông Trương Tấn Sang thăm Mỹ trong cương vị chủ tịch
nước, và cũng là lần thứ hai kể từ 1975 một chủ tịch Việt Nam tới
Washington.
Lần
trước, vào tháng Sáu 2007, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã có chuyến
thăm 'lịch sử' tới Hoa Kỳ và hội kiến Tổng thống George W. Bush.
Việt
Nam và Mỹ trong những năm gần đây đã đẩy mạnh quan hệ trong nhiều
lĩnh vực.
Mỹ
hiện là bạn hàng thương mại số hai của Việt Nam, chỉ sau Trung Quốc.
Nhưng khác với Trung Quốc, thặng dư thương mại nghiêng về phía Việt
Nam. Năm 2012, con số này là 15,6 tỷ đôla.
Hoa
Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam.
Thương
mại hai chiều giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã tăng từ 1 tỷ đôla năm 2001
tới 26 tỷ vào năm ngoái.
Hai
bên cũng đang gấp rút bàn thảo về việc Việt Nam đàm phán gia nhập
Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) trong thời gian
tới.
Khác biệt nhân quyền
Để
hoàn tất đàm phán TPP vào tháng 10 năm nay, Mỹ và Việt Nam còn nhiều nội dung
cần trao đổi để đi đến thống nhất.
Giới
chuyên gia nhận định quá trình đàm phán của Việt Nam còn khó khăn tuy
thời gian không còn nhiều.
"Nếu
như hai bên muốn có quan hệ kinh tế thân cận hơn, nếu như hai bên muốn
ký được TPP, nếu muốn tăng mạnh quan hệ ngoại giao ...
[thì phải hiểu] các nỗ lực đó sẽ không thể được ủng hộ chính trị
từ phía người dân Mỹ nếu không có các tiến bộ trông thấy về nhân
quyền ở Việt Nam."
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear
Cải
thiện nhân quyền là một trong các đòi hỏi của không chỉ Hoa Kỳ mà
còn của nhiều quốc gia Phương Tây để tăng cường hợp tác kinh tế.
Thông
thường trước mỗi chuyến đi quan trọng như thế này, Việt Nam đều có
các động thái nhân nhượng như trả tự do cho một số tù nhân.
Trong một cuộc trao đổi mới đây giữa
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear và tổ chức Asia Foundation tại
San Francisco, ông Shear thừa nhận : "Cả Việt Nam và Mỹ đều đòi
hỏi lẫn nhau khá nhiều nên quá trình đàm phán (TPP) rất thách
thức".
"Điều
đáng tiếc, một điểm chúng tôi luôn luôn bất đồng với phía Việt Nam
là về nhân quyền và tự do tôn giáo."
Ông
đại sứ bày tỏ rằng một trong các thông điệp trọng tâm của ông tới
Việt Nam là "nếu như hai bên muốn có quan hệ kinh tế thân cận hơn,
nếu như hai bên muốn ký được TPP, nếu muốn tăng mạnh quan hệ ngoại
giao
... [thì phải hiểu] các nỗ lực đó sẽ không thể
được ủng hộ chính trị từ phía người dân Mỹ nếu không có các tiến
bộ trông thấy về nhân quyền ở Việt Nam".
Đại
sứ David Shear cũng đề cập tới tình trạng hạn chế internet và kiểm
duyệt các blog, mà ông cho là ảnh hưởng nặng nề tới việc sử dụng
Facebook, mạng xã hội thịnh hành nhất ở Việt Nam.
Ông
cho rằng Việt Nam và Hoa Kỳ chia sẻ nhiều mối quan tâm chung, đặc biệt
là ở Biển Đông.
"Chúng
tôi muốn hợp tác với Việt Nam để duy trì ổn định tại đây, chúng tôi
muốn hợp tác với Việt Nam trong tư cách thành viên Asean, và chúng tôi
cũng muốn hợp tác với Trung Quốc về các vấn đề này và khuyến
khích các bên giải quyết chúng thông qua đường ngoại giao."
Hợp tác an ninh
Thời
gian gần đây, với tình hình ngày càng phức tạp trên Biển Đông và
chính sách xoay chuyển về châu Á của Washington, Việt Nam và Hoa Kỳ
cũng tăng cường quan hệ an ninh.
Mới
nhất, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam Đỗ Bá Tỵ thăm Mỹ
trong nhiều ngày hồi tháng trước.
Việt
Nam mong muốn Mỹ sẽ hỗ trợ trong việc duy trì ổn định và hòa bình
tại khu vực.
Hà
Nội và Washington cũng đang xem xét nâng quan hệ lên mức đối tác chiến
lược.
Thế
nhưng chuyến thăm của ông Trương Tấn Sang lần này cũng gặp phản đối
từ một số giới.
Các
nhóm vận động nhân quyền cho Việt Nam ở Mỹ chỉ trích ông Obama đã
chìa tay hợp tác với Hà Nội cho dù chưa được bằng chứng cải thiện
về nhân quyền và tự do tôn giáo.
Trong
năm qua, chính phủ Việt Nam đã bắt và bỏ tù hàng chục nhà hoạt
động, blogger, những người mà bản thân chính phủ Mỹ coi là chỉ trích
gia một cách ôn hòa.
Cũng
đang có tranh luận về quan hệ tay ba Mỹ-Việt-Trung.
Tháng
Sáu vừa qua, Chủ tịch Trương Tấn Sang cũng đã có chuyến công du đầu
tiên tới Trung Quốc, trong đó hai bên ký 10 văn kiện hợp tác.
Việt
Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1995.
AFP
cho biết Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry có kế hoạch đi Hà Nội
*****
Chủ tịch nước Việt Nam sang Mỹ
thảo luận chiến lược
VOA - Thứ
sáu, 12/07/2013
Chuyến công du Mỹ của Chủ tịch nước Việt Nam
Trương Tấn Sang vào ngày 25/7 tới đây sẽ là cơ hội giúp hai nước cựu thù xác
định lại quan hệ song phương.
Đó là nhận định của hai nhà nghiên cứu chính trị Đông Nam Á, Murray Hiebert và Phoebe De Padua của tổ chức Sumitro Chair for Southeast Asia Studies thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) có trụ sở tại thủ đô Hoa Kỳ.
Đó là nhận định của hai nhà nghiên cứu chính trị Đông Nam Á, Murray Hiebert và Phoebe De Padua của tổ chức Sumitro Chair for Southeast Asia Studies thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) có trụ sở tại thủ đô Hoa Kỳ.
Trong bài phân tích được CSIS phổ biến ngày 11/7, hai nghiên cứu gia này cho rằng đối với Việt Nam, chuyến đi là dịp để Hà Nội theo đuổi các vấn đề như Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP, thắt chặt quan hệ quân sự, và thảo luận các vấn đề an ninh khu vực với Hoa Kỳ, đặc biệt là vấn đề tranh chấp Biển Đông.
Về phía Hoa Kỳ, theo tác giả phân tích, chuyến thăm của ông Sang sẽ mở ra cơ hội để Washington thảo luận với Hà Nội các quan ngại về thực trạng nhân quyền và tự do tôn giáo của Việt Nam.
Các giới chức đôi bên nhận xét những vấn đề này trước đây từng là một sự thảo luận một chiều, nhưng nay đang dần mang tính tương tác hơn. Và dù chưa dỡ bỏ được những cách biệt, nhưng hai nước đã bắt đầu xây dựng nền tảng để cân nhắc và tôn trọng lẫn nhau.
Nhân quyền
Chuyên gia hàng đầu về các vấn đề Việt Nam tại Học viện Quốc phòng Australia, ông Carl Thayer, cho rằng nhân quyền nên là một phần trong chiến lược chung của Hoa Kỳ, nhưng không nên trở thành tâm điểm làm trở ngại tiến bộ trong các lĩnh vực khác trong mối quan hệ Việt-Mỹ.
Chuyến đi của ông Sang diễn ra giữa lúc Việt Nam đang leo thang chiến dịch đàn áp các blogger, những tiếng nói bất đồng quan điểm chính trị, với nhiều vụ bắt giữ liên tiếp, giữa lúc đà tăng trưởng kinh tế quốc gia đang trì trệ và những mâu thuẫn trong nội bộ đảng cộng sản cầm quyền gia tăng.
Trong khi đó, giới lập pháp tại Mỹ không ngừng áp lực đòi chính phủ của Tổng thống Obama phải ứng phó trước các vi phạm nhân quyền ngày càng trầm trọng của Việt Nam.
Mới đây, Đồng Chủ tịch Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos và Nhóm hoạt động về các vấn đề Việt Nam tại Quốc hội Mỹ, dân biểu Frank Wolf, một lần nữa mạnh mẽ chỉ trích Washington lơ là trước tình trạng vi phạm nhân quyền xuống dốc của Hà Nội.
Phát biểu trước Quốc hội hôm đầu tuần, dân biểu Wolf lên án chính phủ của Tổng thống Obama đã thất bại trong việc đưa nhân quyền và tự do tôn giáo lên vị trí ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
Ông Wolf nói: “Quyết định trao giải Nobel Hòa Bình cho Tổng thống Obama vì những gắn kết của ông với nhân quyền đã được dựa trên sự hy vọng sai lầm, chứ không phải dựa trên thành tích thật sự. Thực tế cho thấy chính quyền của Tổng thống Obama đã tỏ ra im lặng hoặc thiếu khả năng trong việc cổ xúy cho những người bị đàn áp tại nhiều quốc gia.”
Một học giả quốc tế am tường về Việt Nam, Phó giáo sư Jonathan London thuộc Đại học Tổng hợp Hồng Kông, cho rằng cải cách hữu hiệu nhất cho Việt Nam bây giờ là cho phép toàn dân tham gia vào cuộc sống chính trị của đất nước một cách công bằng, xóa bỏ việc đàn áp, và phát triển những thể chế dân chủ.
Ông London nói có như vậy Việt Nam mới trở thành một nước văn minh, được thể giới tôn trọng, cải thiện mối quan hệ hợp tác Việt-Mỹ.
Bởi lẽ, vẫn theo ông London, không chỉ chính phủ Mỹ, mà những người bạn quốc tế của Việt Nam, và quan trọng nhất là đại đa số người dân Việt đều mong muốn Việt Nam cải cách.
Vấn Đề Biển Đông
Một đề tài nóng khác sẽ được mang ra thảo luận trong cuộc gặp giữa hai nhà lãnh đạo Việt-Mỹ hôm 25/7 là vấn đề Biển Đông.
Đôi bên dự kiến sẽ tán thành các nỗ lực giữa ASEAN với Trung Quốc để tiến tới một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc pháp lý, giúp tránh xung đột tại Biển Đông.
Theo đề nghị của giáo sư Carl Thayer, Hoa Kỳ nên xem xét các cách hỗ trợ Việt Nam nâng cao công tác tuần tra biển như bán cho Việt Nam kỹ thuật radar biển, hỗ trợ công tác tuần tra biển trên không, và phát huy hợp tác giữa lực lượng tuần duyên Mỹ với cảnh sát biển Việt Nam.
Tuy nhiên, các phân tích gia của Viện nghiên cứu CSIS cho rằng những thành phần bảo thủ tại Việt Nam dường như ngần ngại không muốn tăng tốc quá nhanh trong mối quan hệ với Hoa Kỳ vì e làm Trung Quốc khó chịu.
Quan hệ Mậu dịch
Trong lĩnh vực thương mại, các nhà phân tích cho rằng trong chuyến thăm Mỹ lần này, ông Trương Tấn Sang trông đợi tín hiệu từ Tổng thống Obama cho phép ngành công nghiệp dệt may đang nở rộ của Việt Nam tiếp cận nhiều hơn với thị trường Mỹ, vốn là điều kiện chủ yếu để Hà Nội đồng ý với các điều khoản khác trong TPP.
Một số đối tác thương lượng TPP đang âm thầm thúc giục Mỹ cân nhắc kỹ hơn về việc này vì cho rằng Việt Nam cần phải tham gia vào một thỏa thuận mà qua đó có thể giúp Việt Nam sắp xếp lại toàn bộ luật lệ và phương thức giao tiếp thương mại với các đối tác trong TPP.
Về phần mình, Washington trông đợi Việt Nam cam kết sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp Mỹ có thể cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp quốc doanh của Việt Nam được nhà nước trợ giá. Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng muốn Việt Nam nỗ lực hơn nữa trong lĩnh vực bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Chưa rõ liệu hai nước Việt-Mỹ có cho rằng đã tới lúc vực dậy quan hệ đối tác chiến lược hay chưa, nhưng cuộc thảo luận giữa hai nhà lãnh đạo Việt-Mỹ tại Tòa Bạch Ốc tới đây, theo dự kiến, sẽ bao quát nhiều vấn đề từ kinh tế, thương mại, chính trị, an ninh đến các mối quan hệ giữa nhân dân hai nước.
Cả đôi bên nhận rõ rằng duy trì quan hệ chặt chẽ là lợi ích chiến lược của họ và chuyến đi Mỹ của Chủ tịch nước Việt Nam sẽ tái khẳng định niềm tin chung đó cũng như mở đường cho một mối quan hệ đối tác Việt-Mỹ tăng cường hơn trong thập niên tới.
*****
Mỹ sẽ nhượng bộ Việt Nam vấn đề nhân
quyền?
Việt Hà, phóng viên RFA - 2013-07-12
Tổng thống Mỹ Barack Obama
(phải) và phu nhân Michelle Obama bắt tay Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tân
Sang (giữa) và phu nhân Mai Thị Hạnh (trái) tại Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn
Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) diễn ra ở Honolulu, Hawaii, vào
ngày 12 tháng 11 năm 2011 - AFP PHOTO / JIM WATSON
Theo lời mời chính thức của Tổng thống Hoa Kỳ, Barack
Obama, Chủ tịch Việt Nam, ông Trương Tấn Sang sẽ sang thăm Mỹ vào ngày 25 tháng
7 tới. Đây là chuyến thăm đầu tiên tới Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Chuyến thăm diễn ra chỉ vài tuần sau chuyến thăm Trung Quốc của ông Trương Tấn
Sang. Ý nghĩa của chuyến đi này với Việt Nam và Mỹ là gì? Mời quý vị tìm hiểu
vấn đề này trong cuộc phỏng vấn giữa phóng viên Việt Hà và Giáo sư Nguyễn Mạnh
Hùng, giảng dạy môn quan hệ quốc tế tại trường đại học George Mason.
Áp lực nội bộ
Trước hết nói về lý do Tổng thống Obama mời Chủ tịch
Trương Tấn Sang tới Mỹ lần này, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng cho biết:
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi nghĩ là trước hết là Việt Nam muốn sang thăm Mỹ và
muốn ông Tổng thống Mỹ sang Việt Nam thì đã nói đi nói lại nhiều lần rồi và
Việt Nam muốn ông Obama sang mà ông Obama chưa sang được thì lúc này là dịp để
mời ông Sang thăm Mỹ trước khi ông Obama sang Việt Nam khi điều kiện cho phép.
Nhất là vào lúc này Việt Nam cũng muốn sang Mỹ thì sau khi Việt Nam đã sang Tàu
rồi thì ông cũng muốn sang Mỹ để mang tính chất cân bằng quyền lực một chút.
Cho nên ý định nhiều nhất là của Việt Nam, dù Obama mời nhưng ý muốn nhiều nhất
là của Việt Nam, và Mỹ đã đáp ứng.
Việt Hà: Theo
ông thì vấn đề nhân quyền có tầm quan trọng thế nào trong cuộc nói chuyện giữa
hai vị lãnh đạo quốc gia lần này?
“Nhất là vào lúc này VN cũng muốn sang Mỹ
thì sau khi VN đã sang Tàu rồi thì ông cũng muốn sang Mỹ để mang tính chất cân
bằng quyền lực một chút.”
GS Nguyễn Mạnh Hùng
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Rất quan trọng vì từ thời ông Carter đến thời ông Bush
thì nhân quyền đã trở thành rất quan trọng, nhất là áp lực bên quốc hội về vấn
đề nhân quyền cũng khá nhiều. Trong việc thảo luận giữa Việt Nam và Mỹ về nâng
cao tầm quan hệ chiến lược, rồi Mỹ bán vũ khí cho Việt Nam thì Mỹ đã nhắc nhiều
lần cả hành pháp lẫn lập pháp là chuyện đó không xảy ra nếu vấn đề nhân quyền
không được cải thiện. Vì thế đó là vấn đề quan trọng. Nó được đưa ra trong lúc
này vì gần đây có nhiều sự bắt bớ các bloggers và những cái mà người Mỹ gọi là
xâm phạm quyền tự do phát biểu trên Internet, vì thế áp lực nội bộ của Mỹ về
vấn đề nhân quyền Việt Nam làm cho vấn đề nhân quyền trở thành vấn đề nổi cộm.
Việt Hà:
Thưa giáo sư, trong tình hình hiện nay tại châu Á-Thái Bình Dương, thì Mỹ
cũng chuyển trọng tâm chiến lược về khu vực châu Á Thái Bình Dương, trong đó có
sự quan ngại về sự lớn mạnh của Trung Quốc. Có những lo ngại được đặt ra là
liệu Mỹ sẽ bỏ qua vấn đề nhân quyền ở Việt Nam để đưa Việt Nam trở thành đối
tác chiến lược. Giáo sư có nhận xét thế nào?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Bỏ qua thì không bỏ qua hoàn toàn được, tất nhiên quyền
lợi về chiến lược và kinh tế quan trọng hơn quyền lợi về nhân quyền. Nhưng mà ở
trong chính sách ngoại giao Mỹ, cơ chế ngoại giao Mỹ giữa cân bằng quyền lực,
kiểm soát lẫn nhau giữa hành pháp và lập pháp thì vấn đề nhân quyền không thể
được bỏ qua, nhất là nếu Việt Nam muốn mua vũ khí thì vấn đề đó không thể bỏ
qua được. Nhưng điều đó không có nghĩa là Mỹ đòi Việt nam phải dân chủ hoàn
toàn hay phải có thành quả nhân quyền đặc sắc. Nhưng không thể bỏ qua được.
Chính sách của Mỹ thời bà Madeleine Albright khi ông Tổng thống Bill Clinton
muốn liên hệ với Trung Quốc thì có đặt ra hai điểm quan trọng, chúng tôi có
nhiều vấn đề tổng quát, nhưng khi nói về nhân quyền thì không thể bắt những vấn
đề khác trở thành con tin của nhân quyền được. Điều này cũng đang được áp dụng
với chính quyền của Obama tức là nó quan trọng nhưng nó không thể nào yếu tố áp
đảo các quan hệ khác.
“Nếu VN có một số nhượng bộ thỏa đáng thì
tôi nghĩ trong thông cáo chung sẽ có thể phản ánh được một sự tiến bộ hoặc là
một sự gì đó trong quan hệ đối tác chiến lược giữa Mỹ và VN”.
GS Nguyễn Mạnh Hùng
Việt Hà:
Như ông biết thì trước kia khi Việt Nam muốn vào WTO và cải thiện quan hệ
với Mỹ thì Việt Nam cũng có dễ dàng hơn trong vấn đề nhân quyền theo yêu cầu
của cộng đồng quốc tế, nhưng khi họ đạt được mục đích của họ rồi thì họ lại
tiếp tục đàn áp nhân quyền. Vậy Mỹ đã học được bài học gì trong quá khứ để lần
này khi Mỹ cần bằng chiến lược tại châu Á Thái Bình Dương, đưa Việt Nam thành
đối tác chiến lược, có thể mặc cả với Việt Nam về vấn đề nhân quyền?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Vấn đề nhân quyền là quan trọng nhưng không quan trọng
bằng vấn đề quan hệ chiến lược. Còn bài học mà Mỹ học thì chuyện đó người Mỹ
cũng biết. Vấn đề lúc này là muốn tăng đối tác chiến lược thì Việt Nam phải có
một số nhượng bộ về nhân quyền. đây là về lúc này, còn chuyện đạt được về sau
thì lại trở thành một chuyện khác.
Việt Hà:
Theo Giáo sư đánh giá thì khả năng Việt Nam trở thành đối tác hợp tác chiến
lược với Mỹ trong thời gian sớm sắp tới thế nào?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi nghĩ có hai điều mình có thể đưa ra dự đoán tương
đối. Thứ nhất trong chuyến đi này Việt Nam đã có chuẩn bị tức là khi ông Sang
sắp sang đây, thì tất cả các vụ bắt bớ bloggers rồi tin từ Việt Nam đưa ra là
bắt thêm 20 người nữa thì những chuyện đó đã không xảy ra. Như vậy là họ đã để
ý đến quan tâm của người Mỹ và họ đã có chuẩn bị cho chuyến đi của ông Sang.
Điểm thứ hai là Việt Nam rất muốn đẩy cao tầm quan hệ chiến lược với Mỹ bởi vì
ông tuyên bố ông muốn thiết lập đối tác chiến lược với tất cả 5 quốc gia thường
trực hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc thì họ đã làm được 3 rồi, chỉ còn ông Pháp
và ông Mỹ thôi. Ông Mỹ rất quan trọng. Việt Nam rất tha thiết. Nếu Việt
Nam có một số nhượng bộ thỏa đáng thì tôi nghĩ trong thông cáo chung sẽ có thể
phản ánh được một sự tiến bộ hoặc là một sự gì đó trong quan hệ đối tác chiến
lược giữa Mỹ và Việt Nam.
Việt Hà:
Xin cảm ơn giáo sư.
*****
Việt
– Mỹ: mở đường cho quan hệ đối tác mới
SGTT.VN – 14-7-2013
Đối tác chiến lược vẫn là cái đích phía
trước, tuy cả hai bên còn phải vượt qua một số trở lực để đi tới, vì lợi ích
mỗi nước, vì hoà bình, ổn định và phồn vinh của khu vực.
Ngày 25.7 tới, Tổng thống Mỹ Barack Obama
sẽ tiếp Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng, Washington, D.C.
Đó là nội dung nổi bật trong tuyên bố của thư ký báo chí Nhà Trắng về chuyến
thăm Hoa Kỳ cuối tháng 7 của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội tuần qua vừa
phát đi tin này trên trang web của mình. Trả lời phỏng vấn truyền thông quốc tế
hôm 12.7, TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế cao cấp, nói: “Tổng thống Obama
đã đề nghị Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ, và tôi hy
vọng kỳ này hai bên có thể tăng cường mối quan hệ ấy và nâng cao tầm hợp tác
lên đối tác chiến lược”.
Những tháng 7
lịch sử
Tổng thống Obama sẽ thảo luận với Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang làm thế nào để củng cố hơn nữa quan hệ đối tác giữa
hai nước trong các vấn đề chiến lược ở khu vực và tăng cường hợp tác với ASEAN.
Đây là chuyến thăm lần thứ hai của Chủ tịch nước Việt Nam tới Mỹ. Tháng 6.2007,
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã có chuyến thăm Washington dưới thời
Tổng thống George W. Bush. Như vậy là thêm một tháng 7 nữa – tháng 7.2013 có
thể được ghi như một mốc mới trong bang giao giữa hai cựu thù? Sau 20 năm kể từ
1975, hai nước lấy ngày 12.7.1995 làm ngày bình thường hoá quan hệ. Từ đấy đến
nay 18 năm nữa đã trôi qua …
Theo thư ký báo chí Nhà Trắng, Tổng thống
Obama trông đợi thảo luận hàng loạt lĩnh vực song/đa phương như vấn đề nhân
quyền, tầm quan trọng của việc hoàn tất hiệp định TPP và các thách thức phát
sinh như biến đổi khí hậu. Nhân quyền là nội dung quan trọng nhưng không thể
nào là yếu tố áp đảo các quan hệ khác. Trong một trao đổi mới đây, đại sứ
Mỹ tại Hà Nội David Shear thừa nhận: “Cả Việt Nam lẫn Mỹ đều đòi hỏi
nhau khá nhiều nên quá trình đàm phán TPP rất thách thức…”.
Lợi ích kinh
tế và chiến lược
Các nhà phân tích cho rằng, Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang trông đợi Tổng thống Obama đồng ý để ngành công nghiệp dệt may
đang nở rộ của Việt Nam tiếp cận nhiều hơn với thị trường Mỹ, vốn là điều kiện
chủ yếu để Hà Nội chấp thuận với một số điều khoản khác trong TPP. Một số đối
tác đang thương lượng muốn Mỹ cân nhắc kỹ lưỡng hơn về việc này, vì cho rằng
Việt Nam cần sắp xếp lại một số luật lệ mới và phương thức giao tiếp thương mại
với các thành viên trong khối. Washington muốn Việt Nam cam kết tạo điều kiện
để các doanh nghiệp Mỹ có thể cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp nhà
nước của Việt Nam.
Mỹ cũng muốn Việt Nam nỗ lực hơn nữa
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Đề tài nổi bật khác sẽ được đề cập trong
các cuộc hội đàm là vấn đề Biển Đông. Hai bên tán thành những nỗ lực giữa ASEAN
với Trung Quốc để tiến tới bộ Quy tắc ứng xử COC mang tính ràng buộc pháp lý.
Theo GS Carl Thayer từ học viện Quốc phòng Úc: “Hoa Kỳ nên xem xét cách thức hỗ
trợ Việt Nam nâng cao công tác tuần tra biển, hỗ trợ công tác tuần tra biển
trên không và phát huy hợp tác giữa lực lượng tuần duyên Mỹ với cảnh sát biển
Việt Nam”.
Tại chuyến thăm này, đối tác chiến lược
vẫn là cái đích phía trước, tuy cả hai bên còn phải vượt qua một số trở lực để
đi tới, vì lợi ích mỗi nước, vì hoà bình, ổn định và phồn vinh khu vực. Theo GS
Nguyễn Mạnh Hùng từ đại học George Mason (Hoa Kỳ), có một số nguyên tắc để hình
thành lên quan hệ đối tác chiến lược. “Một trong những nguyên tắc ấy là sự tin
cậy lẫn nhau. Mà muốn tin cậy lẫn nhau thì phải có những giá trị tương đồng”,
GS Hùng nói. Nếu các cuộc hội đàm tại Mỹ của Chủ tịch nước lần này đưa ra được
phương hướng cải thiện tình hình thì có thể mở đường cho một mối quan hệ đối
tác mới.
GS Jonathan London từ đại học Hong Kong
nhận xét, chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ tăng khả năng tiếp
cận thị trường và thu hút thêm đầu tư của Mỹ vào Việt Nam. “Quan hệ sâu rộng
hơn với Mỹ sẽ giúp giải quyết một số khó khăn về kinh tế và giải toả bớt áp lực
trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ”, GS Jonathan nói. Còn theo GS Thayer,
chuyến đi này là một nỗ lực mới nhằm có được thoả thuận về hợp tác chiến lược.
“Thành công đến đâu, tuỳ thuộc vào quyết tâm từ cả hai phía. Mỹ có quyền lợi
trong chiến lược toàn cầu, Việt Nam có nhu cầu của mình”, GS Thayer nhận định.
Chuyến đi của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ mở sang một trang mới về bang
giao, hay chỉ là một chuyến thăm thông thường, dư luận sẽ biết rõ hơn từ thông
cáo chung ngày 25.7 này.
Phát triển
quan hệ Mỹ-Việt: Thời cơ đang thuận lợi
RFI - Thứ hai 15 Tháng Bẩy 2013
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry (P) gặp Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh
nhân một cuộc họp của khối ASEAN tại Bandar Seri Begawan (Brunei) ngày
02/07/2013 - REUTERS/Jacquelyn Martin
Bang giao Mỹ-Việt đang có những chuyển động đáng chú ý
với sự kiện nổi bật vừa được xác nhận: Nhà Trắng sẽ đón chủ tịch nước Việt Nam
Trương Tấn Sang vào ngày 25/07/2013. Chuyến đi này được cho là thời cơ thuận
lợi để Việt Nam tăng cường quan hệ với Mỹ, nhất là trong lãnh vực an ninh quốc
phòng vào lúc Washington tỏ rõ trở lại thái độ quan ngại trước các hành động o
ép láng giềng – trong đó có Việt Nam - mà Bắc Kinh vẫn tiến hành ở Biển Đông.
Hôm 11/07/2013, do một trùng hợp ngẫu nhiên hay tính toán
ngoại giao kỹ lưỡng, Nhà Trắng Hoa Kỳ cùng lúc chính thức nêu bật thái độ quan
tâm đến vùng châu Á với thông báo về việc Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ đón
tiếp chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang, bên cạnh cảnh báo Trung Quốc là
không nên sử dụng các biện pháp cưỡng ép hay hù dọa trong tranh chấp biển đảo
với các lân bang.
Trong bản thông cáo về chuyến công du của ông Trương Tấn
Sang, Thư ký Báo chí phủ Tổng thống Mỹ đã nêu bật nội dung các vấn đề sẽ được
hai bên bàn bạc nhân cuộc gặp thượng đỉnh ngày 25/07 tại Nhà Trắng: “Cách thức tăng
cường hơn nữa quan hệ đối tác (song phương) về các vấn đề chiến lược trong khu
vực và tăng cường hợp tác với ASEAN ; nhân quyền ; những thách thức đang nổi
lên như biến đổi khí hậu; và tầm quan trọng của việc hoàn tất một thỏa thuận
Đối tác xuyên Thái Bình Dương với tiêu chuẩn cao”.
Trong cùng một ngày, Nhà Trắng cũng công bố bản lược ghi
về phát biểu của Tổng thống Obama trong buổi hội kiến đặc biệt với Phó Thủ
tướng Trung Quốc Uông Dương và Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc đặc trách đối
ngoại Dương Khiết Trì, nhân dịp hai nhân vật này đến Washington đồng chủ trì
cuộc Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ-Trung thường kỳ.
Đáng chú ý trong các vấn đề được nêu lên với hai lãnh đạo
Trung Quốc là lời kêu gọi của Tổng thống Mỹ đối với Bắc Kinh liên quan đến việc
giải quyết tranh chấp biển đảo tại châu Á: “Tổng thống (Hoa Kỳ) thúc giục Trung Quốc xử lý các tranh
chấp trên biển với các láng giềng một cách hòa bình, không dùng đến các biện
pháp cưỡng ép hay hù dọa”.
Động thái của Hoa Kỳ quan tâm trở lại đến Biển Đông đã
được giới quan sát đặc biệt chú ý vì lẽ một vài tháng sau khi Ngoại trưởng John
Kerry lên thay thế bà Hillary Clinton, ngành ngoại giao Mỹ như đã có dấu hiệu
tương đối lơ là khu vực Đông Nam Á trước sức ép của các hồ sơ nặng ký khác như
các hành động hung hăng của Bắc Triều Tiên, tình hình căng thẳng Trung-Nhật
trên Biển Hoa Đông, và nhất là các vấn đề nóng bỏng tại vùng Trung Cận Đông.
Một loạt những cuộc tiếp xúc cấp cao Mỹ-Việt trong hai tháng
Riêng đối với Việt Nam, sau một vài tháng im ắng, Hoa Kỳ
đã có những biểu hiện tích cực hơn, với những cuộc gặp song phương giữa các
lãnh đạo bên lề các hội nghị khu vực.
Cụ thể là vào ngày 31/05/2013, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ
Chuck Hagel đã có cuộc tiếp xúc với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng bên lề
Đối thoại Shangri-la tại Singapore. Theo các nguồn tin báo chí, trong số những
hồ sơ được hai bên đề cập đến, có vấn đề quan hệ quốc phòng quân sự Mỹ-Việt.
Quan hệ giữa hai quân đội sau đó cũng đã được Tổng tham
mưu trưởng Quân đội Việt Nam bàn bạc với phía Mỹ vào hạ tuần tháng Sáu 2013,
nhân dịp Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ được tiếp đón tại Lầu Năm Góc Mỹ. Được biết là
tháp tùng theo tướng Đỗ Bá Tỵ nhân chuyến ghé thăm Lầu Năm Góc đầu tiên của một
người đứng đầu Quân đội Nhân dân Việt Nam, còn có hai lãnh đạo cao cấp ngành
Tình báo Quân đội và Hải quân Việt Nam.
Trên bình diện ngoại giao cũng thế, đầu tháng Bẩy 2013,
như thông lệ từ thời cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton, ông John Kerry đã đến
Brunei tham gia các Hội nghị Ngoại trưởng thường niên do khối ASEAN tổ chức. Và
cũng như thông lệ từ thời bà Clinton, cùng với năm đồng nhiệm Việt Nam, Lào,
Cam Bốt, Thái Lan và Miến Điện, tân Ngoại trưởng Mỹ đã tham gia liên tiếp hai
cuộc họp của nhóm Sáng kiến vùng Hạ nguồn Mêkông (Lower Mekong Initiative) và
nhóm Bạn của khối Sáng kiến vùng Hạ nguồn Mêkông (Friends of Lower Mekong
Initiative), được tổ chức bên lề Hội nghị Ngoại trưởng Đông Nam Á.
Riêng đối với Việt Nam, ngày 02/07/2013, bên lề hội nghị
ngoại trưởng của Diễn đàn An ninh Khu vực ARF ở Brunei, ông John Kerry đã có
cuộc hội đàm riêng với Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh để thảo luận về các
vấn đề song phương cũng như khu vực và thế giới. Trước đó, Ngoại trưởng Mỹ còn
cho biết là sắp tới đây, ông sẽ công du Việt Nam.
Chủ tịch Việt Nam đến Nhà Trắng vào lúc Mỹ tái khẳng định mối quan tâm đến
Biển Đông
Chuyến công du Hoa Kỳ sắp tới đây của chủ tịch nước Việt
Nam phải được lồng vào trong bối cảnh Washington tái khẳng định mối quan tâm
đối với khu vực Đông Nam Á, với tình hình ổn định ngoài Biển Đông nói chung, và
với Việt Nam nói riêng như kể trên.
Theo ghi nhận của giáo sư Ngô Vĩnh Long, thường xuyên
theo dõi các vấn đề quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ và Trung Quốc, đặc biệt
trong tương quan với hồ sơ tranh chấp Biển Đông, lúc này, Việt Nam đang có thời
cơ thuận lợi để củng cố thêm quan hệ với Mỹ nhằm giải tỏa sức ép của Bắc Kinh,
đặc biệt nặng nề trên vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo.
Trả lời phỏng vấn của RFI, giáo sư Long trước hết nêu bật
vị trí địa lý chiến lược quan trọng của Việt Nam trong chính sách xoay trục qua
châu Á Thái Bình Dương đang được chính quyền Obama triển khai.
“Vùng Đông
Nam Á rất quan trọng đối với chính sách đối ngoại của Mỹ. Về dân số, Việt Nam
lại là nước lớn thứ hai, thứ ba, và là một nước có lãnh thổ, lãnh hải dài nhất
trong khu vực Biển Đông. Cho nên khi Mỹ muốn ‘xoay trục’, hay là có một chính
sách tích cực hơn ở Á Đông, thì nhất định vai trò của Việt Nam rất quan trọng
đối với Mỹ và các nước ở Á Châu … »
Trung Quốc đang trong thế cần đến Mỹ
Cho dù trong những tháng qua, Hoa Kỳ đã liên tiếp tung
tín hiệu cho thấy chủ trương thiết lập một quan hệ hòa hoãn hơn với Trung Quốc
- mà biểu hiện rõ nhất là cuộc họp thượng đỉnh Obama-Tập Cận Bình thượng tuần
tháng Sáu vừa qua tại California - giáo sư Long cho rằng Việt Nam cần tranh thủ
thực tế có thể gọi là “Trung
Quốc cần Mỹ” vào lúc
này để thúc đẩy mạnh mẽ hơn quan hệ với Hoa Kỳ. Ông giải thích:
“Hiện nay
Trung Quốc “quậy” rất nhiều ở Biển
Đông, và trong khu vực, làm cho hầu hết các nước Á châu lo ngại, trong đó có cả
các đồng minh của Mỹ như Nhật, Philippines, và cả Thái Lan, nước gần gũi với
Trung Quốc. Gần đây, Indonesia cũng tỏ ra lo ngại.
Trong bối cảnh này và trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc
đang bị khó khăn - GDP đang xuống, xuất khẩu chậm lại, đặc biệt đối với Mỹ và
Châu Âu - Bắc Kinh cần có quan hệ tốt với Mỹ, vì vậy khó mà bắt nạt các nước
khác muốn có quan hệ tốt với Mỹ.
Nếu Việt Nam muốn có quan hệ tốt với Mỹ, và Mỹ muốn có
quan hệ tốt với Việt Nam, thì những động thái khiêu khích của Trung Quốc sẽ
không có lợi cho họ.
Thật ra từ 2008 đến nay, Hoa Kỳ rất kiên nhẫn với Trung
Quốc. Một trong những lý do là vì Hoa Kỳ phải từ từ lo về vấn đề kinh tế trong
nước. Hiện nay, kinh tế Mỹ đang hồi phục, mà có thể nói là trong các nước phát
triển kinh tế Mỹ đang hồi phục tốt hơn các nước khác.
Mỹ bắt đầu rảnh tay để nghĩ đến châu Á
Lý do thứ hai là Mỹ bận tay ở Trung Đông, đặc biệt là ở
Afghanistan. Tôi nghĩ bây giờ là Mỹ đã quyết định rút sớm khỏi Afghanistan. Vì
Mỹ có thể rút khỏi Trung Đông, hay dàn xếp được các vấn đề Trung Đông, Mỹ sẽ
rảnh tay lo vấn đề Á Châu.
Do đó, Mỹ bây giờ muốn nói với các đồng minh của mình,
cũng như với Trung Quốc là Mỹ muốn có ổn định trong khu vực, để khu vực phát
triển và điều đó sẽ có lợi cho Mỹ. Nếu Trung Quốc quá khích, Mỹ phải nói rõ cho
Trung Quốc biết.
Gần đây Trung Quốc đã quá khích, cho nên tôi nghĩ rằng Mỹ
muốn răn đe Trung Quốc, nói rằng ‘anh làm như thế thì lợi ích của tất cả mọi
người trong khu vực sẽ bị khó khăn”.
Xin nhắc lại là hôm 11/07 vừa qua, chính Tổng thống Mỹ
Barack Obama đã có tuyên bố thẳng thắn với Phó Thủ tướng Trung Quốc Uông Dương
và lãnh đạo ngành đối ngoại Trung Quốc Dương Khiết Trì, theo đó Bắc Kinh không
nên có biện pháp “cưỡng ép
hay hù dọa” đối với
các nước đang tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc.
Để châu Á đừng tưởng lầm là Mỹ 'đi đêm' với Trung Quốc
Theo giáo sư Long cho rằng mục tiêu của Washington khi
lưu ý Bắc Kinh về tranh chấp biển đảo là nhằm xóa bỏ cảm giác sai lầm của các
nước khác tưởng rằng Mỹ “đi đêm” với Trung Quốc.
“Hoa Kỳ
không muốn cứng rắn, mà cũng không muốn dọa nạt Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc
lại muốn Hoa Kỳ có quan hệ đặc biệt với Trung Quốc, và chứng tỏ quan hệ đó với
Trung Quốc.
Trung Quốc đã đe dọa Philippines, gây thêm căng thẳng như
bắn vào tàu cá Việt Nam hai, ba lần từ đó đến nay, nếu Mỹ im lặng thì các nước
khác trong khu vực và các đồng minh của Mỹ tưởng là Mỹ bây giờ đã 'đi đêm' với
Trung Quốc, đã đồng ý là có quan hệ đặc biệt với Trung Quốc, không có lợi cho
các nước khác trong khu vực, nhất là các nước nhỏ như Philippines, Việt Nam
v.v...
Thành ra Mỹ bắt buộc phải nói rõ cho mọi người biết - hay
là muốn chứng minh - là không có việc đó, không có việc đi đêm với Trung Quốc,
rằng nếu Trung Quốc muốn có quan hệ tốt với Mỹ, thì cũng phải để cho các nước khác
có quan hệ tốt với Mỹ…”.
Chính sách xoay trục không thay đổi
Đối với giáo sư Long mối quan tâm của Chính quyền Mỹ hiện
nay đối với châu Á và Đông Nam Á vẫn cao, không có gì thay đổi so với thời bà
Hillary Clinton làm Ngoại trưởng. Riêng Việt Nam còn có thêm hai yếu tố thuận
lợi là cả Ngoại trưởng lẫn bộ trưởng Quốc phòng Mỹ hiện thời đều là những nhân
vật rất có thiện cảm với Việt Nam:
“Để có thể
rảnh tay để tăng cường quan hệ với Đông Nam Á hay là với khu vực Á Châu, Mỹ
phải giải quyết các vấn đề khác, những vấn đề cần giải quyết nhanh như ở Trung
Đông, hay là một số vấn đề khó khăn với các đồng minh ở Âu Châu - mà Châu Âu
bao giờ đối với Mỹ cũng là quan trọng hàng đầu.
Tại Á Châu thì có Nhật. Có lúc Mỹ không lưu ý đến Nhật
nhưng bây giờ do vấn đề Nhật Bản căng thẳng với Trung Quốc, Mỹ phải lưu ý đến
vấn đề khó khăn của Nhật cũng như khó khăn của Á Châu.
Theo tôi, chính sách của Mỹ, nếu nói trước sau như một
thì không đúng, nhưng có bài bản. Chính sách xoay trục qua Á Châu đã được phân
tích kỹ trong nhiều năm, chứ không phải là mới ...
Nhưng phải nhớ rằng Kerry là người có quan hệ rất tốt đối
với Việt Nam trong nhiều năm và đã cùng với nhiều người khác thúc đẩy vấn đề mở
cửa với Việt Nam.
Ngoài ra còn có Chuck Hagel. Ông Chuck Hagel cũng là một
người ngày xưa đi lính bên Việt Nam, cũng lưu ý đến Việt Nam và khu vực Đông
Nam Á. Khi hai người, một ngoại trưởng và một bộ trưởng Quốc phòng của Mỹ đang
nhậm chức có quan hệ tốt với khu vực Đông Nam Á, tôi nghĩ rằng chính sách của
Mỹ không những không thay đổi, mà sẽ phát triển thêm.
Ông Hagel đã đi dự Đối thoại Shangri-la và đã có một số
tuyên bố mà theo tôi, mặc dầu cẩn thận, nhưng rõ ràng là nói cho mọi người biết
là chính sách của Mỹ không thay đổi”.
Chủ tịch nước Việt Nam phải cố tranh thủ công luận Hoa Kỳ
Trong bối cảnh như kể trên, Việt Nam cần phải khéo tranh
thủ thời cơ thuận lợi, thúc đẩy cho quan hệ Việt-Mỹ được tiến triển thêm nhân
chuyến đi thăm sắp tới đây của chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Giáo sư Long đặc
biệt lưu ý đến nhu cầu tranh thủ được công luận Hoa Kỳ:
“Trước hết
ông Trương Tấn Sang là người có trách nhiệm về Quốc phòng Việt Nam, thì lẽ dĩ
nhiên chính phủ Mỹ sẽ chú trọng đến việc này. Tôi nghĩ đây là một cái bước thêm
vào quan hệ quốc phòng hai nước.
Nhưng theo tôi, là một nguyên thủ quốc gia, ông Sang nên
tiến thêm một số bước nữa trong quan hệ kinh tế với Mỹ, và trong các lãnh vực
khác. Tôi nghĩ rằng ông Trương Tấn Sang có thể bàn thêm với Mỹ về hồ sơ
nhân quyền, và chứng minh với dân chúng Mỹ - vì đây là cơ hội rất tốt - rằng Việt
Nam là một nước tôn trọng nhân quyền.
Bởi vì trong vấn đề ngoại giao, thì ngoài ngoại giao giữa
hai nước, còn có ngoại giao nhân dân, mà Mỹ là nước dân chủ, cho nên sức ép hay
sự ủng hộ của nhân dân rất quan trọng đối với chính phủ Mỹ trong vấn đề ngoại
giao.
Thành ra nếu một nguyên thủ, một lãnh tụ nước ngoài khi
đến nước Mỹ mà có thể chinh phục được sự ủng hộ của dân chúng Mỹ, thì sẽ là một
việc rất quan trọng, không những cho Việt Nam, mà còn cho cả khu vực ...
Việt Nam, như chúng ta mới vừa nói, là nước lớn thứ nhì,
thứ ba trong khu vực, cho nên phải tỏ rõ vai trò lãnh đạo của mình hay ít ra là
vai trò thúc đẩy quan hệ tốt hơn cho khu vực”.
Tóm lại đối với giáo sư Ngô Vĩnh Long, chuyến đi thăm Nhà
Trắng của nguyên thủ Nhà nước Việt Nam săp tới đây có thể được coi là một thành
công của ngành ngoại giao Việt Nam. Do tình hình đặc thù của Việt Nam, vấn đề
là toàn thể giới lãnh đạo tại Hà Nội phải thống nhất được ý kiến trên sự cần
thiết phải tăng cường quan hệ với Mỹ.
Theo giới phân tích, nếu chuyến đi thăm Mỹ của chủ tịch
nước Trương Tấn Sang thành công, khả năng Tổng thống Mỹ Barack Obama đi thăm
Việt Nam trong thời gian ngắn sắp tới đây là một điều có thực.
*****
Lợi ích chung Mỹ - Việt: Đồng pha hay lệch pha ?
RFI
- Thứ tư 17 Tháng Bẩy 2013
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry gặp Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh nhân
một cuộc họp ASEAN tại Brunei ngày 02/07/2013 - REUTERS
Thụy My
Gần đây các hoạt động ngoại giao của Việt Nam hết sức nhộn nhịp với các chuyến công du nước ngoài của nhiều nhân vật lãnh đạo, đặc biệt là đến Trung Quốc và Hoa Kỳ, khiến cho dư luận rất chú ý. Trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ, nhà báo Phạm Chí Dũng ở TP Hồ Chí Minh đã đưa ra những nhận định về vấn đề này.
RFI: Thân chào nhà báo Phạm Chí Dũng. Theo anh, thì nguyên nhân những
chuyển động ngoại giao có tính đột biến của Việt Nam là gì?
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Có một điểm tương đồng thú vị và
rất nhiều ẩn ý là tính bất ngờ cùng xảy ra trước hai chuyến đi của Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang đến Bắc Kinh và Washington. Nếu cuộc gặp gỡ với Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình chỉ được thông báo khoảng một tuần trước khi diễn ra,
thì “độ sớm” trước buổi tiếp kiến của Tổng thống Barack Obama với ông Sang là
đúng hai tuần.
Tiếp theo sự bất ngờ đó là bầu tâm tư ngỡ ngàng của phần
đông dư luận trong nước.
Hai chuyến ngoại giao con thoi của ông Sang đến Trung
Quốc và Mỹ, chưa kể chuyến đi trước đó của vị nguyên thủ này đến Indonesia và
cần tính luôn cả cuộc gặp người Thái và nhận bằng tiến sĩ danh dự của Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng, trong khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không đi đâu cả, hẳn
phải là một động thái khá đột ngột về chính trị, như nhen nhóm ánh lửa nào đó
cho không khí chính trường Việt Nam song ánh với bầu khí quyển quốc tế.
Trước đó, vào tháng 5/2013 và được bình luận là trong lúc
Hội nghị trung ương 7 còn chưa kết thúc, một tân ủy viên Bộ Chính trị là ông
Nguyễn Thiện Nhân đã bất ngờ mở màn chuyến tốc hành tới Bắc Kinh - dường như
mang ý nghĩa một cử chỉ có tính diện kiến hơn là một cuộc làm việc thực chất.
Động thái đối ngoại cấp tập của giới lãnh đạo Việt Nam
lại càng đáng được mổ xẻ nếu quay ngược về cuộc tiếp xúc Mỹ - Trung vào đầu
tháng 6/2013. Chỉ khoảng một tuần sau cuộc gặp thượng đỉnh khá hữu hảo này, một
quan chức cao cấp của quân đội Việt Nam là tướng Đỗ Bá Tỵ đã dẫn đầu một phái đoàn
quân sự cao cấp đi thăm Mỹ, theo lời mời của đại tướng Martin E. Dempsey, chủ
tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ.
Mối liên quan giữa các con thoi ngoại giao như thế hẳn
phải có tính logic với nhau, để cuối cùng dẫn đến chuyến đi Mỹ của ông Trương
Tấn Sang mà không tránh khỏi lời đồn đoán của dư luận về một “quyết định” nào
đó nảy sinh từ cuộc gặp giữa Obama và Tập Cận Bình vào tháng 6/2013.
RFI: Anh có thể cho biết ý kiến của anh cũng như dư luận trong nước về
chuyến đi Trung Quốc của ông Trương Tấn Sang ?
Khi người Trung Quốc mỉm cười trên bàn đàm phán, có thể
là lúc ngoài hành lang dấy lên một mưu mô nào đó. Sau nụ cười của Tập Cận Bình
ở Tòa Bạch Ốc, giữa Wasinhton và Bắc Kinh vẫn không tìm thấy một tiếng nói
chung, ít nhất liên quan đến một âm mưu khó hóa giải ở Biển Đông.
Gần như cùng thời điểm tin tức về chuyến đi Mỹ của ông
Sang được chính thức xác nhận vào ngày 11/7, tàu cá Việt Nam đã bị những bộ sắc
phục Trung Nam Hải đập phá, còn cờ Việt Nam bị chặt đốn. Hành vi xâm hại mới
nhất này lại gần như đồng thời với hoạt động tổ chức họp báo của đại sứ Trung
Quốc Khổng Huyễn Hựu, trong đó nhắc lại kết quả thỏa thuận giữa Bắc Kinh và Hà
Nội đã xảy ra đến gần một tháng trước đó.
Nhưng trước thái độ vừa ti tiện vừa trịch thượng của
người bạn có tên “Bốn Tốt”, điều không thể hiểu nổi là cơ quan tuyên giáo Việt
Nam vẫn trung hiếu với “Mười sáu chữ vàng”, đến mức có thông tin về việc vụ
trưởng báo chí của Ban Tuyên giáo Trung ương là Vũ Đình Thường còn nhắn tin cho
các báo trong nước, yêu cầu ngưng đưa tin tiếp về việc ngư dân Lý Sơn bị Trung
Quốc bắt giữ và đánh đập vừa qua.
Người ta đang tự hỏi: hàng chục văn bản được ký kết giữa
Việt Nam và Trung Quốc trong chuyến đi của ông Trương Tấn Sang đến Bắc Kinh mới
đây còn có ý nghĩa gì, khi ngày càng phát sinh nhiều dư luận cho rằng Nhà nước
Việt Nam bị tha lụy quá nhiều vào lịch sử ngàn năm Bắc thuộc, và chuyến đi của
ông Sang đã không có tác dụng nào, ít nhất đối với việc kềm chế chiến dịch gây
hấn của người bạn “môi hở răng lạnh” này.
Trong một buổi tiếp xúc cử tri của ông Sang ở Sài Gòn,
một doanh nhân là ông Nguyễn Văn Đực còn truy vấn thẳng thừng: “Người Tàu đã
cai trị chúng ta hàng trăm năm, hàng ngàn năm và luôn luôn tìm cách chèn ép
chúng ta. Ngày hôm nay người Tàu có mặt khắp nơi, từ rừng núi, đồng bằng, cao
nguyên, bờ biển … Bây giờ
chúng ta cho người Tàu đầu tư cái vịnh Bắc Việt. Tôi đề nghị chủ tịch phải hỏi
lại Ban chấp hành trung ương đảng có đồng ý hay không? Hỏi lại Quốc hội có đồng
ý hay không?”.
RFI: Đó là chuyến đi Trung Quốc, còn mục đích chuyến đi Mỹ của ông Trương
Tấn Sang là gì, theo anh?
Theo tôi, có ít nhất bốn mục tiêu mà giới lãnh đạo Việt
Nam đang tính toán, xếp theo thứ tự ưu tiên là an ninh và chủ quyền tại khu vực
biển Đông, nhu cầu đối tác chiến lược với Hoa Kỳ, sự bức thiết tham dự vào bàn
tiệc TPP (Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương), và kể cả kỳ vọng về
một chuyến thăm đáp của Tổng thống Obama tới Việt Nam.
Với tất cả những gì mà người tự nhận là “láng giềng tốt”
thể hiện một cách đầy kiên định và không thiếu xảo thuật, giới chức cầm quyền
Việt Nam có đầy đủ lý do để lo lắng về một tương lai cám cảnh nếu biển Đông
không còn an toàn, chí ít không còn là nơi mà các ngư dân không run đợi về sự
xuất hiện của “tàu lạ”. Ngược lại, Philippines là một minh họa mẫu mực về tinh
thần bất tuân trước sức ép của Trung Quốc. Mà Manila có được thái độ can trường
như thế không chỉ do lòng tự trọng bẩm sinh của dân tộc, mà còn được hiểu là
quốc gia này nhận được sự hậu thuẫn có trách nhiệm từ phía Washington.
Và nếu Việt Nam cũng tự tìm cho mình một sự hậu thuẫn
tương tự thì sự thể có được cải thiện hay không?
Chủ đề Biển Đông tất nhiên cũng nằm trong đường hướng
chiến lược của Hoa Kỳ ở khu vực Thái Bình Dương. Đó là một điểm chung về lợi
ích quân sự có tầm nhìn chiến lược. Vậy thì tại sao lại không nhân cái cơ may
ấy để biến cơ hội thành hai chiều có qua có lại? Vấn đề này, nếu được nhân lên
thì cũng có thể liên đới với một hình ảnh “đối tác chiến lược” nào đó giữa Việt
Nam và Mỹ.
Chỉ có điều, tục ngữ Việt Nam có câu “liệu cơm gắp mắm”,
sức tới đâu làm tới đó - một cụm từ mà giới lãnh đạo Việt Nam khá ưa dùng.
Nhưng thực tế đến nay, Việt Nam đã “gắp mắm” quan hệ chiến lược với Trung Quốc,
Nga và Anh, và còn tham vọng “đa phương hóa” ở cấp độ tương tự với cả Pháp và
Mỹ. Tuy thế, một số nhà phân tích độc lập đã phản biện rằng mấu chốt là Việt
Nam không có cùng định nghĩa về “đối tác chiến lược”. Một quốc gia có thể có
nhiều đối tác chiến lược về kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng không thể có nhiều
đối tác về quốc phòng. Nếu Việt Nam có quá nhiều đối tác chiến lược, sẽ không
ai biết nhà nước này muốn gì. Bắt cá nhiều tay là một chiến lược nguy hiểm, bởi
không ai muốn can thiệp khi Việt Nam bị lâm nguy vì sợ làm phật lòng những đối
tác chiến lược khác.
Còn về TPP, mục tiêu này lại gắn bó quá sâu nặng với hiện
trạng kinh tế đình đốn. Hiện thời, nền kinh tế Việt Nam đang ở vào điểm trũng
sâu nhất kể từ đầu thập kỷ 1990. Về cơ bản và trong sâu thẳm, nhiều nguồn tài
nguyên của đất nước đã gần cạn kiệt, còn sức bật của nền kinh tế đã trở nên yếu
ớt đến mức người dân đang nhìn thấy một triển vọng sụp đổ cận kề. Đứng trước
miền tương lai đặt một chân vào hố khủng hoảng như thế, TPP được xem là một
trong những lối thoát khả dĩ. Nếu biết “đi dây” định chế này, Việt Nam sẽ là
nước được hưởng lợi ích nhiều nhất trong hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút đầu
tư nước ngoài và quan hệ chặt chẽ hơn với chuỗi sản xuất quốc tế và còn có cơ
may thoát khỏi khủng hoảng kinh tế mà không rơi vào cơn khủng hoảng xã hội.
Cuối cùng, không thể không nói đến việc bất cứ một nguyên
thủ quốc gia nào trở thành bạn của Tổng thống Mỹ cũng sẽ khiến cho nhân vật đó
ít nhất hiển danh vị thế trong chính giới quốc nội. Là một trong những chính
khách cao cấp có tư cách nhất và chưa hề bị chứng minh sở hữu quá một căn nhà,
ông Sang ít ra cũng có đủ tư cách khi tuyên bố sẽ không lấy của ngân khố quốc
gia một milimét đất nào.
Vào kỳ họp lần thứ 5 Quốc hội khóa XIII vừa qua, ông Sang
đã nhận được 66% số phiếu tín nhiệm cao, vượt hơn khá nhiều khối quan chức của
Chính phủ. Đó cũng có thể là một kết quả theo tôi là khá khả quan mà theo một
số dư luận, sự nghiệp chính trị của ông Sang sẽ còn “nâng lên một tầm cao mới”
trong những năm tới đây. Cũng có dư luận cho rằng nếu điều này xảy ra sẽ đồng
nghĩa với một kỳ vọng chiến lược nào đó của ông Tập Cận Bình.
RFI: Còn đối với phía Mỹ thì quyền lợi của họ là gì nếu Hoa Kỳ trở thành
“đối tác chiến lược” với Việt Nam?
Quyền lợi của họ phụ thuộc nhiều vào hệ tư tưởng của họ.
John Kerry - tân Ngoại trưởng Hoa Kỳ - đã có tiếng là người thực dụng khi phát
ngôn “Ở đâu có quyền lợi chung thì cả Mỹ và Việt Nam có thể làm việc cùng
nhau”.
Vậy điều được xem là lợi ích chung đó là cái gì?
Dù kim ngạch thương mại hai chiều giữa Mỹ và Việt Nam đã
đạt hơn 24 tỉ đô la trong năm 2012, nhưng con số này chỉ chiếm chưa đầy 3% so
với 646 tỷ euro kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Mỹ và khối EU. Tức không có
gì đáng kể đối với Mỹ trong mối quan hệ kinh tế với Việt Nam, mà ý nghĩa của
mối quan hệ thương mại này chỉ đáng được Việt Nam xem trọng.
Tại Little Sài Gòn vào tháng 6/2013 vừa qua, đại sứ Hoa
Kỳ tại Việt Nam là David Shear cho biết bốn mục tiêu của Hoa Kỳ trong quan hệ
với Việt Nam là “quan hệ kinh tế và thương mại; hợp tác về ngoại giao và an
ninh khu vực; giáo dục, y tế, môi trường; đối thoại rất nghiêm khắc và rất mạnh
mẽ về nhân quyền.”
Tất nhiên, đó là cách nói ngoại giao và cách sắp xếp thứ
tự mục tiêu ưu tiên của một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, nhưng tôi tin rằng
Biển Đông và chiến lược quân sự khu vực Thái Bình Dương mới là lợi ích chủ yếu
của người Mỹ, và cũng là điểm chung lớn nhất về lợi ích giữa Mỹ và Việt Nam.
Một trong những minh chứng rõ ràng nhất cho điểm chung này là kể cả sau cuộc
gặp thượng đỉnh Mỹ - Trung, phía Mỹ vẫn tiếp tục đề cập đến vấn đề kềm chế xung
đột tại Biển Đông như một biểu hiện khó hàn gắn giữa Trung Quốc với các nước
đồng minh của Mỹ.
Một biểu hiện khác dù nhỏ, nhưng không thiếu ẩn ý là vào
tháng 4/2013, hai chiến hạm của Hải quân Hoa Kỳ đã cập cảng Đà Nẵng trong
chuyến thăm và hoạt động “trao đổi Hải quân” kéo dài 5 ngày với Hải quân Việt
Nam.
Theo một blogger giấu tên ở Sài Gòn, với tư cách là
“người bảo trợ thế giới”, Mỹ hoàn toàn không muốn nhìn thấy cận cảnh các lực
lượng Trung Quốc sẽ tràn xuống phía Nam châu Á. Tất nhiên, Việt Nam được xem là
một trong những tiền đồn ngăn chặn nạn triều cường ấy.
Tuy nhiên, như đã từng trần tình "Ý kiến của
giới lãnh đạo Việt Nam về Hoa Kỳ rất là phức tạp”, đại sứ Hoa Kỳ David Shear đã
không dám chắc chắn về quan điểm trước sau như một của giới lãnh đạo Việt Nam,
nhất là trong bối cảnh dư luận đang đồn đoán sôi nổi về những ngã rẽ bất ngờ có
thể hiện ra ngay trong nội bộ. Vì thế, ông David Shear đã nêu ra một khái niệm
liên quan đến thái độ “chọn Mỹ hay Trung Quốc” của Việt Nam là “đi một đường tế
nhị” (a delicate line).
RFI: Khái niệm về một sự “lựa chọn tế nhị” như thế có liên quan gì với lời
khẳng định sẽ “đối thoại rất nghiêm khắc và rất mạnh mẽ về nhân quyền” cũng của
đại sứ David Shear trước đây?
Đó là quan điểm và thái độ có thật của người Mỹ, cho thấy
sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ vào tháng 4/2013, chưa bao giờ Hoa Kỳ
bỏ qua hạng mục dân chủ và nhân quyền trong đồ án đối thoại với Việt Nam.
Một giáo sư của trường đại học George Mason ở Mỹ là ông
Nguyễn Mạnh Hùng từng phân tích: “Chính sách đối ngoại của Mỹ luôn hướng tới ba
mục tiêu khác nhau: quyền lợi chiến lược, quyền lợi kinh tế và quyền lợi về giá
trị. Cái cuối cùng chính là tự do, dân chủ và nhân quyền”.
Nếu giới ngoại giao Hoa Kỳ gần đây luôn cho rằng Mỹ sẽ
“đối thoại rất nghiêm khắc và rất mạnh mẽ về nhân quyền”, thì chủ đề dân chủ và
nhân quyền, dù không phải là quyền lợi trực tiếp của Mỹ ở Việt Nam, cũng đang
gây sức ép không quá khiêm tốn đối với chính quyền Obama, đòi hỏi phải gia tăng
can thiệp để cải thiện tình hình ở Việt Nam.
Trong nội tình người Mỹ, nếu trước cuộc đối thoại nhân
quyền Việt - Mỹ, Phó trợ lý Ngoại trưởng Dan Baer là nhân vật cứng rắn đặc biệt
đối với Việt Nam, thì gần đây một trong những tiếng nói gay gắt tiêu biểu nhất
lại đến từ dân biểu Frank Wolf của đảng Cộng hòa khi ông này nêu ra kết luận:
“Người dân Việt Nam và hàng triệu người Mỹ gốc Việt xứng đáng được hưởng điều
kiện tốt hơn những gì mà Đại sứ Shear và chính quyền này mang lại. Chính quyền
Obama đã làm thất vọng mọi công dân Việt Nam và mọi công dân Mỹ gốc Việt vốn
quan tâm đến nhân quyền và tự do tôn giáo”.
Có lẽ đó cũng là lý do tại sao gần đây hai văn bản về
nhân quyền đối với Việt Nam lại gấp rút được soạn thảo và trình lên Hạ nghị
viện và Thượng nghị viện.
Văn bản thứ nhất là Dự luật Nhân quyền Việt Nam HR
1897, đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện tình hình nhân quyền ở Việt
Nam thông qua ràng buộc điều kiện nhân quyền và dân chủ vào các khoản
viện trợ phi nhân đạo dành cho chính phủ Việt Nam, đồng thời cổ súy
thái độ cứng rắn hơn đối với Hà Nội trong lĩnh vực nhân quyền và
tự do tôn giáo.
Còn bản Dự luật chế tài nhân quyền Việt Nam lại hàm chứa
một nội dung rất “nhạy cảm” là “Tổng thống sẽ đóng băng và cấm chỉ tất cả các
giao dịch liên quan đến tất cả các tài sản và lợi ích của một cá nhân trong
danh sách được quy định ở điểm (c)(1) nếu những tài sản và lợi tức đó nằm ở Hoa
Kỳ, rơi vào Hoa Kỳ, hoặc nằm ở hoặc rơi vào quyền sở hữu hoặc kiểm soát của một
người Mỹ”.
Nếu được cả hai viện thông qua, hai dự luật này sẽ được
trình lên tổng thống, và người ta cho rằng điều đó sẽ tạo nên một sức ép đáng
kể đối với Hà Nội trong thời gian tới, chẳng kém thua sức đè của Trung Nam Hải
trên Biển Đông.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà mới đây Tổ chức Phóng viên
Không biên giới đã tung ra một danh sách 35 blogger bị giam cầm ở Việt Nam, như
một bằng chứng hối thúc thái độ cần quyết liệt hơn của chính phủ Mỹ.
RFI: Đặt giả thiết nếu chính phủ Mỹ tỏ ra quyết liệt hơn thì tương lai về
một hiệp định TPP đối với Việt Nam theo anh sẽ ra sao?
Đó là một câu hỏi, một ẩn số. Cần nhắc lại là vào tháng
5/2013, ông David Shear, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã không kém ẩn ý về mối
quan hệ giữa hiệp ước TPP và chủ đề nhân quyền: “Sẽ có rất nhiều người ở Quốc
hội Mỹ đặt câu hỏi về vấn đề dân chủ, nhân quyền của Việt Nam khi chúng tôi
trình hiệp ước đó (TPP) lên, chúng tôi không thể tránh được thực tế chính trị
đó”. Ông David Shear còn giải thích thêm là nếu Việt Nam không có tiến bộ về
mặt dân chủ, nhân quyền thì sẽ rất khó để có được sự ủng hộ chính trị ở Quốc
hội để thông qua hiệp ước này; và cam kết sẽ tiếp tục nêu lên vấn đề nhân quyền
với nhà cầm quyền Việt Nam vì “đất nước Hoa Kỳ có ưu thế để đưa ra những vấn đề
này.”
Nếu chiếu theo cách nhìn của khá nhiều nghị sĩ Mỹ, Hoa Kỳ
đã đủ thời gian và bài học về thành tích “thụt lùi sâu sắc” của Việt Nam về mặt
nhân quyền trong sáu năm qua, kể từ ngày quốc gia này mở tiệc ăn mừng do được
chấp thuận tham gia vào WTO.
Còn vào tháng 10/2013 tới là thời điểm chốt đàm phán TPP
và cũng là chuẩn bị cho cuộc đối thoại nhân quyền Việt Mỹ tiếp theo.
Dĩ nhiên từ đây đến đó còn nhiều việc cho chính quyền
Việt Nam phải lo lắng và suy tính, nhất là những việc liên quan đến quyền lợi
kinh tế gắn với điều kiện chính trị.
Trong khi đó, những người phương Tây lại hy vọng rằng nếu
các tác động đối ngoại có ảnh hưởng ở mức độ nào đó đối với vấn đề dân chủ và
nhân quyền, bầu không khí nội chính ở Việt Nam sẽ trở nên êm ái hơn vào thời
gian tới, ít nhất về mặt chiến thuật.
Vào ngày 9/7/2013, phiên xử án một luật sư Công giáo và
cũng được xem là nhà bất đồng chính kiến là Lê Quốc Quân đã bất ngờ bị hoãn
lại. Hai ngày sau đó, người dân được biết chính thức về chuyến đi Mỹ sẽ diễn ra
của ông Trương Tấn Sang.
Có lẽ trong con mắt giới quan sát phương Tây và các nhóm
hoạt động dân chủ trong nước, cuộc gặp Obama - Sang dù có thể không trình đạt
một thỏa thuận nào về nhân quyền, nhưng ít nhất vẫn khơi gợi không khí dân chủ
hơn cho hoạt động tự do ngôn luận và đặc biệt là hoạt động phản biện ôn hòa ở
Việt Nam trong thời gian tới, ít ra cho đến khi bài toán TPP có đáp số rõ ràng.
Chưa kể đến phương trình ứng cử một ghế nhân quyền của
nhà nước Việt Nam vẫn còn nhiều ẩn số vào tháng Giêng năm 2014 …
*****
Đã tới lúc Việt - Mỹ xác lập khuôn khổ đối
tác mới
Đà
Nẵng Online - Thứ Hai, 22/07/2013
Đại sứ Nguyễn Quốc Cường xác định chuyến thăm chính thức Mỹ lần này của Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang có ý nghĩa rất quan trọng, mở ra một giai đoạn mới
cho quan hệ hai nước.
Nhận lời mời của Tổng thống Mỹ Barack Obama, Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang sẽ tiến hành chuyến thăm chính thức Mỹ từ ngày 24 đến ngày
26-7-2013. Nhân dịp này, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Nguyễn Quốc Cường đã trả lời
phỏng vấn về chuyến thăm cũng như về quan hệ Việt - Mỹ.
Đại sứ Nguyễn Quốc Cường xác định chuyến thăm chính thức
Mỹ lần này của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có ý nghĩa rất quan trọng, mở ra
một giai đoạn mới cho quan hệ hai nước.
Tổng thống Hoa Kỳ Barack
Obama và Phu nhân đón Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Phu nhân tại hội nghị
APEC 19
Đây là chuyến thăm chính thức Mỹ lần thứ hai của người
đứng đầu Nhà nước Việt Nam sau gần hai thập niên bình thường hóa quan hệ và là
chuyến trao đổi đoàn cấp cao đầu tiên trong vòng 5 năm qua, diễn ra trong bối
cảnh quan hệ hai nước đang trên đà phát triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh
vực, các kênh trao đổi giữa hai nước ngày càng đa dạng.
Chuyến thăm chính thức Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang còn là sự triển khai tích cực đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế, cũng như chiến lược hội nhập quốc tế của nước ta.
Chuyến thăm chính thức Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang còn là sự triển khai tích cực đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế, cũng như chiến lược hội nhập quốc tế của nước ta.
Trong chuyến thăm, ngoài hội đàm với Tổng thống Obama,
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ có một chương trình hoạt động hết sức dày đặc,
làm việc với lãnh đạo Quốc hội, nhiều thượng nghị sỹ và hạ nghị sỹ, gặp gỡ
chính giới, nhiều doanh nghiệp và học giả, bạn bè, lãnh đạo một số tổ chức quốc
tế và cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ.
Tại các cuộc gặp này, lãnh đạo hai nước sẽ cùng trao đổi về tầm nhìn quan hệ song phương trong giai đoạn mới, về những vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm, qua đó đưa quan hệ đi vào chiều sâu và ổn định hơn.
Đánh giá về thực trạng và triển vọng quan hệ hai nước, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường nhận định dựa trên nền móng khá vững chắc với những cơ chế hợp tác ổn định cho quan hệ song phương, quan hệ hai nước còn rất nhiều tiềm năng và hoàn toàn có cơ sở để lạc quan về mối quan hệ giữa hai nước trong những năm tới.
Theo Đại sứ Nguyễn Quốc Cường: "Gần một thập niên đã trôi qua kể từ khi hai nước xây dựng khuôn khổ quan hệ "đối tác xây dựng, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt trên cơ sở bình đẳng, cùng tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi" vào năm 2005. Với tầm mức của quan hệ hai nước hiện nay, với những tiềm năng đáng kể đang hứa hẹn phía trước, đã đến lúc hai nước cần xác lập khuôn khổ đối tác mới cho quan hệ hai nước.
Và, chúng ta trông đợi vào cuộc hội đàm giữa Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ xác định được khuôn khổ quan hệ mới đó, cùng với những nguyên tắc và nội hàm rõ ràng."
Trong gần hai thập niên kể từ khi bình thường hóa, quan hệ hai nước những năm qua đã phát triển khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực.
Về chính trị ngoại giao, hai bên duy trì các chuyến thăm lẫn nhau và các cuộc gặp gỡ cấp cao bên lề các hội nghị quốc tế; hợp tác, phối hợp có hiệu quả trên các diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là Diễn đàn kinh tế châu Á-Thái binh dương (APEC), Diễn đàn an ninh châu Á (ARF), Cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng mở rộng (ADMM+)...
Về kinh tế, từ năm 2005 Mỹ liên tục giữ vị trí thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với lượng hàng xuất khẩu tăng hơn 100 lần trong chưa đầy 20 năm. Hai bên cũng tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ cũng như đẩy mạnh giao lưu nhân dân giữa hai nước.
Hiện nay, có khoảng 16,000 sinh viên Việt Nam đang theo học ở Mỹ, tăng gấp đôi so với con số năm 2008, đưa Việt Nam đứng đầu trong các nước Đông Nam Á, và đứng thứ 8 trong số tất cả các nước có sinh viên du học tại Mỹ. Trong năm 2012, lượng khách Mỹ đến Việt Nam đạt gần 400,000, xếp thứ 4 trong số các nước có nhiều du khách vào Việt Nam.
Về việc giải quyết các hậu quan do chiến tranh để lại và những vấn đề hai bên còn khác biệt, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường cho rằng đúng là nói đến quan hệ hai nước, không thể không đề cập đến việc giải quyết những vấn đề do chiến tranh để lại. Việt Nam đã trải qua những mất mát, hy sinh hết sức to lớn về người và của trong cuộc chiến và nếu vẫn với nguồn lực như hiện nay thì phải mất 100 năm nữa, Việt Nam mới giải quyết xong việc rà phá bom mìn còn chưa nổ tại khắp các tỉnh, thành của đất nước.
Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn coi việc tìm kiếm lính Mỹ bị mất tích trong chiến tranh là vấn đề nhân đạo và hợp tác vô điều kiện với Mỹ trong vấn đề này. Tính đến tháng 5/2013, Việt Nam và Mỹ đã thực hiện thành công 109 đợt hoạt động hỗn hợp, hơn 125 đợt trao trả hài cốt, nhờ đó phía Mỹ đã nhận dạng được 693 trên tổng số 1,983 trường hợp bị mất tích. Về phần mình, phía Mỹ cũng đã giúp thu thập, chia sẻ thông tin với Việt Nam về khoảng 1,000 trường hợp bộ đội Việt Nam bị mất tích, trao trả các kỷ vật.
Theo Đại sứ Nguyễn Quốc Cường, Việt Nam "ghi nhận sự hợp tác, hỗ trợ ngày một tăng của chính phủ và các tổ chức, cá nhân của Mỹ liên quan đến việc giải quyết hậu quả chất độc da cam dioxin và các trợ giúp y tế đối với các nạn nhân chất độc da cam/dioxin…," đồng thời hy vọng phía Mỹ "làm nhiều hơn nữa liên quan đến những vấn đề nhân đạo này".
Về vấn đề dân chủ nhân quyền, Đại sứ thừa nhận hai bên còn có những khác biệt, song khẳng định vấn đề quan trọng là hai bên sẵn sàng trao đổi thẳng thắn để tăng cường hiểu biết, thu hẹp các khác biệt.
Trên tinh thần đó, "tôi hiểu rằng trong chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chúng ta cũng sẵn sàng trao đổi các vấn đề liên quan đến dân chủ nhân quyền, tự do tôn giáo", Đại sứ cho biết.
Đại sứ Nguyễn Quốc Cường khẳng định "chỉ có hữu nghị, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau mới là sự lựa chọn đúng đắn để đưa quan hệ Việt Nam-Mỹ hướng tới tương lai, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích chung của nhân dân hai nước".
Tại các cuộc gặp này, lãnh đạo hai nước sẽ cùng trao đổi về tầm nhìn quan hệ song phương trong giai đoạn mới, về những vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm, qua đó đưa quan hệ đi vào chiều sâu và ổn định hơn.
Đánh giá về thực trạng và triển vọng quan hệ hai nước, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường nhận định dựa trên nền móng khá vững chắc với những cơ chế hợp tác ổn định cho quan hệ song phương, quan hệ hai nước còn rất nhiều tiềm năng và hoàn toàn có cơ sở để lạc quan về mối quan hệ giữa hai nước trong những năm tới.
Theo Đại sứ Nguyễn Quốc Cường: "Gần một thập niên đã trôi qua kể từ khi hai nước xây dựng khuôn khổ quan hệ "đối tác xây dựng, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt trên cơ sở bình đẳng, cùng tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi" vào năm 2005. Với tầm mức của quan hệ hai nước hiện nay, với những tiềm năng đáng kể đang hứa hẹn phía trước, đã đến lúc hai nước cần xác lập khuôn khổ đối tác mới cho quan hệ hai nước.
Và, chúng ta trông đợi vào cuộc hội đàm giữa Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ xác định được khuôn khổ quan hệ mới đó, cùng với những nguyên tắc và nội hàm rõ ràng."
Trong gần hai thập niên kể từ khi bình thường hóa, quan hệ hai nước những năm qua đã phát triển khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực.
Về chính trị ngoại giao, hai bên duy trì các chuyến thăm lẫn nhau và các cuộc gặp gỡ cấp cao bên lề các hội nghị quốc tế; hợp tác, phối hợp có hiệu quả trên các diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là Diễn đàn kinh tế châu Á-Thái binh dương (APEC), Diễn đàn an ninh châu Á (ARF), Cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng mở rộng (ADMM+)...
Về kinh tế, từ năm 2005 Mỹ liên tục giữ vị trí thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với lượng hàng xuất khẩu tăng hơn 100 lần trong chưa đầy 20 năm. Hai bên cũng tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ cũng như đẩy mạnh giao lưu nhân dân giữa hai nước.
Hiện nay, có khoảng 16,000 sinh viên Việt Nam đang theo học ở Mỹ, tăng gấp đôi so với con số năm 2008, đưa Việt Nam đứng đầu trong các nước Đông Nam Á, và đứng thứ 8 trong số tất cả các nước có sinh viên du học tại Mỹ. Trong năm 2012, lượng khách Mỹ đến Việt Nam đạt gần 400,000, xếp thứ 4 trong số các nước có nhiều du khách vào Việt Nam.
Về việc giải quyết các hậu quan do chiến tranh để lại và những vấn đề hai bên còn khác biệt, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường cho rằng đúng là nói đến quan hệ hai nước, không thể không đề cập đến việc giải quyết những vấn đề do chiến tranh để lại. Việt Nam đã trải qua những mất mát, hy sinh hết sức to lớn về người và của trong cuộc chiến và nếu vẫn với nguồn lực như hiện nay thì phải mất 100 năm nữa, Việt Nam mới giải quyết xong việc rà phá bom mìn còn chưa nổ tại khắp các tỉnh, thành của đất nước.
Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn coi việc tìm kiếm lính Mỹ bị mất tích trong chiến tranh là vấn đề nhân đạo và hợp tác vô điều kiện với Mỹ trong vấn đề này. Tính đến tháng 5/2013, Việt Nam và Mỹ đã thực hiện thành công 109 đợt hoạt động hỗn hợp, hơn 125 đợt trao trả hài cốt, nhờ đó phía Mỹ đã nhận dạng được 693 trên tổng số 1,983 trường hợp bị mất tích. Về phần mình, phía Mỹ cũng đã giúp thu thập, chia sẻ thông tin với Việt Nam về khoảng 1,000 trường hợp bộ đội Việt Nam bị mất tích, trao trả các kỷ vật.
Theo Đại sứ Nguyễn Quốc Cường, Việt Nam "ghi nhận sự hợp tác, hỗ trợ ngày một tăng của chính phủ và các tổ chức, cá nhân của Mỹ liên quan đến việc giải quyết hậu quả chất độc da cam dioxin và các trợ giúp y tế đối với các nạn nhân chất độc da cam/dioxin…," đồng thời hy vọng phía Mỹ "làm nhiều hơn nữa liên quan đến những vấn đề nhân đạo này".
Về vấn đề dân chủ nhân quyền, Đại sứ thừa nhận hai bên còn có những khác biệt, song khẳng định vấn đề quan trọng là hai bên sẵn sàng trao đổi thẳng thắn để tăng cường hiểu biết, thu hẹp các khác biệt.
Trên tinh thần đó, "tôi hiểu rằng trong chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chúng ta cũng sẵn sàng trao đổi các vấn đề liên quan đến dân chủ nhân quyền, tự do tôn giáo", Đại sứ cho biết.
Đại sứ Nguyễn Quốc Cường khẳng định "chỉ có hữu nghị, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau mới là sự lựa chọn đúng đắn để đưa quan hệ Việt Nam-Mỹ hướng tới tương lai, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích chung của nhân dân hai nước".
Theo TTXVN
*****
Chủ tịch Việt Nam lên đường thăm Mỹ
BBC
- Thứ ba, 23 tháng 7, 2013
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang cùng
phái đoàn rời Hà Nội để thăm Hoa Kỳ hôm 23/7.
Trong
một cử chỉ đặc biệt, chủ tịch Việt Nam mời cả một số chức sắc tôn giáo đi cùng.
Cộng
đồng người Việt ở Mỹ đang vận động đòi Tổng thống Obama đề cập cáo buộc vi phạm
tự do tôn giáo khi gặp ông Sang. Việt Nam nói tại Mỹ, các vị chức sắc tôn
giáo Việt Nam sẽ trao đổi “rất thẳng thắn và cởi mở” với nhiều tổ chức phi
chính phủ quan tâm đến dân chủ nhân quyền và tự do tôn giáo. Họ sẽ gặp cả “những tổ chức xưa nay vẫn có cái nhìn thiên lệch về dân chủ
nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam,” theo truyền thông nhà nước. Hôm 22/7, một số đại diện tôn giáo người Việt ở Mỹ đã gặp Phó Trợ lý Ngoại
trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân chủ-Nhân quyền-Lao động, Tiến sĩ Daniel Baer.
Một
tổ chức khác, Ủy Hội Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (USCIRF), cũng kêu gọi
Tổng thống Barack Obama “nêu quan ngại về vi phạm tự do tôn giáo” khi gặp Chủ
tịch Sang.
'Quan hệ mới'
Trong
chuyến thăm này, Chủ tịch Việt Nam dự định sẽ kêu gọi Mỹ chấm dứt lệnh cấm bán
vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Được
hãng tin Mỹ AP hỏi qua email về lệnh cấm, ông Trương Tấn Sang nói “nay là lúc
để bình thường hóa đầy đủ quan hệ song phương trong mọi lĩnh vực”. Chủ tịch Việt Nam nói thêm với AP rằng có khác biệt giữa Washington và Hà
Nội về nhân quyền, nhưng điều này “hoàn toàn bình thường”. Ông
Sang nói ở Việt Nam "các quyền căn bản và tự do của nhân dân được tôn
trọng", theo tin của AP.
Đây
mới là lần thứ hai một chủ tịch nước Việt Nam thăm Hoa Kỳ từ sau 1975, với cuộc
hội kiến lần đầu ở Nhà Trắng giữa Chủ tịch Nguyễn Minh Triết và Tổng thống
George W. Bush năm 2007.
Đại
sứ Việt Nam tại Mỹ, Nguyễn Quốc Cường, nói với báo trong nước “đã đến lúc hai
nước cần xác lập khuôn khổ đối tác mới cho quan hệ”.
Ông
Cường cho rằng những khác biệt về chính trị “không lớn so với lợi ích và xu thế
chung trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ là hợp tác vì ổn định, hòa bình và phát
triển”.
Trong
khi đó, Đại sứ Mỹ ở Hà Nội, David Shear, cũng vừa có bài viết trên báo Tuổi Trẻ
ở TP. HCM, gọi cuộc gặp giữa ông Sang và Obama là "cuộc gặp lịch sử". "Mỹ ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập, tôn
trọng nhân quyền," đại sứ Mỹ nói.
Gọi
quan hệ kinh tế là câu chuyện "thành công", ông David Shear nhấn mạnh
tầm quan trọng của Hiệp định thương mại tự do và đầu tư đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP).
Đại
sứ Mỹ hứa hẹn: "Nếu Việt Nam phê chuẩn hiệp định gồm 12 thành viên này,
Việt Nam sẽ được tiếp cận gần như là tự do vào các thị trường TPP mà kết hợp
lại chiếm tới 40% GDP toàn cầu và khoảng 1/3 thương mại của toàn thế
giới."
Việt
Nam cho biết đi cùng ông Trương Tấn Sang có các bộ trưởng ngoại giao, công
thương, giáo dục, nông nghiệp. Trong đoàn có Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Nguyễn Chí Vịnh và Thứ trưởng Bộ Công an Tô Lâm. Các
bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi, Hải Dương, Trưởng ban tôn giáo chính phủ cùng một số
quan chức khác cũng đi theo đoàn.
Cuộc
hội kiến giữa Tổng thống chủ nhà Barack Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ
diễn ra trong ngày 25/7.
*****
Mỹ công nhận vai trò quan trọng của Việt Nam trong chính sách xoay trục qua châu Á
RFI - Thứ ba 23 Tháng Bẩy 2013
Trọng Nghĩa
Ba hôm trước cuộc gặp thượng đỉnh Barack Obama – Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng, ngày 22/07/2013, ngành ngoại giao Mỹ khẳng định trở lại trọng tâm mà Washington đặt vào châu Á, thể hiện qua chính sách tái cân bằng lực lượng, còn gọi là xoay trục qua châu Á-Thái Bình Dương đã được Tổng thống Obama loan báo.
Trong một cuộc họp báo, bên cạnh việc xác nhận lại các ưu tiên của Mỹ trong vùng, ông Danny Russel, người vừa chính thức nhậm chức Trợ lý Ngoại trưởng đặc trách Đông Á – Thái Bình Dương, còn nói rõ thêm về vị trí của Việt Nam và Đông Nam Á trong chính sách châu Á của Hoa Kỳ.Về vùng Đông Nam Á, ông Russel đã công nhận rằng đây là khu vực được Mỹ cho là năng động nhất trong toàn châu Á -Thái Bình Dương, và là nơi mà Hoa Kỳ đang và sẽ tiếp tục đầu tư một cách đáng kể vào việc vun bồi quan hệ với các nước từ lớn đến nhỏ, từ Indonesia nước lớn nhất, cho đến Singapore hay Brunei, hai quốc gia nhỏ nhất.
Riêng về Việt Nam, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ xác định rằng quan hệ đối tác song phương đang vươn lên, với một “dấu mốc khá lịch sử” là chuyến công du của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang. Theo ông Russel, ngoài cuộc hội đàm với Tổng thống Mỹ Barack Obama ngày Thứ Năm (25/07/2013), trước đó Chủ tịch nước Việt Nam sẽ được Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đón tiếp. Lãnh đạo Việt Nam được cho là sẽ đến Mỹ ngay vào chiều nay 23/07/2013.
Trả lời câu hỏi của một nhà báo người Việt, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ cho rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đang có cơ hội phát triển rất lớn, đặc biệt nhờ vào mối quan hệ cá nhân của đương kim Ngoại trưởng John Kerry với Việt Nam, không chỉ từ lúc ông còn trong quân ngũ, mà còn từ các giai đoạn sau đó …
Ông Russel nhắc lại rằng thời còn làm Thượng nghị sĩ, kể cả lúc làm Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, ông Kerry đã đi thăm Việt Nam 17 lần. Cùng các đồng nghiệp tại Thượng viện, ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc tiến tới một kiểu quan hệ chiến lược và toàn diện, một quan hệ đối tác mà Mỹ và Việt Nam có thể xây dựng – và đang xây dựng.
Một cách cụ thể hơn, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ cho rằng Việt Nam có một vị trí “gần sát trung tâm của chiến lược tái cân bằng” qua châu Á. Ông Russel giải thích : “Việt Nam là một quốc gia đang vươn lên … Việt Nam là một tác nhân chủ chốt trong ASEAN vào một thời điểm mà sự tham gia của Mỹ vào trong các tổ chức (khu vực) … đang tăng tốc. Việt Nam cũng là một đối tác đàm phán quan trọng của Hiệp ước thương mại Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP".
Tuy nhiên ông Russel cũng nêu lên hai quan điểm thận trọng đối với Việt Nam. Trước hết, trong số 12 quốc gia tham gia vào các cuộc đàm phán TPP, Việt Nam là nước nằm ở cuối bậc thang phát triển. Chính vì vậy mà theo ông Russel, Việt Nam được Ngân hàng Thế giới cho là nước sẽ hưởng lợi nhiều nhất khi là thành viên một khối mậu dịch có tiêu chuẩn và chất lượng cao như TPP.
Vấn đề thứ hai, theo ông Russel, là Hoa Kỳ luôn có những mối quan tâm đáng kể và đã hết sức chú ý đến tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Theo Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, Washington nhận thức rõ những tiến bộ trong lãnh vực này ở Việt Nam, nhưng vẫn rất quan tâm đến các lãnh vực chưa có tiến bộ.
Về Biển Đông, người phụ trách châu Á của Bộ Ngoại giao Mỹ đã không ngần ngại khen ngợi lập trường của Việt Nam. Ông Russel giải thích: “Theo Ngoại trưởng Kerry, người sẽ ăn trưa với Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang vào ngày Thứ Tư (24/07/2013), chuyến thăm này là cơ hội để tăng cường sự phối hợp giữa hai nước về các vấn đề chiến lược trong khu vực, bao gồm cả vấn đề quan trọng là Biển Đông, nơi mà Việt Nam, dù là một bên tranh chấp, nhưng cũng là một tiếng nói rất có trách nhiệm, ủng hộ một cách tiếp cận ngoại giao dựa trên luật pháp".
*****
Bốn kịch bản cho cuộc gặp Mỹ-Việt
Phạm Chí Dũng - Gửi cho BBC từ Sài Gòn - Thứ tư, 24 tháng 7, 2013
Ngay sau khi cuộc gặp Obama - Trương Tấn Sang được Nhà
Trắng chính thức thông báo vào ngày 11/7, không khí bình luận trong nước và
quốc tế bất chợt sôi động hẳn lên. Người ta nói về và đặt câu hỏi về sự vội vã
đáng hoài nghi về chuyến đi của ông Sang.
Lần thứ hai trong
năm nay, sau thông báo đột ngột về cuộc diện kiến ông Tập Cận Bình ở Bắc Kinh,
cuộc gặp ông Obama của ông Sang là một sự kiện có tính bất ngờ.
Cuộc gặp ở
Washington này lại chỉ diễn ra sau cuộc gặp tại Bắc Kinh, và sau khi nguyên
thủ hai cường quốc của hành tinh đã có tiếp xúc ở California vào
đầu tháng Sáu.
Trong bối cảnh
đó, liệu có một nhà lãnh đạo nào của Việt Nam đủ dũng khí để đứng ra tuyên bố
sẽ ngả hẳn về phương Bắc hay sang phương Tây?
Hiện thời, chưa
có ai trả lời được câu hỏi này. Nhưng nếu bạn là người Việt Nam và cảm nhận
được vô số điều khó xử của giới chức lãnh đạo cao cấp ở đất nước đầy phức hợp
này, có lẽ bạn sẽ không thể tìm thấy đáp số, ít ra trong ngắn hạn.
Phần đông dư luận
vẫn nhìn nhận về cuộc gặp Sang – Obama như một cái gì đó có tính xã giao và có
thể cả tính quảng bá – tuyên truyền cho một thế đứng chính trị trên trường quốc
tế và có thể cả thế “đi dây” mang nội hàm chính thể lẫn lợi ích cá nhân.
Còn nếu nhìn từ
hệ quy chiếu của Nhà Trắng, liệu có xảy đến một kịch bản tiêu cực cho cuộc hội
kiến Obama – Sang?
Với những gì đã
được “quy chiếu” bởi trục thương mại Mỹ - Trung với những móc xích khóa chặt
giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, cùng hai chuyến diện kiến con thoi như
được mặc định của người Việt Nam, gần như chắc chắn sẽ không có kịch bản xấu,
bởi điều dễ hiểu là sẽ khó có một mâu thuẫn đủ lớn, ít ra trong ngắn hạn, có
thể gây tác động không tốt đến chuyến đi Washington.
Cũng sẽ chẳng có
một sự quay lưng hoàn toàn nào của Hoa Kỳ đối với những nguyện vọng và cả tham
vọng của Việt Nam.
Những kịch bản lạc quan
"Sẽ
chẳng có một sự quay lưng hoàn toàn nào của Hoa Kỳ đối với những nguyện vọng và
cả tham vọng của Việt Nam"
Cuộc gặp Việt - Mỹ năm 2007
Vài ngày trước
cuộc gặp giữa hai ông Obama – Sang, một nhóm nhân sĩ, trí thức Việt Nam đã gửi
thỉnh nguyện thư cho người chuẩn bị bước qua cửa Nhà Trắng.
Không thể nói
khác hơn là tâm tư trong bản thỉnh nguyện thư trên, được khởi tả chủ yếu từ các
nhân sĩ và trí thức trong nhóm “Kiến nghị 72”, vẫn nặng lòng với vận mệnh dân
tộc và vẫn trông đợi, dù chỉ bằng một xác suất rất nhỏ, vào cơ hội “thoát
Trung” từ chuyến đi Hoa Kỳ của ngài chủ tịch nước.
Một chuyên gia
quốc tế còn nhận định có thể ông Trương Tấn Sang sẽ quyết định “trả một cái
giá” để đổi lại sự ủng hộ của người Mỹ trong các vấn đề đối tác chiến lược toàn
diện, an ninh khu vực biển Đông và cả những quyền lợi kinh tế liên quan đến
Hiệp định TPP.
Một lần nữa,
nhiều người lại kỳ vọng vào một sự thay đổi, sau cuộc gặp Nguyễn Minh Triết –
George W. Bush cách đây sáu năm mà đã hầu như chẳng tạo ra một hiệu ứng đổi
thay nào.
Tất nhiên, hy
vọng vẫn là hy vọng, bởi đó là một trong số không nhiều thực tồn có thể tồn tại
ở Việt Nam mà không bị đánh thuế.
Những người theo
xu thế lạc quan đã vẽ ra một kịch bản tốt nhất có thể, với kết quả cuộc gặp
Obama - Sang đi đến thống nhất ký kết những văn bản thỏa thuận ở cấp độ không
thấp về sự hỗ trợ hải quân của Hoa Kỳ ở khu vực biển Đông, tiến trình rút ngắn
thủ tục cho Việt Nam gia nhập TPP và có thể cả một văn bản hợp tác chiến lược
toàn diện giữa hai quốc gia – điều mà giới ngoại giao Hà Nội luôn xem là một
món quà hậu hĩ.
Có lẽ phần lớn
con mắt lạc quan trên thuộc về giới chức Đảng và chính phủ.
Trong trường hợp
kém khả quan hơn, những văn bản trên có thể chỉ mang tính khung cảnh mà không
đề cập vào chi tiết. Đây cũng là trường hợp mà như người ta thường nói, tất cả
cần phải có thời gian, mà thời gian lại phụ thuộc vào sự cố gắng của không chỉ
một bên mà cả hai phía.
Nếu kịch bản này
xảy ra, sẽ có một chỗ giao thoa về quan điểm giữa “hai phía” khác: chính giới
cầm quyền và một bộ phận giới quan sát độc và phản biện độc lập trong nước.
Nhưng bộ phận còn
lại của giới phản biện độc lập trong nước, và có lẽ đa số trong giới quan sát
quốc tế, lại không mấy kỳ vọng vào sự giải quyết rốt ráo những hiện tồn đang ám
ảnh.
Bởi sau mọi mục
đích, nội lực để đạt được mục đích lại phụ thuộc rất lớn vào lợi thế so sánh
của nhà nước Việt Nam và bản lĩnh chính trị của chính khách Việt.
Vậy chính khách
Việt đang có trong tay cái gì?
'Đường biểu diễn' nhân quyền
Một trong những
hiện tồn nặng nề nhất ở Việt Nam là chủ đề “nhân quyền và dân chủ” mà người Mỹ
chắc chắn sẽ đặt ra đối với nhà nước cựu thù vào lần gặp gỡ sắp diễn ra.
Quá khứ đã có thể
dễ dàng gác lại, và càng có nhiều lý do để bỏ qua vào thời điểm “nhạy cảm” này,
nhưng làm thế nào để những người Việt rời Sài Gòn vào ngày 30/4/1975, và trên
hết là những người bất đồng chính kiến đang hiện hữu tại Việt Nam, có thể chia
sẻ với chính đảng cầm quyền về hệ lụy mà phương Tây luôn căn vặn: đàn áp nhân
quyền?
Với những gì mà
Hà Nội đã bộc lộ từ sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ vào trung tuần
tháng 4/2013 đến nay, điều rõ ràng là chưa có một biểu hiện lộ diện nào về khả
năng cải thiện tình hình.
Thậm chí, đường
biểu diễn quyền làm người ở Việt Nam còn được chia thành hai phân đoạn khá rõ
rệt trong nửa đầu năm 2013: trước và sau tháng Tư năm nay.
Ở phân đoạn
trước, giới quan sát quốc tế đã chứng kiến một sự kiện chưa có tiền lệ: chuyến
làm việc của Tổ chức ân xá quốc tế tại Việt Nam, lần đầu tiên từ năm 1975, với
việc các quan chức của tổ chức này còn được tiếp cận những “đối tượng” do họ đề
nghị đích danh. Và có thể, ý nghĩa của lần viếng thăm này còn lớn lao hơn cả một
ẩn ý nào đó của chuyến “hành hương” đến Vatican của nhân vật số một trong Đảng
– ông Nguyễn Phú Trọng – vào đầu năm 2013.
Cùng trong phân
đoạn biểu diễn nhân quyền trên, những kiến nghị chưa từng thấy của nhóm “72” về
Hiến pháp và điều 4 độc đảng đã tạo nên một xung chấn đủ mạnh trong đời sống
chính trị phi chính thức ở Việt Nam – một hiện tượng tâm lý xã hội được xem như
không chỉ phản ánh ý thức đối lập của người dân mà còn dắt dây sang tâm trạng
“suy thoái” của một bộ phận không quá nhỏ trong khối đảng viên và công chức nhà
nước.
Chỉ có điều, sau
phân đoạn sôi trào không khí phản biện như thế lại là một sóng xuống khá trầm
lắng.
Ngay sau khi cuộc
đàm phán nhân quyền Việt – Mỹ kết thúc tại Hà Nội, trưởng phái đoàn là Dan Baer
đã không làm cách nào tiếp xúc được với những nhà hoạt động nhân quyền là bác
sĩ Phạm Hồng Sơn và luật sư Nguyễn Văn Đài. Cuộc gặp duy nhất mà Dan Baer đạt
được chỉ là với linh mục Nguyễn Văn Lý trong nhà tù chế độ. Cha Lý lại là một
con chiên nổi tiếng bất đắc dĩ với hình ảnh bị những người không mặc sắc phục
bịt miệng tại tòa án.
Hình như Hà Nội
vẫn chưa sẵn sàng đối thoại về nhân quyền, dù một số quan chức đã hé mở tâm
trạng riêng tư của họ với ngành ngoại giao Cộng đồng châu Âu “hãy cho chúng tôi
thêm thời gian”.
"Nếu thời
gian đã được chứng nghiệm ở Myanmar với những cam kết đã biến thành hiện thực
của Tổng thống Thein Sein ... thì ở Việt Nam lại chưa hiện ra một tinh thần tự
nguyện nào."
Song nếu thời
gian đã được chứng nghiệm ở Myanmar với những cam kết đã biến thành hiện thực của
Tổng thống Thein Sein bằng vào lệnh thả hàng trăm tù chính trị trong hai năm
2011, 2012 và sẽ thả hết trong năm 2013, thì ở Việt Nam lại chưa hiện ra một
tinh thần tự nguyện nào.
Kịch bản chiếm ưu thế?
Từ sau cuộc đối
thoại nhân quyền Việt – Mỹ, làn sóng bắt bớ blogger lại trào lên. Bất kể vì lý
do và động cơ gì, vì an ninh quốc gia hay một động lực riêng tư nào đó, việc
bắt giữ ba blogger Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy đã làm dấy
lên mối nghi ngờ chưa bao giờ kết thúc của giới nhân quyền Mỹ và châu Âu về
điều chưa bao giờ được xem là “thành tâm chính trị” của nhà cầm quyền Hà Nội.
Vậy làm sao có
thể hy vọng vào một kịch bản tốt đẹp, hoặc tương đối tốt đẹp, trong cuộc gặp
Obama - Sang vào lần này, khi nhân quyền và dân chủ lại là đối trọng mà người
Mỹ đang đặt ra như một điều kiện cần?
Chỉ có thể nghĩ
đến một kịch bản khá trung dung, thậm chí rất bình thường – kịch bản thứ tư –
với xác suất xảy ra lớn nhất.
Tức sẽ không có
một thỏa thuận nào gây ấn tượng, dù chỉ là thỏa thuận khung, về các vấn đề TPP,
an ninh khu vực biển Đông và đối tác chiến lược toàn diện. Thay vào đó, sẽ chỉ
là những lời hứa hẹn trên bàn ngoại giao – một loại quỹ ngôn từ không hề thiếu
thốn nếu các nhà ngoại giao thấy chưa cần thiết phải làm đầy đặn hơn nữa.
Những nhà ngoại
giao Hoa Kỳ lại không hề muốn bị dư luận dân chúng Mỹ và quốc tế đánh giá về
một sai lầm tiếp nối của họ, nếu họ “buông” cho Hà Nội vượt vũ môn để tiếp cận
một cách quá dễ dàng với những mục đích tự thân về kinh tế và danh vọng.
WTO 6 năm về
trước và Hiệp định thương mại Việt – Mỹ cách đây đúng một “con giáp” là những
bài học sần sùi khó nuốt của người Mỹ.
Nếu năm 2007 đánh
dấu cuộc đối thoại đầu tiên giữa hai nguyên thủ nhà nước Bush – Triết, thì
trước đó một năm, nước Mỹ cũng nhấc Việt Nam ra khỏi danh sách CPC về những
quốc gia cần quan ngại đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo. Nhưng cũng kể từ
thời gian đó, tình trạng nhân quyền và tôn giáo ở Việt Nam lại không có dấu
hiệu khả quan hơn, nếu không muốn nói là bị đánh giá “thụt lùi sâu sắc”.
Hiển nhiên, bài
học về nhân quyền khép kín không tương xứng với độ mở tối đa về kinh tế đã hằn
sâu trong não trạng người Mỹ, cho tới giờ và cho cả những năm tháng trong tương
lai.
Sự bất tương xứng
như thế lại còn như được gia cố bởi mối quan hệ đang có chiều hướng bền vững
giữa Bắc Kinh - một hậu duệ mao - ít vốn chẳng mấy quan tâm đến vấn đề quyền
con người và mới đây còn bắt luôn cả một luật sư đang bào chữa cho thân chủ
hoạt động nhân quyền mới bị bắt của mình - với Hà Nội.
Cái gì mang tính
hệ thống luôn có thể dẫn đến chuỗi logic trong hành xử. Mối quan hệ “mười sáu
chữ vàng” có thể đã hữu hảo đến mức mà người Mỹ không còn mơ hồ về việc nhà
nước Việt Nam sẽ khó tránh khỏi ảnh hưởng của Trung Nam Hải về chính sách nội
trị, đối với những gì và những ai không đồng nhất với ý thức hệ và quyền lợi chính
trị của họ.
Lối tắt
Một hệ quả hầu
như chắc chắn là cho dù không xảy ra kịch bản tiêu cực cho cuộc hội kiến Obama
– Sang, nhưng không phải vì thế mà mọi điều khoản của TPP đều dễ dàng thuận
thảo.
Nhận định gần đây
của một quan chức châu Âu cho biết khác nhiều với mong muốn của Hà Nội, TPP sẽ
không kết thúc lộ trình đàm phán nào vào tháng 10/2013, mà khả năng sớm nhất
của hiệp định này là được thông qua bởi Quốc hội Hoa Kỳ vào năm sau. Còn nếu
mọi việc thuận lợi, nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể tìm ra lối mở qua TPP sau
hai năm nữa, tức vào năm 2015.
Khoảng cách từ
đây đến năm 2015 có lẽ lại là quá lâu so với thế nôn nóng của những người đang
muốn gỡ gạc nền kinh tế khỏi khủng hoảng.
Mà cũng chưa biết
chừng, nền kinh tế ấy hoàn toàn có thể bị hoại thư toàn phần chỉ sau hai năm
nữa.
Nhưng vẫn còn một
lối mở khác - ngắn hơn, cũng là một lối tắt thu rút con đường hòa hợp và hòa
giải quốc tế của giới lãnh đạo Việt Nam. Không còn nhiều lựa chọn, đó phải là
một hoặc những biểu hiện của lòng thành tâm chính trị - điều đã được phương Tây
ghi nhận ở Myanmar, đối với Thein Sein.
Không có thành
tâm chính trị, người ta sẽ không đạt được bất kỳ một mục tiêu và kịch bản tốt
đẹp nào, dù cho cá nhân.
Bài phản ánh văn phong và
quan điểm riêng của tác giả, nhà báo hiện sống ở TP HCM.
*****
'Việt Nam quan trọng với Hoa Kỳ'
VOA
- Thứ tư, 24 tháng 7, 2013
Vào chiều ngày 25/07/2013, sau khi gặp Tổng thống Barack
Obama, Chủ tịch nước Việt Nam sẽ có bài thuyết trình tại Trung tâm Nghiên cứu
Chiến lược và Quốc tế (CSIS).
Nguyễn Hoàng của
BBC tiếng Việt đã phỏng vấn ông Ernest Bower, một chuyên gia theo dõi quan hệ
Mỹ Việt lâu năm và hiện là cố vấn cao cấp cho viện nghiên cứu có uy tín này.
BBC: Thưa ông, trong chừng mực nào có thể
coi chuyến đi của Chủ tịch Sang tới Hoa Kỳ là có giá trị lịch sử?
Tôi cho rằng quan
hệ Mỹ-Việt có thể là đã đạt tới gần tầm cao kể từ khi hai nước tái lập quan hệ
vào đầu thập niên 1990. Tôi cũng nghĩ rằng việc người đứng đầu nhà nước Việt
Nam xuất hiện tại một viện nghiên cứu có tầm cỡ tại Washington với một bài
thuyết trình về chính sách, về địa chính trị, về chiến lược là việc mà dường
như là từ trước tới nay chưa từng có tại đây.
BBC:Các quyết
định có mức độ quan trọng về kinh tế và chính trị cần phải đạt được sự đồng
thuận của nhân sự Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông có nghĩ rằng ông Chủ
tịch Sang có thể tiếp thị được, và tiếp thị có hiệu quả, khi ông trở về nước từ
những gì mà Tổng thống Obama chào hàng trong chuyến đi này hay không?
"Washington
đang đặt cược vào tầm quan trọng của việc tạo đà và khích lệ đối với những
thành viên của Bộ Chính Trị và Ủy viên Trung ương Đảng muốn đi xa hơn trong
quan hệ hai nước và tiến thêm nữa trong những bước cải cách và tiến thêm nữa
trong những bước cải cách"
Đó là câu hỏi khó
để trả lời. Có thể chỉ có những lá phiếu của Bộ Chính Trị mới có thể trả lời
được câu hỏi này. Nhưng đó là câu hỏi hay, và tôi nghĩ rằng Washington đang đặt
cược vào tầm quan trọng của việc tạo đà và khích lệ đối với những thành viên của
Bộ Chính Trị và Ủy viên Trung ương Đảng muốn đi xa hơn trong quan hệ hai nước
và tiến thêm nữa trong những bước cải cách.
Và đó là vì sao
Tòa Bạch Ốc, tôi tin chắc rằng, đã tính toán là lúc này là thời điểm đúng để
mời Chủ tịch Sang tới Washington.
BBC:Vào đúng
ngày Chủ tịch Sang tới Washington chúng ta thấy một số dân biểu Hoa Kỳ họp báo
để đưa ra các thông điệp mang tính lên án Hà Nội về thực trạng nhân quyền.
Nhưng khó có thể hình dung Tổng thống Obama sẽ rao giảng về nhân quyền khi ông
gặp người tương nhiệm phía Việt Nam.
Tôi nghĩ là nhân
quyền là một phần rất quan trọng trong quan hệ song phương. Tôi đã nghiên cứu
và làm việc về các chủ đề liên quan tới quan hệ Mỹ-Việt được khoảng 25 năm qua.
Tôi phải nói rằng tôi thấy giới lãnh đạo của Việt Nam sẵn lòng hơn trong việc
đối thoại và bàn thảo chủ đề nhân quyền và tự do tôn giáo hơn trước đây.
Tuy vậy nhưng
cũng phải nói rằng vẫn còn những vấn đề rất nghiêm trọng. Quan hệ đôi bên nay
có thêm nhiều việc cần làm và phải giải quyết, và quan hệ không chỉ là về chủ
đề nhân quyền mặc dù nhân quyền luôn luôn là ưu tiên cao nhất của Hoa Kỳ. Tôi
nghĩ rằng Việt Nam hiểu điều đó.
Hy vọng là Tổng
thống Obama sẽ không trong tâm trạng muốn rao giảng. Tôi nghĩ rằng ông sẽ bày
tỏ quan ngại sâu sắc về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Ông Obama sẽ yêu cầu
người đồng nhiệm, Chủ tịch Sang, lắng nghe một cách nghiêm túc và ủng hộ ông
cũng như có hành động theo hướng đi như thả một số tù nhân chính trị, đó là
những người bị ngồi tù vì những nỗ lực của họ trên truyền thông cũng như ngồi
tù vì tín ngưỡng tôn giáo. Vì vậy đó là chủ đề rất quan trọng.
Tuy nhiên tôi
cũng nghĩ rằng đây sẽ là chủ đề trong bối cảnh rộng hơn trong quan hệ, theo đó
Hoa Kỳ xem Việt Nam là tiếng nói quan trọng trong việc phân tích tình hình
trong vùng và là một đối tác quan trọng về mậu dịch.
BBC:Việt Nam
đã có hợp tác chiến lược với khá nhiều nước rồi. Vậy một quan hệ đối tác chiến
lược với Hoa Kỳ, nếu có, có ý nghĩa gì?
"Việt Nam
muốn Trung Quốc cùng bàn thảo luật lệ với láng giềng của họ và tuân thủ các
luật lệ đó thay vì tự đặt ra luật lệ riêng của mình."
Việt Nam là nước
có thể xem là nhận thức được rằng sự ổn định về kinh tế và an ninh quốc gia phụ
thuộc vào sự ổn định và thịnh vượng trong vùng, và có thể là hiểu điều đó còn
nhiều hơn nước khác vì Việt Nam quá gần đường biên với Trung Quốc và vì yếu tố
lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam hiểu rất rõ rằng bất kỳ động thái
nào của Trung Quốc dựa trên sức mạnh kinh tế mới thu lượm được rồi kể như dùng
sức mạnh đó để lấn át láng giềng về các chủ đề liên quan tới chủ quyền và tranh
chấp lãnh thổ.
Tôi cho rằng cả
Việt Nam lẫn Nhật Bản đều lo ngại không biết Trung Quốc nghĩ gì và muốn sử dụng
sức mạnh của họ thế nào. Và thậm chí Myanmar cũng có những câu hỏi tương tự đối
với Trung Quốc. Và khi nhận thức được vấn đề này thì Việt Nam nghĩ về việc cân
bằng chiến lược và sự tin cậy. Cá nhân tôi luôn nghĩ rằng Việt Nam có quan điểm
rằng họ muốn Trung Quốc tham gia vào khuôn khổ hợp tác trong vùng như Thượng
đỉnh Đông Á (Diễn đàn thường niên của 16 nước Đông Á) và các cơ chế hợp tác và
cùng bàn thảo luật lệ với láng giềng của họ và tuân thủ các luật lệ đó thay vì
tự đặt ra luật lệ riêng của mình.
BBC: Hoa Kỳ có
thực sự cần Việt Nam về phương diện kinh tế và quân sự hay không?
Tôi nghĩ rằng Hoa
Kỳ có cần Việt Nam. Hoa Kỳ cần Việt Nam vì chiến lược của Hoa Kỳ ít nhất dựa
vào một phần đó là ASEAN mạnh mẽ. ASEAN có nền móng vững chắc là điểm tựa cân
bằng cho kiến trúc vùng kiểu mới trong Thượng đỉnh Đông Á.
Nếu thiếu vắng
yếu tố lãnh đạo mạnh mẽ của Việt Nam cũng như của ASEAN, là khối hợp tác mà
Việt Nam tin tưởng, thì chiến lược của Hoa Kỳ sẽ rất yếu. Do đó Việt Nam quan
trọng với Hoa Kỳ vì lý do này và nhiều lý do khác nữa.
*****
Chủ tịch Việt Nam tiếp xúc quan chức Mỹ
BBC
- Thứ tư, 24 tháng 7, 2013
Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang gặp Bộ
trưởng Thương mại và Bộ trưởng Ngoại giao trong ngày đầu công du Hoa Kỳ.
Hôm
24/7, ông Sang đã tiếp xúc với Bộ trưởng Thương mại Penny Pritzker để thảo luận
về Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), đang được
12 nước tham gia thương lượng.
Hoa
Kỳ đã bày tỏ hy vọng sẽ hoàn tất đàm phán với Việt Nam trong năm nay.
Bộ
trưởng Penny Pritzker cũng nói về công nghệ hạt nhân dân sự của Mỹ, trong bối
cảnh Việt Nam dự định triển khai nhiều lò phản ứng.
Trong
ngày hôm nay, ông Sang dự kiến ăn trưa với Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và có
buổi tiệc tối với các lãnh đạo doanh nhân Mỹ.
Phái
đoàn Việt Nam đặt chân xuống sân bay quân sự Andrews thuộc tiểu bang
Maryland vào tối thứ Ba ngày 23/7 theo giờ địa phương, tức sáng sớm
ngày 24/7 giờ Việt Nam, bắt đầu thăm chính thức Hoa Kỳ.
Theo
bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì ông Sang đã được các ông David
Shear, đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Nguyễn Quốc Cường, đại sứ Việt Nam
tại Mỹ và ‘đại diện Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ’ ra đón tại sân bay.
Vị
đại diện này là bà đại sứ Capricia Penavic Marshall, phụ trách lễ tân
của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Đến
nơi vào lúc tối nên hoạt động đầu tiên của ông Sang trên đất Mỹ trong
ngày 23/7 là đến nói chuyện tại Đại sứ quán Việt Nam ở Washington
DC.
Nâng cấp quan hệ?
Tại
buổi nói chuyện ở Sứ quán, ông Sang được hãng tin nhà nước Việt Nam
dẫn lời nói trong thời gian tới mối quan hệ Việt-Mỹ ‘sẽ được nâng
cấp’.
Ông
Sang mô tả mối bang giao Mỹ-Việt là ‘đối tác tích cực, hữu nghị, xây
dựng, hợp tác nhiều mặt, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi’.
Trước
đó, phát biểu với truyền thông trong nước trước chuyến thăm, Đại sứ
Nguyễn Quốc Cường cũng bày tỏ hy vọng hai nước sẽ ‘xác lập khuôn
khổ đối tác mới’ trong chuyến thăm lần này của ông Sang.
"Chúng
ta cần phải gửi một thông điệp mạnh mẽ và rõ ràng rằng những vi
phạm nhân quyền ở Việt Nam cần được chấm dứt ngay lập tức. Giao
thương không thể trả giá bằng nhân quyền."
Susan Davis, hạ nghị sỹ bang California
Lâu
nay vấn đề nhân quyền vẫn là rào cản lớn nhất khiến Washington chưa
muốn có quan hệ đối tác chiến lược với Hà Nội.
AFP
dẫn lời các quan chức Mỹ nói Tổng thống Barack Obama sẽ tập trung
vào chủ đề thương mại trong cuộc hội đàm với nguyên thủ Việt Nam và
cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu.
Việt
Nam hiện đang muốn tham gia vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP). Quốc gia Đông Nam Á này cũng là một trong 10 nước bị tác
động nặng nề nhất của tình trạng ấm lên toàn cầu.
Tuy
nhiên, các nhà lập pháp cũng như các nhà hoạt động dân chủ Mỹ đã
kêu gọi Nhà Trắng gây sức ép với Hà Nội về hồ sơ nhân quyền của
họ.
Một
số nghị sỹ đã cảnh báo rằng họ sẽ tìm cách ngăn cản TPP nếu như
Việt Nam không cam kết cải thiện nhân quyền.
“Một
thỏa thuận thương mại tự do – nhất là Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương – cần phải đáp ứng một số chuẩn mực và chúng tôi kêu gọi
Tổng thống Obama hãy chuyển thông điệp này vào thứ Năm (ngày hai
nguyên thủ gặp nhau),” AFP dẫn lời hạ nghị sỹ Dân chủ Loretta Sanchez
nói.
Còn
Hạ nghị sỹ Ed Royce thuộc Đảng Cộng hòa, chủ tịch Ủy ban Đối ngoại
Hạ viện, thì mô tả chuyến thăm của ông Sang là ‘cơ hội đặc biệt để
truyền cảm hứng cho những người dân Việt Nam hiện đang khao khát tự
do’.
Sẽ nhắc về nhân quyền
"Đối
với Obama, vấn đề là làm sao tạo ra thêm nhiều việc làm cho dân Mỹ. Nếu
bán được thêm nhiều hàng hóa ở châu Á thì đó là lợi ích lớn hơn
cả."
Chuyên gia về Việt Nam Carl Thayer
Trước
thềm cuộc gặp thượng đỉnh tại Tòa Bạch Ốc, một số nghị sỹ cùng
Đảng Dân chủ đã đến gặp Tổng thống Obama để yêu cầu ông phải nhấn
mạnh vấn đề nhân quyền với chủ tịch Việt Nam.
Bốn
hạ nghị sỹ Zoe Lofgren, Susan Davis, Scott Peters và Alan Lowenthal đã ra
thông cáo báo chí cho biết Tổng thống Obama đã cam kết với họ là
‘sẽ nêu những quan ngại về nhân quyền với phía Việt Nam’ và đây sẽ
là ‘một ưu tiên trong cuộc hội đàm sắp tới’.
“Tôi
hài lòng khi hôm nay nghe tổng thống bày tỏ quan ngại về tình trạng
vi phạm nhân quyền ở Việt Nam và việc ông thừa nhận rằng đã đến lúc
phải nêu vấn đề này với Chủ tịch Sang,” dân biểu Alan Lowenthal nói
trong thông cáo báo chí.
Còn
dân biểu Susan Davis thì nói rằng: “Chúng ta cần phải gửi một thông
điệp mạnh mẽ và rõ ràng rằng những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam
cần được chấm dứt ngay lập tức. Giao thương không thể trả giá bằng
nhân quyền.”
Tuy
nhiên, ông Carl Thayer, người chuyên theo dõi tình hình Việt Nam tại Đại
học New South Wales của Úc, nhận định với hãng tin Mỹ AP rằng ‘dường
như vấn đề nhân quyền sẽ được đề cập một cách rất tế nhị’.
“Trong
phòng họp kín Obama có thể nêu quan ngại của Mỹ (về nhân quyền),” ông
nói, “Nhưng rõ ràng nó không phải là một nội dung quan trọng.”
“Đối
với Obama, vấn đề là làm sao tạo ra thêm nhiều việc làm cho dân Mỹ.
Nếu bán được thêm nhiều hàng hóa ở châu Á thì đó là lợi ích lớn
hơn cả,” ông nói thêm.
*****
Đại sứ Mỹ đầu tiên tại VN nghĩ gì
về chuyến đi của ông Sang?
VOA - Thứ Tư, 24/07/2013
Chuyến công du kéo dài
hai ngày của Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang tới Hoa Kỳ đã thu hút được sự
chú ý của dư luận trong và ngoài nước. Trong cuộc phỏng vấn dành
riêng cho Nguyễn Trung của VOA
Việt Ngữ, ông Pete Peterson, đại sứ Mỹ đầu tiên tại
Việt Nam thời hậu chiến, đã đưa ra nhiều nhận định về các khía cạnh của chuyến
công du này.
VOA: Chuyến thăm của Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang tới Mỹ đã gây bất ngờ cho giới quan sát. Còn ông thì sao?
Ông Pete Peterson: Thực sự là không. Tôi hoàn toàn đoán trước được chuyến thăm của ông ấy. Dĩ nhiên, tôi không biết là khi nào thì ông ấy ấn định thời điểm công du, nhưng tôi nghĩ đó là một diễn tiến logic. Tôi nghĩ đó là một điều tuyệt vời.
VOA: Các vị dân biểu và thượng nghị sĩ Mỹ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đã lên tiếng kêu gọi Tổng thống Obama đưa nhân quyền làm trọng tâm trong cuộc gặp với ông Sang. Theo ông, điều đó có xảy ra không?
Ông Pete Peterson: Dĩ nhiên rồi. Đó luôn là một ưu tiên khi các giới chức Việt Nam và Hoa Kỳ gặp nhau. Đó là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ trên toàn thế giới, chứ không riêng gì với Việt Nam. Mỹ luôn luôn thúc đẩy chủ đề này. Tôi hoàn toàn không ngạc nhiên khi các vị dân biểu và thượng nghị sĩ lại nêu lên vấn đề đó.
VOA: Nhưng cũng có ý kiến cho rằng chính quyền của Tổng thống Barack Obama làm ngơ chủ đề nhân quyền để thúc đẩy các lợi ích kinh tế. Ông có nghĩ như vậy không?
VOA: Chuyến thăm của Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang tới Mỹ đã gây bất ngờ cho giới quan sát. Còn ông thì sao?
Ông Pete Peterson: Thực sự là không. Tôi hoàn toàn đoán trước được chuyến thăm của ông ấy. Dĩ nhiên, tôi không biết là khi nào thì ông ấy ấn định thời điểm công du, nhưng tôi nghĩ đó là một diễn tiến logic. Tôi nghĩ đó là một điều tuyệt vời.
VOA: Các vị dân biểu và thượng nghị sĩ Mỹ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đã lên tiếng kêu gọi Tổng thống Obama đưa nhân quyền làm trọng tâm trong cuộc gặp với ông Sang. Theo ông, điều đó có xảy ra không?
Ông Pete Peterson: Dĩ nhiên rồi. Đó luôn là một ưu tiên khi các giới chức Việt Nam và Hoa Kỳ gặp nhau. Đó là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ trên toàn thế giới, chứ không riêng gì với Việt Nam. Mỹ luôn luôn thúc đẩy chủ đề này. Tôi hoàn toàn không ngạc nhiên khi các vị dân biểu và thượng nghị sĩ lại nêu lên vấn đề đó.
VOA: Nhưng cũng có ý kiến cho rằng chính quyền của Tổng thống Barack Obama làm ngơ chủ đề nhân quyền để thúc đẩy các lợi ích kinh tế. Ông có nghĩ như vậy không?
“Vấn đề ở đây là, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam
đã trở nên chín muồi và sâu sắc hơn nên không có vấn đề gì mà lãnh đạo của hai
nước không thể mang ra thảo luận một cách thẳng thắn, thành thật và tin cậy”.
Ông Pete Peterson nói
Ông
Pete Peterson: Tôi không nghĩ vậy. Nhân quyền luôn nằm
trong nghị trình thảo luận với phía Việt Nam kể cả khi tôi còn làm đại sứ cũng
như trong nhiệm kỳ của các đại sứ sau này. Nhưng theo tôi, cũng phải thừa nhận
nỗ lực của Việt Nam trong những năm qua. Nếu ta phân tích tình hình từ năm 1990
tới năm 2013, nhìn chung, ta sẽ thấy những cải thiện đáng kể.
Vấn đề ở đây là, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở nên chín muồi và sâu sắc hơn nên không có vấn đề gì mà lãnh đạo của hai nước không thể mang ra bàn thảo một cách thẳng thắn, thành thật và tin cậy. Thế nên, đó là vấn đề ta có thể dự báo trước được. Tôi nghĩ sẽ là điều hữu ích nếu vấn đề nhân quyền được mang ra thảo luận ở cấp cao như vậy.
VOA: Tin cho hay, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ nằm trong nghị trình của ông Obama và nhà lãnh đạo Việt Nam. Thưa ông, vấn đề TPP quan trọng tới mức nào?
Ông Pete Peterson: Tôi nghĩ nó là một vấn đề quan trọng. Nhưng tôi không nghĩ đó là một vấn đề mang tính bước ngoặt gì. Đó là một diễn tiến trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Trong trường hợp này, TPP không giới hạn trong mối bang giao song phương, mà nó liên quan tới ít nhất 10 nước. Vì thế, nghị trình tương đối rộng.
Hoa Kỳ là một thị trường rất lớn đối với hàng hóa của Việt Nam nên không có gì lạ khi TPP là một yếu tố quan trọng nhằm đẩy mạnh nghị trình về thương mại giữa hai nước.
Vấn đề ở đây là, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở nên chín muồi và sâu sắc hơn nên không có vấn đề gì mà lãnh đạo của hai nước không thể mang ra bàn thảo một cách thẳng thắn, thành thật và tin cậy. Thế nên, đó là vấn đề ta có thể dự báo trước được. Tôi nghĩ sẽ là điều hữu ích nếu vấn đề nhân quyền được mang ra thảo luận ở cấp cao như vậy.
VOA: Tin cho hay, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ nằm trong nghị trình của ông Obama và nhà lãnh đạo Việt Nam. Thưa ông, vấn đề TPP quan trọng tới mức nào?
Ông Pete Peterson: Tôi nghĩ nó là một vấn đề quan trọng. Nhưng tôi không nghĩ đó là một vấn đề mang tính bước ngoặt gì. Đó là một diễn tiến trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Trong trường hợp này, TPP không giới hạn trong mối bang giao song phương, mà nó liên quan tới ít nhất 10 nước. Vì thế, nghị trình tương đối rộng.
Hoa Kỳ là một thị trường rất lớn đối với hàng hóa của Việt Nam nên không có gì lạ khi TPP là một yếu tố quan trọng nhằm đẩy mạnh nghị trình về thương mại giữa hai nước.
“Các tranh chấp ở biển Đông là một khối thuốc nổ âm ỉ
cháy nên cần phải tìm ra giải pháp nào đó về mặt ngoại giao nhằm giải quyết các
tranh chấp giữa các nước về đường lãnh hải cũng như thiết lập cơ chế luật pháp
để xử lý”.
Ông Pete Peterson nói.
VOA: Tòa Bạch Ốc đã công bố
các chủ đề thảo luận giữa hai giới chức, trong đó có vấn đề nhân quyền, thương
mại và biến đổi khí hậu. Hiện có các đồn đoán rằng biển Đông cũng sẽ nằm cao
trong nghị trình. Các tiên đoán đó có cơ sở không, thưa ông?
Ông Pete Peterson: Chắc chắn rồi. Đó là vấn đề mà ai cũng biết là được mang ra trao đổi trong bất kỳ các cuộc thảo luận nào với đối tác cũng như các quốc gia Đông Nam Á. Các tranh chấp ở biển Đông là một khối thuốc nổ âm ỉ nên cần phải tìm ra giải pháp nào đó về mặt ngoại giao nhằm giải quyết các tranh chấp giữa các nước về đường lãnh hải cũng như thiết lập cơ chế luật pháp để xử lý.
Tôi nghĩ rằng ta cần phải đưa vấn đề biển Đông lên cao trong nghị trình thảo luận. Tôi hoan nghênh điều đó bởi vì tôi nghĩ rằng Việt Nam có nhiều điều muốn nêu ra và nước này nhiều khả năng có thể đóng vai trò đầu đàn.
VOA: Các giới chức Việt Nam từng bày tỏ mong muốn nâng tầm quan hệ Việt – Mỹ lên thành đối tác chiến lược. Là một trong những người đặt nền móng cho mối bang giao giữa hai nước cựu thù, ông thấy sao?
Ông Pete Peterson: Thật khó nói. Xét về một khía cạnh nào đó, nó chỉ mang tính biểu tượng về hiện trạng của mối bang giao, hay có thể nói chỉ là một cái nhãn mác và có thể không có nhiều ý nghĩa. Tôi nghĩ đôi bên hãy bước tiếp trên con đường củng cố mối bang giao theo cách mang lại lợi ích cho cả hai bên. Tôi nghĩ đó là cách nên làm, thay vì dán một cái mác nào đó cho mối quan hệ trong thời gian tới.
Ông Pete Peterson: Chắc chắn rồi. Đó là vấn đề mà ai cũng biết là được mang ra trao đổi trong bất kỳ các cuộc thảo luận nào với đối tác cũng như các quốc gia Đông Nam Á. Các tranh chấp ở biển Đông là một khối thuốc nổ âm ỉ nên cần phải tìm ra giải pháp nào đó về mặt ngoại giao nhằm giải quyết các tranh chấp giữa các nước về đường lãnh hải cũng như thiết lập cơ chế luật pháp để xử lý.
Tôi nghĩ rằng ta cần phải đưa vấn đề biển Đông lên cao trong nghị trình thảo luận. Tôi hoan nghênh điều đó bởi vì tôi nghĩ rằng Việt Nam có nhiều điều muốn nêu ra và nước này nhiều khả năng có thể đóng vai trò đầu đàn.
VOA: Các giới chức Việt Nam từng bày tỏ mong muốn nâng tầm quan hệ Việt – Mỹ lên thành đối tác chiến lược. Là một trong những người đặt nền móng cho mối bang giao giữa hai nước cựu thù, ông thấy sao?
Ông Pete Peterson: Thật khó nói. Xét về một khía cạnh nào đó, nó chỉ mang tính biểu tượng về hiện trạng của mối bang giao, hay có thể nói chỉ là một cái nhãn mác và có thể không có nhiều ý nghĩa. Tôi nghĩ đôi bên hãy bước tiếp trên con đường củng cố mối bang giao theo cách mang lại lợi ích cho cả hai bên. Tôi nghĩ đó là cách nên làm, thay vì dán một cái mác nào đó cho mối quan hệ trong thời gian tới.
*****
Quà ngoại giao
Cánh Cò, viết từ Việt Nam – RFA - 2013-07-24
Chủ tịch Việt Nam Trương
Tấn Sang và Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh hôm 19/6/2013 - AFP
photo
Câu chuyện đã cũ nhưng khi ông Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang bước lên phi cơ sang Mỹ vào ngày hôm nay, 22 tháng 7 thì người ta chợt nhớ
lại chuyến đi của ông sang Bắc Kinh cách nay một tháng.
Chiều 19/6 sau cuộc hội đàm giữa Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang và Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, nguyên thủ hai nước
đã chứng kiến lễ ký kết 10 văn kiện hợp tác. Có bốn khoản trong 10 văn kiện hợp
tác này đáng chú ý vì khi đọc kỹ thì cán cân nghiêng hẳn về phía Trung Quốc.
Bảng thông báo đã dùng ngôn từ ngoại giao để che đậy sự
yếu ớt của Việt Nam trong đó khoản thứ nhất đã khỏa lấp tất cả khi viết:
"Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về
việc triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung
Quốc".
Sự "hợp tác chiến lược toàn diện" phải được
hiểu dưới hàm ý giữa "hai đảng" chứ không phải hai nước, hai chính
phủ. Chỉ có Đảng cộng sản của hai nước mới có thể có cái nhìn chung về mục tiêu
và chính sách vì sự khác biệt sâu xa giữa hai chính phủ không thể hợp tác toàn
diện khi Bắc Kinh luôn mang "hải giám" ra để làm tê liệt ý chí Việt
Nam qua mũi thuốc gây mê "cộng sản".
Chấp nhận ký vào chương trình này Việt Nam đã chấp nhận
đi chung chuyến xe với Trung Quốc mà tài xế thuộc về người đàn anh mạnh bạo và
hung dữ.
Động thái ngoại giao dưới kèo này chỉ có thể giải thích:
10 văn kiện hợp tác này có bốn món quà của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đại
diện cho toàn thể Bộ chính trị trao cho Trung Quốc nhằm bảo đảm trung thành,
chấp nhận hợp tác không tranh cãi để giữ mối giao tình giữa hai đảng đã từng
chung vai đấu cật nhiều chục năm qua.
Chung vai đấu cật vì sự nghiệp cao cả chung của hai đảng
nên những cái chết chưa từng giải oan và những cái chết khác trên Biển Đông sắp
tới nếu có, chỉ là những hiểu lầm cần được che đậy bằng đồng nhân dân tệ trong
các dự án do chính Trung Quốc làm chủ hay thi công.
Điều này được xác định ở các khoản Trung Quốc sẽ hỗ trợ
tài chánh. Cái cách mà Việt Nam thường làm mỗi khi muốn phân bua một nhượng bộ
nào khó giải thích với quần chúng.
Món quà "Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa hai Bộ
Quốc phòng" một lần nữa có hàm ý mê muội hóa người dân "hãy vững tin
vào sự hợp tác" mặc dù bài học Biển Đông đang sờ sờ trước mắt và việc cố
xóa dấu vết lịch sử trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 của nhà nước Việt Nam
vẫn đang gây bức xúc trong xã hội.
"Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về
các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển" cũng không
ngoài ý đồ cấy ghép niềm tin "ăn liền" cho người ngư dân để họ tiếp
tục làm con thiêu thân cho chế độ.
Đường giây đỏ ấy chỉ có trên giấy và không bao giờ xuất
hiện. Màu đỏ của máu không tô trên đường giây nóng mà chảy lai láng trên Biển
Đông ngay sau khi 10 điều được ký kết.
Ngày 6 tháng Bảy, nửa tháng sau khi ông Sang từ Bắc Kinh
quay về Hà Nội, 2 tàu cá với thủy thủ đoàn gần 30 người do ông Võ Minh Vương và
Mai Văn Cường ở Lý Sơn, Quảng Ngãi làm thuyền trưởng cùng bị “tàu lạ” có võ
trang hung hãn đập phá, cướp bóc.
Ông Sang đã bị đàn anh xỏ lá bỉ mặt trước người dân của
mình.
Món quà cuối cùng: "Thỏa thuận sửa đổi lần thứ
4" giữa Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi
quốc gia Trung Quốc liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa
thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ.
"Lần thứ 4" có nghĩa là chuyện khai thác nguồn
lợi dầu khí giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có từ lâu nhưng vùng dầu khai thác
ấy nằm ở đâu và trữ lượng bao nhiêu, có dính gì tới chủ quyền biển đảo của Việt
Nam hay không thì cả nước hoàn toàn mù tịt.
Thông tin nhỏ giọt không thoát ra khỏi hệ thống báo chí
quốc doanh và vì vậy tiết lộ này chỉ làm mạnh thêm giả thuyết chính phủ đã âm
thầm nhượng cho Trung Quốc một số vùng nào đó để đánh đổi lại những chiếc ghế
trong Bộ chính trị được an toàn hơn trong bối cảnh tranh chấp hiện nay.
Bốn món quà "nhỏ" này có đủ để làm yên lòng Bắc
Kinh cho chuyến đi Mỹ của ông Sang hay không chỉ có ông Chủ tịch nước và các vị
trong Bộ chính trị biết. Tuy nhiên hệ thống công an có vẻ khá vụng về trong
công tác làm hài lòng "đối tác chiến lược và toàn diện" khi tiếp tục
cảnh cáo những ai có hành động chống lại Trung Quốc. Bỏ mặc Blogger Điếu Cày
tuyệt thực là một điển hình.
Khi ông Chủ tịch nước bước lên máy bay sang Mỹ vào ngày
22 tháng 7 cũng là lúc người blogger chống Trung Quóc nổi tiếng đã tuyệt thực
trong tù đúng một tháng trời. Điếu Cày tuyệt thực để chống lại chế độ cai tù hà
khắc và cũng nhắc nhở mọi người ghi nhớ bản án của anh: Bản án chống Trung
Quốc.
Trong chiếc cặp ngoại giao của ông Sang có nhiều hồ sơ
được công an chuẩn bị sẵn để chứng minh họ đối xử rất hợp luật pháp quốc tế đối
với những từ nhân chính trị như Lê Quốc Quân, Tạ Phong Tần, Nguyễn Phương Uyên
hay Đinh Nguyên Kha. Những tù nhân này ông Sang có thể không cần biết nhưng
blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải thì ông Sang phải biết. Ông biết không phải để
trả lời với ông Obama mà vì ông buộc phải biết để kịp thời làm Trung Quốc hài
lòng để không lấy cớ chèn ép Việt Nam thêm nữa.
Việc trả lời về vấn đề nhân quyền với ông Obama không
phải là cốt yếu vì nước Mỹ không thể là "đối tác chiến lược và toàn
diện" với Bộ chính trị Việt Nam. Nước Mỹ ngăn cấm doanh nghiệp của họ hối
lộ ở nước ngoài và vì vậy Bộ chính trị khó lòng dùng quà cáp ngoại giao như với
Trung Quốc để lót đường cho một mong muốn nào đó.
Nòi chuyện với ông Obama nhưng phải chọn từng lời để
không làm phật ý "đối tác chiến lược và toàn diện" là sự khó khăn của
ông Sang. Có lẽ vì vậy mà ông dẫn phái đoàn cả trăm người để họ trấn an ông hay
chăng?
Đến Mỹ trong tâm thức bất an như vậy thì làm sao nói lời
sáng suốt?
*****
Việt Nam giữa Mỹ và Trung Quốc: Trò bập
bênh đau khổ
Kính Hòa,
phóng viên RFA - 2013-07-24
Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ
John Kerry và Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang (T) tại Bộ Ngoại giao ở
Washington, DC trưa 24/7/2013 - AFP photo
Chuyến thăm nước Mỹ của chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang
đang thu hút nhiều bình luận và đồn đoán của công luận. Chuyến đi có gì mới hay
chỉ là một động tác bình thường trong bang giao quốc tế?
Thế đứng chông chênh của VN
Chuyến bay của đoàn Việt Nam do chủ tịch nước Trương Tấn
Sang dẫn đầu đã hạ cánh trên đất Mỹ, lần thứ hai kể từ khi cuộc chiến Việt Nam
kết thúc, một người đứng đầu nhà nước Việt Nam thăm nước Mỹ. So với người tiền
nhiệm là ông Nguyễn Minh Triết, chuyến đi lần này của ông Sang có vẻ được quan
tâm nhiều hơn, các bài viết về chuyến đi này trên truyền thông, cộng với nhiều
lời đồn đoán trên mạng internet, mà hồi thời ông Triết tại vị chưa phát triển
như hiện nay, làm cho không khí rộn ràng hơn, ít nhất trong không gian Việt
ngữ, dù biết rằng thủ đô chính trị của nước Mỹ cũng đã quá rộn ràng sau hàng loạt
vấn đề làm đau đầu giới hành pháp và ngoại giao, từ Snowden đến Zimmerman, và
hậu sự Benghazi hình như cũng còn nhiều lấn cấn.
Bên cạnh vấn đề nhân quyền và tôn giáo cố hữu của nhà
nước Việt Nam như một căn bệnh mãn tính, thì có lẽ nguyên nhân quan trọng nhất
làm dư luận quan tâm đến chuyến đi này là thế đứng chông chênh của nước Việt Nam
hiện tại giữa hai cường quốc, một bên là nước Mỹ cựu thù có vẻ mệt mỏi vì đa
đoan thế sự, bên kia là người anh em thù hận ngàn năm nhưng cùng ý thức hệ là
Trung Hoa đang hồi sinh, lắm tiền nhiều của do xuất khẩu đồ tiêu dùng, dù mới
chỉ có tàu sân bay giả nhưng cũng đã lên vũ trụ. Nước Mỹ thì ở xa nhưng nhiều
hấp dẫn với một tiềm lực kinh tế mạnh mẽ và gần hai triệu người Việt vẫn hằng
ngày đọc tin tức từ Việt Nam. Nước Trung Hoa gần bên nhưng thiếu đất và khát
tài nguyên, lăm le muốn tạo nên cuộc chơi mới trên bàn cờ thế giói Made in
China.
Trước chuyến thăm này chỉ vài tuần lại là chuyến thăm
cũng của ông Trương Tấn Sang đến Bắc Kinh làm nhiều người quan tâm đến thế sự
nảy sinh đồn đoán rằng thì là do Bắc Kinh mà có Washington, rằng Bắc Kinh o ép
quá nên ông Sang và chính phủ Việt Nam phải tức tốc sang Hoa Kỳ. Và trước đó
nữa là liên tục các vụ tấn công ngư dân Việt Nam của người Trung quốc trên Biển
đông.
Kết thúc chuyến đi Bắc Kinh vẫn là những lời tuyên bố
thắm tình hữu nghị theo công thức cộng sản, tuy nhiên người lạc quan vẫn hy
vọng, như tiến sĩ Nguyễn Nhã, một người nghiên cứu về Biển Đông phát biểu với
Nam Nguyên sau chuyến thăm Bắc Kinh của ông Sang như sau,
“Mọi người đều biết rõ ý đồ Trung Quốc hiện nay như thế
nào ở Biển Đông cũng như trên thế giới. Dĩ nhiên Việt Nam là một nước nhỏ và ở
bên cạnh Trung Quốc. Tôi nghĩ những hoạt động của Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang, cũng như tất cả các hoạt động ngoại giao thì chắc chắn sẽ góp phần làm
cho căng thẳng ngày càng giảm đi, nhưng trong thực tế chính trị là vấn đề rất
phức tạp.”
Chính trị càng phức tạp hơn nữa khi ngoài quan hệ giữa
hai quốc gia bình thường với các xung khắc quyền lợi của chúng, Việt Nam và
Trung quốc lại cùng chia sẻ (hoặc có thể làm ra vẻ chia sẻ) một ý thức hệ, cùng
một cách cai trị mà không còn tồn tại ở bất cứ đâu trên thế giới này ngoài hai
nơi khá kỳ cục là Bắc Hàn và Cuba. Một hệ thống tòan trị đã phủ lên nước Việt
nam hơn nửa thế kỷ qua, đi sâu vào từng ngóc ngách thôn xóm, một di sản lịch sử
mà những cái đầu duy lý nhất chắc chắn sẽ rất cẩn trọng khi muốn tháo dỡ.
Ngoài ra, định mệnh đã cho dân tộc Việt Nam một vị trí
địa chính trị đầy sôi động và phức tạp. Vài ngàn năm trước, đất Việt chính là
mối tiếp nối giữa hai thế giới, một bên là Trung Hoa của Khổng giáo tôn ti trật
tự cùng những cuộc chinh phục bằng cơ bắp, còn bên kia là Ấn độ mưa mùa hay
chinh phục người khác bằng triết lý và thơ ca. Vài trăm năm trước đây, Việt Nam
lại là nơi giằng xéo giữa một bên là đế quốc Đại Thanh mòn mỏi với những lề
thói già nua, còn bên kia là chủ nghĩa tư bản phương Tây đang lên đầy sức sống.
Và chỉ mới mấy chục năm nay thôi, đất nước này đã từng là ranh giới khốc liệt
giữa thí nghiệm cộng sản và phần còn lại của thế giới.
Có vẻ một lần nữa nước Việt lại đứng giữa hai thế giới
với chính sách chuyển trục sang Á Châu của nước Mỹ được khẳng định trong vài
năm gần đây.
Làm sao để cân bằng?
Đại diện Bộ Ngoại giao Hoa
Kỳ đón Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại sân bay quân sự Andrew chiều
23/7/2013 - Photo courtesy of tienphong.vn
Trong tương quan địa chính trị, quyền lợi, ý thức hệ đầy
phức tạp như thế, Việt Nam đã và đang tìm thế cân bằng giữa hai cường quốc đứng
đầu thế giới hiện nay. Tiến sĩ Vũ Tường, khoa chính trị Đại học Oregon, nói
chuyện với chúng tôi từ Việt Nam,
“Vấn đề Việt Nam sử dụng chính sách đu dây đã được nói
đến từ lâu. Tôi không có kỳ vọng vào chuyến thăm này.”
Tuy nhiên cũng có một vài khác lạ trong chi tiết về phái
đòan của chủ tịch nước lần này đến Washington. Trước ngày ông Sang lên đường đã
có một bức thư của nhiều nhân sĩ trí thức trong nước nhắn nhủ ông nhân cơ hội
này tìm cách giải “Hán hóa”, ý nói thóat ra khỏi ảnh hưởng của người Trung
quốc. Trong đoàn cũng có nhiều chức sắc tôn giáo, rõ ràng là sang Mỹ với mục
đích tìm kiếm sự đối thọai với cộng đồng Việt Nam tại Mỹ về những vấn đề nhân
quyền và tôn giáo, điều mà chính giới Mỹ lúc nào cũng gây sức ép lên chính
quyền của tổng thống Mỹ.
Sự hiện diện của nhóm người này chưa biết có gây nên hiệu
quả nào lớn hơn chuyến thăm lần trước của chủ tịch Triết hay không, nhưng đó có
lẽ là một tín hiệu cho thấy những người cầm quyền Việt Nam coi trọng hơn sự vận
động chính trị tại Mỹ, chứ không đơn thuần nghĩ rằng chỉ cần tư bản Mỹ vào Việt
Nam là đủ. Bên cạnh đó, sức ép của những ý kiến chống lại sự thân tình cộng sản
Việt-Hán cũng dường như ngày càng mạnh lên với bức thư của các nhân sĩ trí
thức, dù nó chỉ mới được biết đến bởi những ai tiếp xúc được với internet.
Cách đây hơn 2000 năm, sử gia Hy lạp là Thucydides có
viết về mối liên quan giữa một đế quốc và một tiểu quốc bên cạnh như sau: Khi
thế giới chuyển động thì chỉ có một vấn đề trong sự tương quan sức mạnh, kẻ
mạnh làm cái gì mà họ muốn, còn kẻ yếu chịu đựng cái gì họ phải chịu.
Trong trường hợp Việt nam, sự chịu đựng đó còn trầm trọng
hơn bởi trò đu dây giữa một rừng gươm giáo. Một bên là những tôn ti trật tự cũ
cộng với sự cầm quyền của ý thức hệ, một bên là xã hội mở nhiều hấp dẫn nhưng
cũng gây lo âu vì niềm tin không đủ lớn.
Cách đây hơn mười năm, một sử gia người Nhật chuyên
nghiên cứu về Việt Nam là giáo sư Tsuboi từ đại học Waseda đã khái quát tình
hình nước Việt Nam thời Tự Đức, thời kỳ chuyển tiếp quan trọng của Việt Nam,
trong một cuốn sách có nhan đề: Nước Đại Nam giữa đế quốc Pháp và Trung Hoa.
Nay, Trung hoa không còn là Đại Thanh nữa, Hoa Kỳ cũng chẳng phải là đế quốc
của Napoleon đệ tam, nhưng chủ đề Việt Nam giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa có thể là
viễn cảnh sẽ còn kéo dài chưa thấy đường chân trời.
*****
Đề nghị Hoa Kỳ mở cửa thị trường cho hàng
hóa Việt
Vietnam Plus - 24/07/2013
Theo
đặc phái viên TTXVN, ngày 24/7, tại Thủ đô Washington, Hoa Kỳ, Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang đã tiếp ba quan chức cấp cao của chính quyền nước chủ
nhà gồm Bộ trưởng Thương mại Penny Pritzker, Bộ trưởng Nông nghiệp Tom
Vilsack và Đại diện Thương mại Michael Froman.
Tại cuộc gặp, các Bộ trưởng Hoa Kỳ nhấn mạnh quan hệ hai nước đang có những cơ hội lớn để phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới và cam kết sẽ thúc đẩy hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư.
Bộ trưởng Thương mại Pritzker và Đại diện Thương mại Froman nhấn mạnh quyết tâm của Chính phủ Hoa Kỳ, cùng với các thành viên khác, đẩy nhanh tiến trình đàm phán để có thể sớm hoàn tất Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP); hoan nghênh những tiến triển trong vòng đàm phán vừa qua giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tại Malaysia.
Bộ trưởng Nông nghiệp Tom Vilsack đánh giá hợp tác nông nghiệp giữa hai nước có nhiều tiềm năng và khẳng định sẽ thúc đẩy các chương trình hỗ trợ Việt Nam xây dựng năng lực, đào tạo trong lĩnh vực nông nghiệp.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang chúc mừng các Bộ trưởng vừa nhậm chức trong nhiệm kỳ II của Chính quyền Tổng thống Barack Obama và khẳng định Việt Nam coi trọng hợp tác nhiều mặt với Hoa Kỳ.
Chủ tịch nước nhất trí về tầm quan trọng của Hiệp định TPP đối với quá trình liên kết kinh tế khu vực, cũng như đối với sự phát triển kinh tế của mỗi nước đồng thời nhấn mạnh TPP cần phải là một hiệp định cân bằng vì các mục tiêu phát triển và tính đến tính đa dạng về trình độ phát triển của các thành viên.
Tại cuộc gặp, các Bộ trưởng Hoa Kỳ nhấn mạnh quan hệ hai nước đang có những cơ hội lớn để phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới và cam kết sẽ thúc đẩy hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư.
Bộ trưởng Thương mại Pritzker và Đại diện Thương mại Froman nhấn mạnh quyết tâm của Chính phủ Hoa Kỳ, cùng với các thành viên khác, đẩy nhanh tiến trình đàm phán để có thể sớm hoàn tất Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP); hoan nghênh những tiến triển trong vòng đàm phán vừa qua giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tại Malaysia.
Bộ trưởng Nông nghiệp Tom Vilsack đánh giá hợp tác nông nghiệp giữa hai nước có nhiều tiềm năng và khẳng định sẽ thúc đẩy các chương trình hỗ trợ Việt Nam xây dựng năng lực, đào tạo trong lĩnh vực nông nghiệp.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang chúc mừng các Bộ trưởng vừa nhậm chức trong nhiệm kỳ II của Chính quyền Tổng thống Barack Obama và khẳng định Việt Nam coi trọng hợp tác nhiều mặt với Hoa Kỳ.
Chủ tịch nước nhất trí về tầm quan trọng của Hiệp định TPP đối với quá trình liên kết kinh tế khu vực, cũng như đối với sự phát triển kinh tế của mỗi nước đồng thời nhấn mạnh TPP cần phải là một hiệp định cân bằng vì các mục tiêu phát triển và tính đến tính đa dạng về trình độ phát triển của các thành viên.
Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang tiếp Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ, bà Penny Pritzker đến chào - Ảnh:
Nguyễn Khang – TTXVN
Chủ
tịch nước nhấn mạnh kinh tế, thương mại, đầu tư đã và đang là trọng tâm
và động lực của quan hệ song phương; đề nghị Hoa Kỳ mở cửa thị trường
cho hàng hóa Việt Nam, tránh áp dụng các rào cản thương mại đối với
hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của các doanh
nghiệp và người lao động Việt Nam, cũng như quyền lợi của người tiêu dùng Hoa
Kỳ.
Chủ
tịch nước nêu rõ những vụ kiện về bán phá giá hoặc trợ cấp đối với cá tra, basa
và tôm đã ảnh hưởng tiêu cực đến hàng triệu nông dân Việt Nam cả về mặt kinh tế
và xã hội, gây khó khăn cho việc tạo công ăn việc làm của nông dân, và nỗ lực
xóa đói giảm nghèo tại các vùng nông thôn.
Chủ tịch nước đề nghị Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các nước đang phát triển và hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam nâng cao năng lực thực thi các cam kết, trong đó tập trung vào việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chủ tịch nước đề nghị Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các nước đang phát triển và hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam nâng cao năng lực thực thi các cam kết, trong đó tập trung vào việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang tiếp Bộ trưởng Nông nghiệp Mỹ Tom Vilsack đến chào - Ảnh: Nguyễn
Khang – TTXVN
Chủ
tịch nước cũng đề nghị Hoa Kỳ sớm công nhận quy chế kinh tế thị trường
của Việt Nam, đồng thời hai nước cần sớm thảo luận về việc xây dựng
Hiệp định khung về hợp tác nông nghiệp.
Các Bộ trưởng Hoa Kỳ ghi nhận tích cực ý kiến Chủ tịch nước và cam kết trong thời gian tới các Bộ ngành hai nước sẽ phối hợp chặt chẽ, trao đổi về những biện pháp cụ thể, phù hợp nhằm triển khai các thoả thuận giữa hai nước trên các lĩnh vực liên quan./.
Các Bộ trưởng Hoa Kỳ ghi nhận tích cực ý kiến Chủ tịch nước và cam kết trong thời gian tới các Bộ ngành hai nước sẽ phối hợp chặt chẽ, trao đổi về những biện pháp cụ thể, phù hợp nhằm triển khai các thoả thuận giữa hai nước trên các lĩnh vực liên quan./.
(TTXVN)
*****
Ông
Sang khẳng định “muốn hợp tác toàn diện với Mỹ”
Người Việt Online - Thursday, July 25, 2013
Hà Giang/Người Việt
WASHINGTON DC (NV) – Sau
cuộc hội đàm với Tổng Thống Obama tại Tòa Bạch Ốc, chủ tịch nhà nước CSVN
Trương Tấn Sang tham dự một buổi hội thảo có tên “The Banyan Tree Leadership
Forum” với tổ chức CSIS (Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế), tại
Washington DC.
“Hợp tác với các nước khác trong liên
hợp quốc là quyền của mọi quốc gia, và chúng tôi chọn mối hợp tác toàn diện với
Hoa Kỳ.” Ông Sang khẳng định tại buổi hội thảo ở trung tâm CSIS, tại Hoa Thịnh
Đốn, chiều thứ Năm, 25 tháng Bảy, 2013. (Hình: Người Việt)
Buổi hội thảo kéo dài một tiếng đồng hồ, bắt đầu vào lúc
5:00 PM, giờ địa phương, và được trực tiếp truyền đi qua Live Cast.
Mở đầu chương trình, Tổng Giám Đốc trung tâm CSIS, Tiến
Sĩ John J. Hamre giới thiệu ông Trương Tấn Sang và gọi đây là một "sự kiện
lịch sử" cho CSIS, vì đây là lần đầu tiên một chủ tịch CSVN đến tham dự
buổi hội thảo do trung tâm tổ chức.
Trong bài phát biểu dài 30 phút, ông Sang đánh giá cao
vai trò của CSIS trong việc cố vấn các chính quyền về chính sách, và trình bày
nhận định của mình về vai trò của Á Châu trong nền kinh tế toàn cầu, cũng như
tóm lược chính sách của Việt Nam trong thời gian tới.
Đơn cử việc Á Châu hiện có 10 trong 20 quốc gia có nền
kinh tế hàng đầu, và nắm gần 2/3 kinh tế thế giới, ông Sang cho rằng “Á Châu là
trung tâm của cơ hội và sự phát triển” và vì thế “không lấy gì làm ngạc nhiên”
khi các lãnh đạo thế giới đều quan tâm đến những gì xảy ra ở đó, vì đây là một
môi trường đầy tiềm năng có nhiều đóng góp then chốt cho phát triển toàn cầu.
Nhưng muốn bảo vệ được những tiềm năng và quyền lợi chung
này, ông Sang nhấn mạnh là thế giới “cần phải có một môi trường hòa bình, ổn
định và giảm thiểu mọi xung đột” cũng như có phương pháp bảo vệ những quyền lợi
chung, như quyền tự do hàng hải.
Nhắc khéo đến tranh chấp Biển Đông, ông Trương Tấn Sang
nói rằng Trung Quốc và các nước thành viên của ASEAN đã đồng ý hợp tác để hoàn
tất và tôn trọng COC (code of conduct) - nguyên tắc ứng xử - trong việc giải
quyết những tranh chấp, cũng như đồng ý tôn trọng luật quốc tế.
Về quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam, ông Sang nói rằng bang giao
giữa hai bên đã “phát triển về cả bề mặt lẫn bề sâu,” và cho biết ông “hân hạnh
tường trình” rằng sự hợp tác giữa hai quốc gia sẽ được phát triển mạnh về mọi
mặt, từ kinh tế, mậu dịch đến chính trị, ngoại giao, đối ngoại, kỹ thuật và đào
tạo chuyên gia.
Ông Sang cho biết qua buổi gặp mặt buổi sáng, ông và Tổng
Thống Obama cùng đồng ý sẽ hoàn thành thỏa hiệp mậu dịch xuyên Thái Bình Dương
vào cuối năm nay.
Nói đến quan điểm khác biệt của hai nước (về nhân quyền),
ông Sang nói rằng sự khác biệt giữa hai đối tác “đương nhiên thể nào cũng có,”
nhưng để giảm thiểu khác biệt này, hai bên cần đối xử với nhau “bằng sự tương
kính, tôn trọng chủ quyền và độc lập” của nhau.
“Việt Nam sẵn sàng đối thoại thẳng thắn với Hoa Kỳ về mọi
vấn đề, kể cả nhân quyền và tự do tôn giáo, để nâng tương giao giữa hai bên lên
tầm quan trọng hơn.” Ông Sang cả quyết.
Bài phát biểu của ông Sang được đón nhận bằng một loạt
những câu hỏi từ cử tọa do ông Ernest Z. Bower, cố vấn cấp cao của CISI, và Chủ
tịch ban nghiên cứu Đông Nam Á, điều hợp.
Được hỏi ảnh hưởng của sự thắt chặt quan hệ giữa hai bên,
ông Sang khẳng định: “Hợp tác với các nước khác trong Liên Hiệp Quốc là quyền
của mọi quốc gia, và chúng tôi chọn mối hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ.”
Trả lời câu hỏi là Việt Nam sẽ có cam kết nào mới, hay
triển khai cam kết nào để đạt được sự hợp tác bền chặt hơn với Hoa Kỳ, ông Sang
cho biết “sẽ hợp tác với Hoa Kỳ về nhiều mặt, kể cả và nhất là, việc thảo luận
sự khác biệt về nhân quyền.”
Một cử tọa gốc Việt đơn cử việc Phillipines đưa Trung
Quốc ra tòa án Liên Hiệp Quốc, thách đố việc Trung Quốc đòi chủ quyền hầu hết
toàn bộ biển Đông, trong đó có chủ quyền của Manila, qua đường lưỡi bò, và hỏi
ông Sang là “khi nào Việt Nam mới đưa khiếu nại của mình ra tòa án quốc tế?”
Ông Sang trả lời: “Việt Nam luôn luôn phản đối đường “9 điểm” của Trung Quốc
trên Biển Đông, cho rằng đường “9 điểm” này hoàn toàn vô căn cứ, và Phillipines
có đủ mọi quyền để đưa tranh chấp này ra tòa án quốc tế.”
Được yêu cầu đánh giá vai trò của người Mỹ gốc Việt trong
tương quan giữa hai nước, ông Sang nói ông cám ơn nước Hoa Kỳ đã tạo điều kiện
cho người gốc Việt ở Mỹ được thành công trong cả hai mặt kinh tế và chính trị.
Ông cũng bày tỏ: “Tôi tin tưởng là người Việt hải ngoại sẽ tiếp tục đóng vai
trò quan trọng trong việc nâng cấp nền bang giao giữa hai bên.” (H.G.)
*****
Chủ tịch nước gặp lãnh đạo của Thượng viện Hoa Kỳ
Vietnam Plus - 26/07/2013
Ngày 25/7,
tại trụ sở Thượng viện Hoa Kỳ, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã gặp Chủ tịch
thường trực Thượng viện Hoa Kỳ, thượng nghị sỹ Patrick Leahy.
Chủ tịch nước đánh giá cao vai trò của thượng nghị sỹ Leahy và Thượng viện Hoa Kỳ trong việc thúc đẩy quan hệ hai nước; cảm ơn cá nhân thượng nghị sỹ đã ủng hộ quá trình bình thường hóa và phát triển quan hệ, trong đó có việc ký Hiệp định thương mại song phương (BTA), Mỹ trao Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam và hỗ trợ tài chính giải quyết hậu quả chất da cam/dioxin.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang mong muốn thượng nghị sỹ Leahy tiếp tục đóng góp thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian tới, như ủng hộ việc thiết lập cơ chế đối thoại thường niên giữa hai Quốc hội, tái lập nhóm nghị sỹ vì quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, ủng hộ Việt Nam trong đàm phán TPP, công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, loại bỏ các biện pháp cản trở thương mại hai nước trong đó có chương trình giám sát cá da trơn mới theo Đạo luật Nông trại 2013, bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, tăng hỗ trợ giải quyết hậu quả chiến tranh, không thông qua các dự luật, nghị quyết không có lợi cho sự phát triển quan hệ hai nước.
Chủ tịch thường trực Thượng viện Hoa Kỳ Patrick Leahy đã chào mừng Chủ tịch nước tới thăm chính thức Hoa Kỳ; bày tỏ vui mừng về kết quả hội đàm giữa Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama, nhất là việc hai nước tuyên bố xác lập Đối tác toàn diện, cho rằng việc xác định khuôn khổ mới định hình cho sự phát triển quan hệ trong thời gian tới là điều hết sức cần thiết và kịp thời.
Thượng nghị sỹ Leahy ghi nhận tích cực những đề nghị của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang về quan hệ song phương, nhất là vấn đề tăng cường đối thoại giữa hai Quốc hội và giải quyết hậu quả chất da cam/dioxin.
Thượng nghị sỹ Leahy cho biết Thượng viện Hoa Kỳ rất quan tâm tới tình hình khu vực Đông Á-Thái Bình Dương, ủng hộ chính sách tái cân bằng của Chính quyền Tổng thống Obama, ủng hộ ASEAN đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc đang nổi lên ở khu vực, ủng hộ vai trò tích cực, chủ động của Việt Nam trong ASEAN cũng như trong các vấn đề khu vực và quốc tế; hoan nghênh Việt Nam tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc từ 2014 và sẽ sớm tham gia Công ước chống tra tấn.
Thượng nghị sỹ Leahy tái khẳng định Thượng viện Hoa Kỳ phản đối việc sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực hay các biện pháp cưỡng ép trong giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông và Biển Hoa Đông, ủng hộ việc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982, ủng hộ Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) và sớm tiến tới Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC).
Tối cùng ngày, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã rời Thủ đô Washington DC đi thăm thành phố New York./.
Chủ tịch nước đánh giá cao vai trò của thượng nghị sỹ Leahy và Thượng viện Hoa Kỳ trong việc thúc đẩy quan hệ hai nước; cảm ơn cá nhân thượng nghị sỹ đã ủng hộ quá trình bình thường hóa và phát triển quan hệ, trong đó có việc ký Hiệp định thương mại song phương (BTA), Mỹ trao Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam và hỗ trợ tài chính giải quyết hậu quả chất da cam/dioxin.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang mong muốn thượng nghị sỹ Leahy tiếp tục đóng góp thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian tới, như ủng hộ việc thiết lập cơ chế đối thoại thường niên giữa hai Quốc hội, tái lập nhóm nghị sỹ vì quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, ủng hộ Việt Nam trong đàm phán TPP, công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, loại bỏ các biện pháp cản trở thương mại hai nước trong đó có chương trình giám sát cá da trơn mới theo Đạo luật Nông trại 2013, bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, tăng hỗ trợ giải quyết hậu quả chiến tranh, không thông qua các dự luật, nghị quyết không có lợi cho sự phát triển quan hệ hai nước.
Chủ tịch thường trực Thượng viện Hoa Kỳ Patrick Leahy đã chào mừng Chủ tịch nước tới thăm chính thức Hoa Kỳ; bày tỏ vui mừng về kết quả hội đàm giữa Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama, nhất là việc hai nước tuyên bố xác lập Đối tác toàn diện, cho rằng việc xác định khuôn khổ mới định hình cho sự phát triển quan hệ trong thời gian tới là điều hết sức cần thiết và kịp thời.
Thượng nghị sỹ Leahy ghi nhận tích cực những đề nghị của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang về quan hệ song phương, nhất là vấn đề tăng cường đối thoại giữa hai Quốc hội và giải quyết hậu quả chất da cam/dioxin.
Thượng nghị sỹ Leahy cho biết Thượng viện Hoa Kỳ rất quan tâm tới tình hình khu vực Đông Á-Thái Bình Dương, ủng hộ chính sách tái cân bằng của Chính quyền Tổng thống Obama, ủng hộ ASEAN đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc đang nổi lên ở khu vực, ủng hộ vai trò tích cực, chủ động của Việt Nam trong ASEAN cũng như trong các vấn đề khu vực và quốc tế; hoan nghênh Việt Nam tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc từ 2014 và sẽ sớm tham gia Công ước chống tra tấn.
Thượng nghị sỹ Leahy tái khẳng định Thượng viện Hoa Kỳ phản đối việc sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực hay các biện pháp cưỡng ép trong giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông và Biển Hoa Đông, ủng hộ việc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982, ủng hộ Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) và sớm tiến tới Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC).
Tối cùng ngày, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã rời Thủ đô Washington DC đi thăm thành phố New York./.
(TTXVN)
*****
Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang hội đàm với Tổng thống Barack Obama: Đã đến lúc xác lập quan hệ đối tác toàn
diện
Thanh Niên Online -
26/07/2013
Phát biểu tại cuộc họp báo kết thúc buổi hội đàm với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng trưa 25.7 (giờ địa phương), Tổng thống Mỹ Barack Obama nói: “Chúng tôi đã quyết tâm kết thúc Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương này vào cuối năm nay”.
Hai nhà lãnh đạo đã quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt - Mỹ - Ảnh: AFP
Coi trọng khu vực châu Á - Thái Bình Dương
Tại cuộc hội đàm trước khi họp báo, Tổng thống Obama hoan nghênh
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và đoàn đại biểu cấp cao Nhà nước Việt Nam tới
thăm chính thức Mỹ, khẳng định coi trọng quan hệ Việt - Mỹ và vai trò của Việt
Nam tại khu vực, mong muốn quan hệ giữa hai nước trong thời gian tới sẽ tiếp
tục phát triển mạnh mẽ. Tổng thống Obama khẳng định: Mỹ tiếp tục coi trọng khu
vực châu Á - Thái Bình Dương (TBD) trong tổng thể chiến lược chung của Mỹ,
trong đó có vai trò trung tâm của ASEAN trong một cấu trúc khu vực đang định
hình cũng như các cơ chế hợp tác tiểu khu vực; mong muốn thúc đẩy quan hệ với
ASEAN cũng như các đối tác khác của Mỹ tại Đông Bắc Á…
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cám ơn Tổng thống Obama đã mời Chủ
tịch nước thăm chính thức Mỹ, khẳng định Việt Nam hoan nghênh Mỹ tăng cường hợp
tác với châu Á - TBD vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực. Chủ tịch
nước cũng khẳng định “Việt Nam coi trọng và mong muốn tiếp tục thúc đẩy quan hệ
với Mỹ”.
“Với những sự tiến bộ đã
đạt được trong suốt 18 năm qua kể từ khi hai nước chúng ta tiến hành bình
thường hóa quan hệ ngoại giao đến nay, đã đến lúc hai nước cần xác lập khuôn
khổ quan hệ đối tác toàn diện làm cơ sở cho sự phát huy mạnh mẽ trên các lĩnh
vực trong thời gian tới của hai nước”.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
Hai bên đã nhất trí đánh giá quan hệ hai nước thời gian qua đã
phát triển sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, trên cả bình diện song phương và đa
phương, tạo nền tảng cho quan hệ bước sang một giai đoạn phát triển mới. Trên
cơ sở đó, hai nhà lãnh đạo đã quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt
- Mỹ dựa trên các nguyên tắc tôn trọng Hiến chương LHQ, luật pháp quốc tế, tôn
trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Quan hệ Đối tác toàn diện Việt - Mỹ sẽ tạo ra khuôn khổ mới cho
quan hệ hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực như chính trị - ngoại giao,
kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, môi trường và y
tế, hợp tác nhân đạo - giải quyết hậu quả chiến tranh, quốc phòng - an ninh,
bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, và văn hóa - thể thao - du lịch...
Hai nhà lãnh đạo tin tưởng Đối tác toàn diện Việt - Mỹ sẽ không
chỉ phục vụ tốt hơn lợi ích hai nước mà còn đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp
tác và phát triển ở châu Á - TBD và trên thế giới.
Tại cuộc hội đàm, Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang cũng đã trao đổi các biện pháp nhằm đưa quan hệ hai nước đi vào chiều
sâu, thiết thực và hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới, trong đó có tăng cường
trao đổi đoàn cấp cao, thiết lập các cơ chế hợp tác mới hoặc nâng cấp các cơ
chế hiện có. Hai nhà lãnh đạo hoan nghênh việc thiết lập cơ chế đối thoại
thường kỳ giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao và nhấn mạnh: hợp tác kinh tế, thương
mại, đầu tư là nền tảng và động lực của Đối tác toàn diện Việt - Mỹ; khẳng định
cam kết hoàn tất đàm phán TPP vào thời điểm sớm nhất có thể trong năm, tính đến
sự đa dạng về trình độ phát triển của mỗi nước trong khuôn khổ một hiệp định
cân bằng và toàn diện.
Ông Obama sẽ sang thăm Việt Nam
Đáng chú ý, tại cuộc hội đàm, hai nhà lãnh đạo đã nhất trí quan
điểm giải quyết tranh chấp ở biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với
luật pháp quốc tế. Trong đó có Công ước LHQ về luật Biển (UNCLOS) năm 1982,
đồng thời tái khẳng định ủng hộ nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử
dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và lãnh thổ.
Liên quan vấn đề này, hai nhà lãnh đạo cũng đã nhấn mạnh giá trị
của việc tuân thủ đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên tại biển Đông (DOC)
giữa ASEAN và Trung Quốc, và tầm quan trọng của việc khởi động đàm phán để đạt
được Bộ quy tắc ứng xử (COC) hữu hiệu trên biển Đông.
Đặc biệt, tại cuộc hội đàm, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã giới
thiệu với Tổng thống Obama bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Harry
S.Truman ngày 16.2.1946, trong đó bày tỏ Việt Nam mong muốn được “hoàn toàn độc
lập” và ý nguyện thiết lập “hợp tác đầy đủ” với Mỹ (bức thư gốc hiện đang được
lưu giữ tại Cục Lưu trữ quốc gia Mỹ). Nhân dịp này, Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang đã mời Tổng thống Obama và phu nhân thăm chính thức Việt Nam vào thời gian
thích hợp và Tổng thống Obama đã vui vẻ nhận lời sẽ sang thăm Việt Nam trong
nhiệm kỳ này.
Thông qua đối thoại sẽ
hiểu nhau hơn
Một ngày trước khi diễn ra cuộc hội đàm với
Tổng thống Mỹ Barrack Obama tại Nhà Trắng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng
đoàn đại biểu cấp cao của nhà nước đã có nhiều cuộc tiếp xúc, gặp gỡ với lãnh
đạo một số bộ thuộc lĩnh vực chủ chốt của Mỹ và tham dự nhiều cuộc gặp, sự
kiện quan trọng khác, trong đó có buổi tiệc chiêu đãi của Bộ Ngoại giao Mỹ do
Ngoại trưởng John Kerry chủ trì thực hiện.
Phát biểu tại đây, Chủ tịch nước khẳng định
chính sách của Việt Nam là duy trì đà tăng trưởng, tiếp tục cải thiện đời
sống người dân, tái cơ cấu nền kinh tế và đẩy mạnh cải cách hành chính và
phòng chống tham nhũng. Tiếp tục triển khai chính sách đối ngoại chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế. Ông cũng chuyển tải thông điệp về việc Việt Nam
mong muốn là một thành viên có trách nhiệm, đáng tin cậy và đóng góp tích cực
trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế nhằm duy trì hòa bình, ổn định, hợp
tác ở Đông Nam Á và châu Á - TBD.
Theo Chủ tịch nước, trong bối cảnh tình hình
khu vực và thế giới đang có nhiều biến động, vai trò và trách nhiệm của các
cường quốc, trong đó có Mỹ đối với việc xử lý các điểm nóng ở khu vực như
biển Đông, biển Hoa Đông cùng các vấn đề mang tính toàn cầu như an ninh năng
lượng, an ninh lương thực, chống tội phạm xuyên quốc gia, đối phó với biến
đổi khí hậu… đang ngày càng trở nên bức thiết. Trên tinh thần đó, Việt Nam
hoan nghênh Mỹ tăng cường quan hệ hợp tác với châu Á - TBD vì hòa bình, ổn
định và phát triển trong khu vực.
Chủ tịch nước nhấn mạnh thông điệp “trong
chính sách đối ngoại của mình, Việt Nam coi trọng và xem Mỹ là một đối tác
quan trọng hàng đầu”. Ông đề nghị hai nước tiếp tục duy trì đối thoại về các
vấn đề cùng quan tâm, trong đó có vấn đề quyền con người.
|
Sau cuộc hội đàm, Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang và Tổng thống Obama đã có cuộc gặp gỡ báo chí. Hai bên đã ra Tuyên
bố chung về quan hệ Việt - Mỹ.
Phát biểu tại cuộc họp báo ngay sau khi
kết thúc hội đàm, Tổng thống Obama chia sẻ với báo giới Mỹ vui mừng chào đón
ngài Chủ tịch Trương Tấn Sang thăm chính thức Mỹ và nhận định đây là biểu thị
cho quan hệ hợp tác ngày càng mạnh mẽ giữa hai nước.
Thông báo những vấn đề cốt lõi của nội
dung cuộc hội đàm, Tổng thống Mỹ cho biết hai bên đã quyết tâm kết thúc việc
đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên TBD (TPP) vào cuối năm
nay. Ông cũng thông báo tới báo giới thông tin thú vị: Tại cuộc hội đàm, ngài
Trương Tấn Sang có trao cho tôi một bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng
thống Truman. Chúng tôi đồng ý rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy nguồn cảm
hứng từ tuyên ngôn độc lập của Mỹ và từ lời lẽ của Tổng thống Jefferson.
Trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói rằng ông quan tâm tới sự hợp tác với
Mỹ. Ngài Trương Tấn Sang thì nói với tôi: “67 năm rồi mà chưa thấy nhiều tiến
bộ”. Ngài tổng thống cười tươi khi thuật lại chi tiết này.
Phát biểu trước báo giới, Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang cũng khẳng định ông và ngài Tổng thống Obama “vừa có cuộc hội
đàm hết sức thẳng thắn, xây dựng, hết sức bổ ích và hết sức hiệu quả”. “Với
những sự tiến bộ đã đạt được trong suốt 18 năm qua kể từ khi hai nước tiến
hành bình thường hóa quan hệ ngoại giao đến nay, đã đến lúc hai nước cần xác
lập khuôn khổ quan hệ đối tác toàn diện làm cơ sở cho sự phát huy mạnh mẽ
trên các lĩnh vực trong thời gian tới của hai nước”, ông nói. Nhân dịp này,
Chủ tịch nước cũng bày tỏ mong muốn bà con kiều bào sinh sống tại Mỹ sẽ là
chiếc cầu nối liền tình hữu nghị giữa hai nước.
Kết thúc phát biểu, Chủ tịch nước trân
trọng cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu, chân tình của ngài Tổng thống Obama cũng
như các vị lãnh đạo của Chính phủ Mỹ và bày tỏ mong muốn sự hợp tác của hai
nước ngày càng phát triển mạnh mẽ.
|
Bảo Cầm
(từ Washington D.C)
(từ Washington D.C)
*****
Tuyên bố chung của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama
Thanh Niên Online -
26/07/2013
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama chào mừng Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Trương Tấn Sang tới Nhà Trắng ngày 25.7.2013. Tại cuộc gặp, hai nhà Lãnh đạo khẳng định cam kết mở ra một giai đoạn mới cho quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và những lợi ích chung. Chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang diễn ra vào một thời điểm quan trọng đối với cả hai nước, phản ánh mong muốn chung cùng xây dựng mối quan hệ hướng tới tương lai giữa hai nước.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama quyết định xác
lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ nhằm xây dựng một khuôn
khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ. Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh các nguyên tắc
trong quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ, trong đó có tôn trọng
Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị,
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Hai nhà Lãnh đạo tuyên bố
quan hệ Đối tác Toàn diện nhằm góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh
vượng của mỗi nước, trong khu vực và trên toàn thế giới. Quan hệ Đối tác Toàn
diện mới sẽ tạo ra các cơ chế hợp tác trên nhiều lĩnh vực, trong đó có quan hệ
chính trị và ngoại giao, quan hệ thương mại và kinh tế, khoa học và công nghệ,
giáo dục và đào tạo, môi trường và y tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, quốc
phòng và an ninh, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, văn hóa, thể thao và du
lịch.
Hợp tác chính trị và ngoại giao
Trong khuôn khổ quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ, hai
bên nhất trí tăng cường trao đổi cấp cao, tiếp xúc ở tất cả các cấp và ủng hộ
việc tăng cường các cơ chế đối thoại và hợp tác. Tổng thống Obama khẳng định
Hoa Kỳ ủng hộ độc lập, chủ quyền, thịnh vượng và hội nhập quốc tế của Việt
Nam. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh Hoa Kỳ tăng cường hợp tác tại
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đóng góp vào hòa bình, ổn định và thịnh
vượng ở khu vực.
Hai nhà Lãnh đạo hoan nghênh việc thiết lập cơ chế đối thoại
thường kỳ giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao, và khuyến khích các cuộc đối thoại và
trao đổi giữa các cơ quan đảng của hai nước.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhất trí tăng
cường hợp tác tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, trong đó có Diễn đàn Hợp
tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị thượng đỉnh Đông Á
(EAS), và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) nhằm thúc đẩy hòa
bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Hai nhà Lãnh đạo tái khẳng định ủng hộ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp
hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có những quy định của
Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc (UNCLOS). Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
và Tổng thống Obama đồng thời tái khẳng định ủng hộ nguyên tắc không sử dụng
vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và tranh
chấp lãnh thổ. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhấn mạnh giá
trị của việc tuân thủ đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông
(DOC), và tầm quan trọng của việc khởi động đàm phán để hoàn tất một bộ Quy
tắc ứng xử (COC) có hiệu quả.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đánh giá cao Sáng kiến Hạ nguồn sông
Mê Kông (LMI). Hai nhà Lãnh đạo nhất trí hai bên nỗ lực cùng với các nước thành
viên LMI khác và Nhóm Những người bạn của khu vực hạ nguồn sông Mê Công, tăng
cường hơn nữa hợp tác khu vực nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng và phát triển bền
vững, thu hẹp khoảng cách phát triển, tăng cường kết nối và ứng phó với các
thách thức xuyên quốc gia trong khu vực.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama chỉ đạo các cơ
quan liên quan hoàn thành trong thời gian sớm nhất có thể thỏa thuận song
phương về việc xây dựng các sứ quán và cơ quan đại diện của hai nước. Hai nhà
Lãnh đạo khẳng định các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam và Hoa Kỳ tại
thủ đô mỗi nước cần phản ánh sự phát triển của quan hệ song phương.
Quan hệ kinh tế và thương mại
Nhắc lại các cuộc thảo luận tại Campuchia vào tháng 11.2012, Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama tái khẳng định cam kết hoàn tất
đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) toàn diện và tiêu
chuẩn cao vào thời điểm sớm nhất có thể trong năm nay. Hiệp định TPP của
thế kỷ 21 sẽ tăng cường hội nhập kinh tế khu vực, thúc đẩy các mục tiêu phát
triển và giúp tạo việc làm ở Việt Nam, Hoa Kỳ và các nước thành viên TPP
khác, trong khi tính đến sự đa dạng về trình độ phát triển của các thành viên
trong khuôn khổ một thỏa thuận cân bằng và toàn diện. Hai nhà Lãnh đạo hoan
nghênh những nỗ lực không ngừng nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ kinh tế, thương
mại và đầu tư song phương và Tổng thống Obama ghi nhận những nỗ lực cải
cách của Việt Nam với tư cách một nền kinh tế đang phát triển. Hai
nhà Lãnh đạo nhấn mạnh giá trị then chốt của các nỗ lực này đối với quan hệ
song phương và tầm quan trọng của hợp tác kinh tế như một nền tảng và động
lực của Đối tác Toàn diện mới Việt Nam - Hoa Kỳ.
Hai nhà Lãnh đạo nhất trí tăng cường hợp tác trong khuôn khổ Hội
đồng Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA), cũng như theo sáng kiến
Gắn kết Kinh tế Mở rộng ASEAN và trong APEC nhằm tăng cường liên kết kinh
tế và thương mại phù hợp với Đối tác Toàn diện song phương và các
mục tiêu chung trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), APEC và các
diễn đàn của ASEAN. Tổng thống Obama hoan nghênh những tiến bộ của
Việt Nam trong cải cách kinh tế. Tổng thống Obama ghi nhận quan tâm của
Việt Nam trong việc đạt được quy chế kinh tế thị trường và cam kết
tăng cường hợp tác mang tính xây dựng với Việt Nam về cải cách kinh
tế. Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận việc Việt Nam dự định tham gia Công ước Cape
Town về lợi ích quốc tế đối với thiết bị di dộng (CTC).
Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận tầm quan trọng của quan hệ thương mại
ngày càng tăng giữa hai nền kinh tế và đặc biệt nhắc tới: Bản ghi nhớ giữa
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Hoa Kỳ về hỗ
trợ thương mại và đầu tư trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng ở
Việt Nam, Thỏa thuận khung triển khai dự án phát triển mỏ Cá Voi Xanh
ngoài khơi Việt Nam giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Công ty Exxon
Mobil, Thỏa thuận hợp tác giữa Tổng Công ty thăm dò, khai thác dầu khí (PVEP)
và Công ty dầu khí Murphy, Bản ghi nhớ giữa Công ty bảo hiểm Metropolitan Life
(Metlife) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chấp thuận của Bộ Tài
chính Việt Nam về chủ trương thành lập công ty quản lý quỹ của Công ty bảo
hiểm ACE.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama hoan nghênh sự
hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đối với các chương trình xây dựng năng lực và
đào tạo nhằm giúp Việt Nam tiếp nhận và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến,
mang lại lợi ích cho nông dân, các công ty nông nghiệp và người tiêu dùng Việt
Nam. Hai nhà Lãnh đạo thừa nhận tầm quan trọng của việc bảo vệ thành phần dân
cư dễ bị tổn thương trong khi phát triển kinh tế, trong đó có việc cùng nhau
đấu tranh chống lao động trẻ em và lao động cưỡng bức.
Hợp tác khoa học và công nghệ
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama trao đổi về tầm
quan trọng của hợp tác khoa học và công nghệ. Hai nhà Lãnh đạo hoan nghênh cuộc
họp lần thứ 8 của Ủy ban hỗn hợp về hợp tác khoa học và công nghệ sẽ được tổ
chức vào mùa thu năm nay, nhấn mạnh các nỗ lực nhằm xây dựng quan hệ giữa các
cộng đồng khoa học tại Việt Nam và Hoa Kỳ để tăng cường hợp tác song phương,
ứng phó với biến đổi khí hậu và các thách thức toàn cầu khác, và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế dựa trên sự sáng tạo.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama tái khẳng định
tiếp tục thúc đẩy hợp tác khoa học, trong đó có lĩnh vực năng lượng hạt nhân
dân sự, công nghệ không gian và nghiên cứu biển. Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang và Tổng thống Obama nhấn mạnh việc hai bên kết thúc thành công
chương trình chuyển đổi thanh nhiên liệu có độ giàu uranium cao ra khỏi
Việt Nam. Hai nhà Lãnh đạo nhất trí tiếp tục hợp tác để hỗ trợ chương trình
năng lượng hạt nhân hòa bình của Việt Nam với các tiêu chuẩn cao nhất về bảo
đảm an toàn, an ninh.
Hợp tác giáo dục
Hai nhà Lãnh đạo nhất trí về sự cần thiết tăng cường hợp tác
giáo dục, văn hóa và giao lưu nhân dân giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Hai nhà Lãnh
đạo nhấn mạnh sự gia tăng nhanh chóng số lượng sinh viên Việt Nam theo học
tại các trường đại học và cao đẳng tại Hoa Kỳ và bày tỏ hy vọng ngày càng nhiều
sinh viên Hoa Kỳ tìm kiếm cơ hội du học tại Việt Nam. Hai nhà Lãnh đạo nhất trí
rằng hợp tác chặt chẽ về giáo dục, đào tạo là nhân tố quan trọng trong giai
đoạn tới của quan hệ giữa hai nước. Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận việc thúc đẩy đào
tạo tiếng Anh sẽ giúp Việt Nam cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu thế kỷ 21.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama ghi nhận sự
thành công của các sáng kiến giáo dục, trao đổi song phương, đặc biệt là chương
trình Fulbright và Chương trình Liên minh Giáo dục Đại học ngành kỹ thuật
(HEEAP). Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama ghi nhận thành
công của Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright và Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang hoan nghênh sáng kiến thành lập trường Đại học Fullbright ở
Việt Nam.
Môi trường và Y tế
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama hoan nghênh hợp
tác song phương ngày càng tăng nhằm giảm khí thải nhà kính tại Việt Nam bằng
việc gia tăng năng lượng sạch, hiệu suất năng lượng và lâm nghiệp bền vững và
tăng cường khả năng của Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và
thảm họa thiên nhiên, trong đó có Chương trình Năng lượng sạch và Chương trình
Rừng và Đồng bằng của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Tổng thống
Obama tái khẳng định Hoa Kỳ cam kết tăng hỗ trợ về chăm sóc y tế và các hình
thức chăm sóc, trợ giúp khác cho người khuyết tật vì bất cứ nguyên nhân nào ở
Việt Nam.
Hai nhà Lãnh đạo đồng thời nhất trí hợp tác với các nước đối tác
LMI thúc đẩy nghiên cứu khoa học, xây dựng năng lực và đối thoại để bảo đảm sức
sống lâu dài và bền vững của đồng bằng sông Mê Công và lưu vực hạ nguồn sông.
Tổng thống Obama đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Việt Nam trên cương vị đồng
chủ tịch Trụ cột Môi trường và Nước trong khuôn khổ LMI, trong đó có hai đề
xuất nghiên cứu chung của Việt Nam về quản lý nguồn nước lưu vực sông.
Hai nhà Lãnh đạo bày tỏ hài lòng về việc ký kết Hiệp định Hợp tác
Y tế và Khoa học Y học gần đây và mong muốn thúc đẩy hợp tác y tế công nhằm
tăng cường an ninh y tế toàn cầu. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đánh giá cao
việc Chính phủ Hoa Kỳ, thông qua Kế hoạch cứu trợ khẩn cấp về phòng chống AIDS
của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR), tiếp tục hỗ trợ những nỗ lực của Việt Nam nhằm
xây dựng hệ thống phòng ngừa, điều trị và chăm sóc HIV/AIDS bền vững.
Các vấn đề hậu quả chiến tranh
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhất trí rằng
việc tăng cường hợp tác giải quyết hậu quả chiến tranh làm sâu sắc sự tin cậy
lẫn nhau, cho phép hai nước phát triển mối quan hệ hướng tới tương lai. Tổng
thống Obama đánh giá cao việc Việt Nam tiếp tục hợp tác tìm kiếm đầy đủ quân
nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh. Tổng thống Obama tái khẳng định cam kết
của Hoa Kỳ hỗ trợ những nỗ lực của Việt Nam trong việc tìm kiếm bộ đội mất
tích. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ghi nhận những đóng góp của Chính phủ Hoa
Kỳ đối với các nỗ lực của Việt Nam trong việc rà phá các vật liệu nổ còn sót
lại (UXO), hỗ trợ những nạn nhân bị thương do các vật liệu nổ còn sót lại, và
ngăn chặn thương vong trong tương lai.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama bày tỏ sự hài
lòng đối với những tiến triển của dự án tẩy độc đioxin tại sân bay Đà Nẵng
giữa Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) và Bộ Quốc phòng Việt Nam. Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh các kế hoạch của Chính phủ Hoa Kỳ về việc
tiến hành đánh giá về mức độ nhiễm độc đioxin đối với môi trường tại sân bay
Biên Hòa.
Quốc phòng và An ninh
Hai nhà Lãnh đạo nhất trí Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hợp tác
về quốc phòng và an ninh. Hai nhà Lãnh đạo bày tỏ sự hài lòng đối với Bản ghi
nhớ về thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương ký năm 2011 và tái khẳng định
cam kết triển khai đầy đủ Bản ghi nhớ. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và
Tổng thống Obama nhất trí tiếp tục Đối thoại chính sách quốc phòng Việt
Nam - Hoa Kỳ và Đối thoại Chính trị - An ninh - Quốc phòng song
phương nhằm đánh giá quan hệ quốc phòng và an ninh và thảo luận về
hợp tác trong tương lai.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhất trí mở
rộng hợp tác cùng có lợi nhằm tăng cường năng lực trong lĩnh vực tìm kiếm cứu
nạn và ứng phó thiên tai. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề an
ninh phi truyền thống và nhất trí hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong lĩnh vực chống
khủng bố; tăng cường hợp tác thực thi pháp luật trên biển; đấu tranh chống tội
phạm xuyên quốc gia, trong đó có chống cướp biển, buôn lậu ma túy, buôn bán
người, buôn bán động vật hoang dã; ứng phó với tội phạm công nghệ cao và vấn đề
an ninh mạng.
Tổng thống Obama hoan nghênh quyết định của Việt Nam tham gia Hoạt
động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và nhấn mạnh Hoa Kỳ mong muốn hỗ trợ
đào tạo và các hình thức hỗ trợ khác cho hoạt động này thông qua Sáng kiến hoạt
động hòa bình toàn cầu (GPOI).
Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama ghi nhận lợi
ích của việc đối thoại thẳng thắn và cởi mở nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau,
thu hẹp khác biệt về quyền con người. Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
thông báo với Tổng thống Obama những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong
việc thúc đẩy quyền con người, nhà nước pháp quyền và bảo vệ quyền của các tín
đồ tôn giáo. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng khẳng định Việt Nam sẵn sàng ký
Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc vào cuối năm nay và tuyên bố Việt Nam
sẽ mời Báo cáo viên Đặc biệt về Tự do tôn giáo và tín ngưỡng vào năm 2014. Hai
bên tái khẳng định cam kết ủng hộ Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế
giới về quyền con người.
Văn hóa, du lịch và thể thao
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác văn hóa, thể thao và du lịch nhằm tăng
cường giao lưu nhân dân và hiểu biết lẫn nhau. Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận
những thành công của người Mỹ gốc Việt và khuyến khích cộng đồng tiếp tục
đóng góp vào sự phát triển của quan hệ song phương. Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang và Tổng thống Obama khuyến khích giao lưu nhân dân thông qua các hoạt động
biểu diễn nghệ thuật, hòa nhạc, triển lãm và các sự kiện văn hóa và thể thao
khác giữa hai nước.
*****
Bức thư đặc biệt của Việt Nam cho Tổng thống Obama
Vietnam
Net - 26/07/2013
Cuối
cuộc hội đàm tại Washington ngày 25/7 (theo giờ địa phương), Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang giới thiệu cho Tổng thống Obama một bản sao bức thư của Chủ tịch Hồ
Chí Minh cách đây 67 năm (2/1946) gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman.
Đó
là bức thư được Chủ tịch Hồ Chí Minh phác thảo vào thời điểm không lâu sau khi
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã giới
thiệu với Tổng thống Obama bức thư gửi Tổng thống Truman ngày 16/2/1946, trong
đó bày tỏ Việt Nam mong muốn được “hoàn toàn độc lập” và ý nguyện thiết lập
“hợp tác đầy đủ” với Hoa Kỳ. Bức thư gốc hiện đang được lưu giữ tại Cục Lưu trữ
quốc gia Hoa Kỳ.
Ý
nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh 67 năm trước về mối quan hệ “hợp tác đầy đủ”
giữa hai nước đã thành hiện thực - vào thời điểm Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
cùng Tổng thống Obama hội đàm tại Nhà Trắng ngày 25/7. Theo đó, hai nhà lãnh
đạo đã xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ nhằm xây dựng một
khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ.
“Với
những tiến bộ đạt được 18 năm qua kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ,
đã “đến lúc hai nước xác lập khuôn khổ quan hệ đối tác toàn diện” - Chủ tịch
nước nói với đông đảo báo chí sau hội đàm với Tổng thống Obama .
Trong
cuộc trao đổi với báo chí tại phòng Bầu Dục - Nhà Trắng sau hội đàm, Tổng thống
Obama đã nhấn mạnh ý nghĩa chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang như
biểu tượng cho sự hợp tác ngày càng mạnh mẽ, tiến bộ giữa hai nước.
Tổng
thống Obama đã đề cập đến một nền tảng xương sống của quan hệ hai nước khi bình
thường hóa quan hệ. Đó là những nỗ lực hợp tác giải quyết những vấn đề hậu chiến
tranh, trong đó ông ca ngợi sự nỗ lực của Việt Nam giúp đỡ Hoa Kỳ tìm kiếm quân
nhân mất tích trong chiến tranh. Phía Hoa Kỳ cũng đã cùng Việt Nam khắc phục
những hậu quả dioxin về mặt môi trường, sức khỏe, con người. Ông cam kết Hoa Kỳ
tiếp tục cùng Việt Nam hợp tác trong vấn đề này.
Trao
đổi với báo chí tại Nhà Trắng, khi đề cập đến triển vọng hợp tác giữa hai nước,
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đặc biệt nhấn mạnh vai trò của cộng đồng người
Việt đang sinh sống, học tập, định cư tại Hoa Kỳ.
Ông
truyền tải thông điệp của Chính phủ Việt Nam mong muốn cộng đồng người Việt sẽ
là cầu nối vững chắc nối liền tình hữu nghị của nhân dân hai nước, sự phát
triển quan hệ hai nước trong thời gian tới.
Liên
quan hợp tác song phương, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
nhất trí sẽ cùng các đối tác nỗ lực thúc đẩy đàm phán Hiệp định Xuyên Thái Bình
Dương TPP đi đến kết thúc vào cuối năm nay.
Đề
cập hợp tác đa phương, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh Hoa Kỳ và các
nước quan tâm chăm sóc sự nghiệp hòa bình, ổn định ở Biển Đông nói riêng, khu
vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung.
Về
vấn đề Biển Đông, Chủ tịch nước hoan nghênh Hoa Kỳ ủng hộ lập trường của Việt
Nam cũng như các nước ASEAN giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên
cơ sở luật pháp quốc tế, Tuyên bố DOC, tiến tới Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông
COC và cam kết đảm bảo tự do hàng hải trên Biển Đông.
*****
Việt - Mỹ nâng cấp quan hệ
BBC
- Thứ năm, 25 tháng 7, 2013
Sau cuộc gặp giữa Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch
Trương Tấn Sang, Hoa Kỳ và Việt Nam ra tuyên bố chung về quan hệ "đối tác
toàn diện" (comprehensive partnership).
Tuyên bố chung,
được đăng trên trang web Nhà Trắng, nói ông Obama và Trương Tấn Sang
"quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ để đem lại
khuôn khổ tổng thể cho việc thúc đẩy quan hệ".
Quan hệ này dựa
trên các nguyên tắc "tôn trọng Hiến chương Liên Hiệp Quốc, luật pháp quốc
tế, hệ thống chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau".
Quan hệ mới sẽ
tạo ra "cơ chế hợp tác trong các lĩnh vực gồm quan hệ ngoại giao và chính
trị, kinh tế, thương mại, khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo, môi trường
và sức khỏe, các vấn đề di sản chiến tranh, quốc phòng và an ninh, bảo vệ và
thúc đẩy nhân quyền, văn hóa, thể thao và du lịch," theo tuyên bố chung.
Tuyên bố chung
Việt - Mỹ tái khẳng định "ủng hộ nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe
dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và tranh chấp lãnh
thổ"
Việt Nam nói đồng
ý ký Công ước chống tra tấn của Liên Hiệp Quốc vào cuối năm nay và sẽ mời Báo
cáo viên Đặc biệt về Tự do tôn giáo và tín ngưỡng vào năm 2014.
Các phóng viên
ghi nhận Tổng thống Mỹ Barack Obama hôm 25/7 thúc giục Chủ tịch Trương Tấn Sang
tăng cường tự do ngôn luận và tôn giáo ở Việt Nam, nhưng lạc quan về triển vọng
quan hệ.
Hai nhà lãnh đạo
tỏ ra vui vẻ trong cuộc gặp ở Phòng Bầu dục.
Ông Obama tiết lộ
ông Sang đã tặng bản sao lá thư lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh gửi Tổng thống
Harry Truman năm 1946, đề nghị Mỹ giúp đỡ.
"Tất cả
chúng ta đều nhận ra lịch sử vô cùng phức tạp giữa Mỹ và Việt Nam, nhưng từng
bước một, chúng ta đã có thể thiết lập một mức độ tôn trọng và tin tưởng
nhau," ông Obama nói.
'Toàn diện' hay 'chiến lược'?
Trước chuyến đi
của ông Trương Tấn Sang, giới quan sát đã nhắc tới nguyện vọng của Việt
Nam muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ.
Thực ra, ý
tưởng nâng cấp quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược lần đầu
tiên được đưa ra trong chuyến thăm Hà Nội năm 2010 của Ngoại trưởng Hoa
Kỳ khi đó là bà Hillary Clinton.
Cho tới nay,
Việt Nam đã ký kết quan hệ đối tác chiến lược với 12 quốc gia là
Nga (2001), Nhật Bản (2006), Ấn Độ (2007), Trung Quốc (2008), Hàn Quốc
(2009), Tây Ban Nha (2009), Anh quốc (2010), Đức (2011), Ý, Singapore,
Indonesia và Thái Lan(2013).Trong đó, quan hệ với Nga và Trung Quốc còn
được năng lên một mức cao hơn nữa là đối tác chiến lược toàn diện.
Thủ tướng Việt
Nam Nguyễn Tấn Dũng trong bài phát biểu tại Đối thoại Shangri-La ở
Singapore năm nay cho hay Việt Nam muốn có quan hệ đối
tác chiến lược với tất cả các thành viên thường trực Hội đồng Bảo
an Liên Hiệp Quốc, có nghĩa là cả Pháp và Hoa Kỳ.
Theo chuyên gia
về Việt Nam Carl Thayer từ Học viện Quốc phòng Australia, cụm từ 'đối
tác chiến lược' được dùng để chỉ các nước mà Việt Nam cho rằng tối
quan trọng cho quyền lợi quốc gia của mình.
Ông nói có hai
cách giải thích tại sao quan hệ Việt-Mỹ hiện nay được gọi là 'toàn
diện' mà không phải 'chiến lược'.
Thứ nhất, theo
ông Thayer, quá trình đàm phán đối tác chiến lược có thể đã gặp
nhiều trắc trở và ngưng trệ khiến hai bên quyết định cho ra một thỏa
thuận chung chung thay vì không đưa ra được thỏa thuận nào.
Nhưng lý do
khác, mà ông Thayer viện dẫn một số nguồn tin của ông cho biết, là
một số nhân vật thủ cựu trong Đảng Cộng sản Việt Nam phản đối việc
sử dụng cụm từ "đối tác chiến lược" trong quan hệ với Mỹ.
Ông nói với BBC rằng báo chí Việt Nam khi phản ánh về tuyên bố chung
Mỹ-Việt hôm 25/7 đã được chỉ đạo không nói đây là sự nâng cấp, mà
chỉ nói hai bên 'xác lập quan hệ đối tác toàn diện'.
Tuy nhiên, để
đạt được một quan hệ đối tác phát triển trên một tầm cao mới, hai
nước cần phải có các chương trình hành động chung hướng tới viễn
cảnh lâu dài có tính chiến lược.
'Thẳng thắn'
Tổng thống
Obama đã có phát biểu sau điều mà ông mô tả là cuộc đối thoại "rất thẳng
thắn" tại Nhà Trắng với ông Trương Tấn Sang.
"Hoa Kỳ tiếp
tục tin rằng tất cả chúng ta phải tôn trọng các vấn đề như tự do bày tỏ, tự do
tôn giáo, tự do hội họp," ông Obama nói với các phóng viên ở Phòng Bầu
dục, trong khi ông Sang ở cạnh.
"Chúng tôi
đã có đối thoại rất thẳng thắn về cả tiến bộ mà Việt Nam đạt được và những
thách thức còn tồn tại," ông nói.
Hàng trăm người
biểu tình, đa số là người Mỹ gốc Việt, vẫy cờ Việt Nam Cộng Hòa và hô khẩu hiệu
từ Công viên Lafayette, thỉnh thoảng vang tới cả bên trong Nhà Trắng.
Tổng thống Mỹ cho
hay hai người quyết tâm hoàn tất Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương trước
cuối năm.
Ông nói nó sẽ tạo
thêm việc làm và tăng đầu tư ở châu Á và hai quốc gia.
Chủ tịch Việt
Nam, thừa nhận hai bên còn những "khác biệt", nói ông Obama sẽ
"cố gắng" để thăm Việt Nam trước khi nhiệm kỳ kết thúc.
Phát biểu qua
phiên dịch, ông Sang nói: "Chúng tôi sẽ tăng cường các trao đổi cấp cao
giữa hai nước."
Ông Obama nói ông
muốn một quan hệ đối tác với Việt Nam bao gồm gia tăng thương mại, hợp tác quân
sự, trao đổi giáo dục và khoa học.
Ông Obama cho
biết hai nước vẫn đang làm việc về "những vấn đề di sản chiến tranh",
như người Mỹ mất tích và sức khỏe của người Việt từ việc Mỹ dùng chất diệt cỏ
trong chiến tranh.
Một yếu tố làm Mỹ
xích lại Việt Nam là lo ngại về Trung Quốc.
Ông Obama nhắc
lại kêu gọi có tiến bộ trong việc xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên biển giữa
Asean và Trung Quốc.
Ông nói ông hy
vọng sẽ có bộ quy tắc "giúp giải quyết những vấn đề này trong hòa bình và
công bằng".
"Chúng
tôi đã có đối thoại rất thẳng thắn về cả tiến bộ mà Việt Nam đạt được và những
thách thức còn tồn tại."
Tổng thống Mỹ Barack Obama
Theo lịch trình, ông Obama sẽ rời Nhà
Trắng ra phi trường Andrews để bay tới Florida lúc 11:30. Tổng thống sẽ trở lại
Nhà Trắng vào lúc 17:35 để tiếp tục một số hoạt động ở Washington DC.
Các hình ảnh cho
thấy đông đảo người Việt ở Hoa Kỳ đã có mặt ở trước cửa Nhà Trắng để phản đối
tình trạng nhân quyền ở Việt Nam.
Trong số người biểu tình có ông Joseph Cao, người Mỹ gốc Việt đầu tiên được
bầu vào Hạ viện Hoa Kỳ.
Các biểu ngữ mà
người biểu tình mang theo có 'Trương Tấn Sang go home', tức 'Trương Tấn Sang
hãy về nhà' và 'Free Điếu Cày', tức 'Trả tự do cho Điếu Cày', người mà ông
Obama từng nhắc tới trong một diễn văn về tự do ngôn luận trên thế giới.
Hiện có tin
blogger Điếu Cày đã tuyệt thực trong nhiều ngày qua.
Không rõ ông
Obama có nhắc lại tên của blogger này trong cuộc gặp với ông Sang hay không.
Nhân quyền và khí hậu
Nhà Trắng nói hai
vị nguyên thủ quốc gia có kế hoạch thảo luận về tình trạng nhân quyền Việt Nam
và biến đổi khí hậu.
Luật sư Vũ Đức
Khanh từ Canada nói nhìn toàn cảnh của chuyến công du ba ngày của Chủ tịch Sang
và cách tiếp đón ông tại Hoa Kỳ, "người ta không khỏi có cảm tưởng rằng
Việt Nam cộng sản chưa thể gọi là "đối tác chiến lược quan trọng" của
Hoa Kỳ ở Đông Nam Á như những gì mà truyền thông cũng như lãnh đạo Hà Nội đã
đặt kỳ vọng trước chuyến đi này."
Luật sư Khanh nói
thêm: "Buổi tiệc duy nhất mà chính phủ Hoa Kỳ chiêu đãi ngài Chủ tịch
Trương Tấn Sang là buổi "ăn trưa làm việc với Ngoại trưởng John Kerry tại
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hôm qua 24/7.
"Chủ tịch
Sang không được nghi lễ đón tiếp cấp nhà nước, thậm chí người đón ông Chủ tịch
vào Tòa Bạch Ốc để giới thiệu với Tổng thống Obama chỉ ở cấp Đại sứ đó là Đại
sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear và Đại sứ Marshall người chịu trách Lễ tân
của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
"Khác hẳn
với chuyến đi hồi tháng 6 vừa qua của Chủ tịch Sang đến Trung Quốc khi ông được
long trọng đón tiếp và cùng với Chủ tịch Tập duyệt dàn chào danh dự.
"Liệu Chủ
tịch Sang và các đồng chí của ông trong Bộ Chính Trị sẽ nghĩ gì khi phải lựa
chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc?"
*****
Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang bác bỏ yêu sách “đường 9 đoạn” của Trung Quốc tại Biển Đông
RFI - Thứ sáu 26 Tháng Bẩy 2013
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang (trái) và Tổng thống Hoa Kỳ Barack
Obama tại Nhà Trắng ngày 25/07/2013 - REUTERS/Yuri Gripas
Trọng Thành
Theo AFP, hôm qua 25/07/2013, trong cuộc nói chuyện tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (Center for Strategic and International Studies – CSIS), có trụ sở tại Washington, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tuyên bố bác bỏ đòi hỏi chủ quyền với yêu sách “đường 9 đoạn” của Trung Quốc trên Biển Đông, còn gọi là « đường lưỡi bò ». Về việc Philippines kiện Trung Quốc ra tòa án Liên Hiệp Quốc, Chủ tịch Việt Nam từ chối đưa ra bình luận.
Trong chuyến công du Hoa Kỳ, Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn
Sang đã có tuyên bố bác bỏ yêu sách chủ quyền đường lưỡi bò, bao gồm gần như
toàn bộ vùng Biển Đông và nhiều đảo gần bờ biển các quốc gia Đông Nam Á như
Việt Nam, Philippines
… Chủ tịch Việt Nam giải thích: “Chúng tôi
không tìm thấy bất cứ cơ sở pháp lý hay khoa học nào đối với một đòi hỏi như
thế và như vậy chủ trương của Việt Nam bác bỏ đòi hỏi chủ quyền theo đường 9
đoạn của Trung Quốc tại Biển Đông là hợp lý”.
Tuy nhiên, ông Trương Tấn Sang từ chối đưa ra bình luận
về khả năng Việt Nam sẽ liên kết với Philippines trong việc đưa các tranh chấp
với Trung Quốc ra trọng tài quốc tế để xét xử dựa trên Công ước của Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển, như Manila đã khởi sự từ tháng 1/2013. Chủ tịch Việt Nam
khẳng định: “Là một
thành viên của Liên Hiệp Quốc, Philippines có toàn quyền theo đuổi vụ kiện như
họ muốn”.
Trên thực tế, Việt Nam và Philippines đều thường xuyên
chỉ trích các yêu sách ngày càng quyết đoán của Trung Quốc tại Biển Đông. Dù
sao, quan hệ giữa từng nước với Trung Quốc có phần khác nhau. Quan hệ
Philippines - Trung Quốc đặc biệt căng thẳng trong thời gian gần đây, với việc
Trung Quốc duy trì sự kiểm soát khu vực bãi cạn Scarborough (bãi cạn này được
Philippines đặt tên là Panatag, trong khi phía Trung Quốc gọi là Hoàng Nham),
mà Philippines vẫn khẳng định chủ quyền, sau hai tháng tranh chấp giữa hai bên
hồi hè năm ngoái. Ngày 22/01/2013, Manila tuyên bố buộc phải đưa vụ việc này ra
trước tòa án quốc tế, vì “đã sử dụng
gần như toàn bộ các biện pháp ngoại giao và chính trị để có thể giải quyết
tranh chấp một cách hòa bình với Trung Quốc”.
Trong khi đó, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc có phần dịu
lại với chuyến công du của Chủ tịch nước Việt Nam hồi cuối tháng 6/2013, hai
bên đã đồng ý thiết lập một đường dây nóng để phòng ngừa các biến cố bất ngờ
gây xung đột. Tuy nhiên, ngay sau chuyến công du của Chủ tịch nước Việt Nam,
đầu tháng 7/2013, lại diễn ra các vụ tàu Trung Quốc tấn công, cướp phá các tầu
cá Việt Nam đang khai thác hải sản tại vùng biển Hoàng Sa.
Trước cuộc nói chuyện tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược
và Quốc tế (CSIS), Chủ tịch Việt Nam đã có cuộc hội đàm với Tổng thống Barack
Obama tại Nhà Trắng. Hai nhà lãnh đạo Việt Nam - Hoa Kỳ ra tuyên bố chung kêu
gọi “giải
quyết các xung đột bằng con đường hòa bình” và tái
khẳng định sự ủng hộ đối với việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông,
gọi tắt là COC, nhằm hóa giải các tranh chấp. Chủ tịch nước Việt Nam nói :
“Vấn đề
Biển Đông cũng đã được bàn bạc tới một cách thấu đáo. Chúng tôi hết sức hoan
nghênh chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ lập trường Việt Nam cũng như các nước thành viên
ASEAN là giải quyết những tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên
cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, DOC tiến đến COC và cam kết bảo đảm tự do
hàng hải trên Biển Đông. Tôi cũng bày tỏ sự hoan nghênh Hoa Kỳ cũng như các
nước khác hết sức quan tâm, chăm sóc sự nghiệp hòa bình, ổn định, thịnh vượng ở
Biển Đông nói riêng cũng như trong khu vực Châu Á -Thái Bình Dương”.
Về phần mình, Tổng thống Obama cho biết: “Chúng tôi đã thảo
luận về sự cần thiết phải tiếp tục các nỗ lực nhằm giải quyết một cách hòa bình
những vấn đề hàng hải đang nổi lên tại Biển Đông và những nơi khác trong vùng
Châu Á-Thái Bình Dương. Chúng tôi đánh giá rất cao cam kết của Việt Nam làm
việc với ASEAN và Thượng đỉnh Đông Á nhằm đạt được một bộ quy tắc ứng xử cho
phép giải quyest các vấn đề này một cách hòa bình và công bằng”.
Trong Hội nghị các Ngoại trưởng của khối ASEAN tại Brunei
hồi đầu tháng 7/2013, Ngoại trưởng Trung Quốc tuyên bố chấp nhận đàm phán với
các nước ASEAN về bộ quy tắc COC kể từ tháng 9/2013. Tuy vậy, một số nhà quan
sát cảnh báo thái độ của Trung Quốc không thành thực, mà chỉ là một thủ pháp
nhằm hóa giải chiến lược xoay trục của Mỹ, đang ngày càng giành được sự ủng hộ
của nhiều nước Đông Nam Á đang bị Trung Quốc chèn ép.
Tags: Biển Đông - Châu Á - Lãnh Hải - Trung Quốc - Việt Nam
*****
Gặp gỡ Obama-Trương Tấn Sang: hai bên
cùng thắng
Nam Nguyên, phóng viên RFA - 2013-07-26
Tổng thống Hoa Kỳ Barak
Obama tiếp Chủ tịch Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng hôm 25/07/2013 - AFP
Mục đọc báo trên mạng hôm nay Nam Nguyên cùng quí vị điểm
lại chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang qua ghi nhận của
truyền thông báo chí.
Xích lại gần nhau
Cuộc hội kiến tại Nhà Trắng giữa Tổng thống Hoa Kỳ Barack
Obama và Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang sáng 25/7 đã kéo dài hơn dự định 30
phút.
Phát biểu sau cuộc Hội đàm Chủ tịch Việt Nam Trương
Tấn Sang nói:
“Chân thành mà nói thì tôi và ngài tổng thống Obama vừa
có một cuộc hội đàm hết sức thẳng thắn, xây dựng hết sức có bổ ích và có hiệu
quả, với những sự tiến bộ trong suốt 18 năm qua, kể từ hai đất nước chúng ta
bình thường hóa quan hệ cho đến nay đã đến lúc hai nước cần xác lập một khuôn
khổ quan hệ đối tác toàn diện làm cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ trên các lãnh
vực của hai nước chúng ta trong thời gian tới. Chúng tôi đã bàn một cách cặn kẽ
và sâu rộng về vấn đề quan hệ chính trị đối ngoại, về vấn đề khoa học công
nghệ, giáo dục đào tạo, an ninh quốc phòng, về vấn đề khắc phục hậu quả chiến
tranh để lại, về vấn đề khắc phục môi trường về vấn đề người Việt Nam tại Hoa
Kỳ cũng như vấn đề quyền con người tại Việt Nam….”
Toàn văn phát biểu của hai nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Việt
Nam sau cuộc gặp gỡ song phương được Văn phòng Báo chí Tòa Bạch Ốc phổ biến lúc
11g30 ngày 25/7/2013.
Vào lúc 2 giờ chiều cùng ngày theo giờ đông bộ Hoa Kỳ tức
1g sáng ngày 26/7 theo giờ Hà Nội, Thông tấn xã VN đã phổ biến tuyên bố chung
của Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama. Bản tuyên bố chung dài
3,200 từ, theo các chuyên gia có vẻ như một thắng lợi cho cả hai bên. Chúng tôi
xin trích một đoạn:
“Chân thành mà nói thì tôi và ngài tổng
thống Obama vừa có một cuộc hội đàm hết sức thẳng thắn, xây dựng hết sức có bổ
ích và có hiệu quả”.
Chủ tịch Trương Tấn Sang
“Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama quyết
định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ nhằm xây dựng một
khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ. Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh các nguyên
tắc trong quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ, trong đó có tôn trọng Hiến
chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Hai nhà Lãnh đạo tuyên bố quan hệ Đối tác toàn diện nhằm
góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng của mỗi nước, trong khu
vực và trên toàn thế giới. Quan hệ Đối tác Toàn diện mới sẽ tạo ra các cơ chế
hợp tác trên nhiều lĩnh vực, trong đó có quan hệ chính trị và ngoại giao, quan
hệ thương mại và kinh tế, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, môi
trường và y tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, quốc phòng và an ninh, bảo vệ
và thúc đẩy quyền con người, văn hóa, thể thao và du lịch.”
Theo AP, Sau cuộc họp, Tổng thống Obama nói với báo chí
là ông và Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang cam kết hoàn tất Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương trước cuối năm nay. Thỏa thuận này sẽ giúp tạo thêm việc
làm và gia tăng đầu tư ở cả hai quốc gia cũng như khu vực Châu á Thái Bình
Dương. Ông Obama còn cho biết hai nhà lãnh đạo đã thảo luận vấn đề nhân quyền
và ông Obama nhận lời viếng thăm Việt Nam trước khi mãn nhiệm kỳ Tổng thống.
Trước khi đến Mỹ, ông Sang đã nói với hãng AP rằng, sự
kiện Hoa Kỳ quan tâm tới vấn đề Việt Nam vi phạm nhân quyền, bắt giữ
nhiều người bất đồng chính kiến, sẽ không làm lu mờ mối quan hệ kinh tế và quân
sự cận kề giữa hai nước.
Theo tường thuật của hãng tin Pháp AFP, Tổng thống Barack
Obama đã kêu gọi Chủ tịch Trương Tấn Sang nỗ lực cải thiện quyền tự do phát biểu
và tự do tôn giáo tại Việt Nam.
Trong khi hội đàm Barack Obama- Trương Tấn Sang diễn ra,
trên công viên đối diện Tòa Bạch Ốc, theo AP khoảng 2,000 người biểu tình kêu
gọi Hoa Kỳ bảo vệ nhân quyền tại Việt Nam trước khi nói chuyện thương mại.
Một ngày trước khi khi gặp gỡ Tổng thống Obama tại Nhà
Trắng, Ông Trương Tấn Sang đã gặp gỡ Bộ trưởng Thương Mại Mỹ Penny Pritzker, Bộ
trưởng Nông Nghiệp Tom Vilsack và Đại diện Thương mại Michael Froman. Trưa 24/7
tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, chủ tịch Trương Tấn Sang dự tiệc trưa do Ngoại trưởng
John Kerry khoản đãi. Trong tất cả các dịp gặp gỡ này ông Sang chú trọng về
thương mại trong phát biểu của mình, đặc biệt kêu gọi Hoa Kỳ sớm nhìn nhận Việt
Nam là một nền kinh tế thị trường đầy đủ, mở cửa thị trường cho hàng hóa Việt
Nam tránh lập ra những rào cản thương mại. Riêng về Hiệp định đối tác Xuyên
Thái Bình Dương, Chủ tịch VN mong muốn phải là một hiệp định cân bằng vì các
mục tiêu phát triển và tính đến tính đa dạng về trình độ phát triển của các
thành viên. Ông Trương Tấn Sang nhấn mạnh:
“Hoa Kỳ giờ đây là đối tác kinh tế thương mại hàng đầu và
cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam chúng tôi. Tiềm năng trong
hợp tác về khoa học công nghệ giáo dục y tế cũng ngày được phát huy một cách có
hiệu quả hơn. Hai nước chúng ta tiếp tục duy trì các cuộc đối thoại về các vấn
đề cùng quan tâm, trong đó có vấn đề quyền con người thông qua các cuộc đối
thoại chúng ta hiểu nhau hơn, nhất là về cách tiếp cận cũng như những đặc thù về
văn hóa, lịch sử của mỗi bên”.
Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ
John Kerry và Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang (T) tại Bộ Ngoại giao ở Washington,
DC trưa 24/7/2013
Ý định thực sự của Bộ Chính trị giao phó cho Chủ tịch
Trương Tấn Sang với chuyến Mỹ du được công luận bàn tán sôi nổi. Nhưng ngay cả
các chuyên gia nổi tiếng thì cũng chỉ có thể bình luận dự đoán dựa vào thời sự.
Với bản tuyên bố chung sau cuộc hội đàm tay đôi Barack Obama-Trương Tấn Sang
tại Nhà Trắng, giới quan sát cho thấy cảm giác rõ rệt là Việt Nam và Hoa Kỳ
đang xích lại gần nhau.
Áp lực về vấn đề nhân quyền trong giới lập pháp Hoa Kỳ
cũng như cộng đồng người Việt ở Hải ngoại và giới trí thức trong nước là rất
lớn. Nhưng Việt Nam giữa chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Trương Tấn Sang, vẫn tiếp
tục đàn áp giới Blogger và những người bất đồng chính kiến.
Bề nổi chuyện thương mại là chính, nhưng Chủ tịch Việt
Nam tìm kiếm điều gì ẩn chứa phía sau? Một số nhận định ám chỉ là tìm một sự
cân bằng, giảm bớt ảnh hưởng của Trung Quốc mà Việt Nam lúc nào cũng bị chiếc
vòng kim cô xiết chặt trên đầu. Điển hình là những thỏa thuận mà ông Trương Tấn
Sang ký kết với ông Tập Cận Bình tại Bắc Kinh cách nay chỉ 1 tháng rưỡi.
GS Nguyễn mạnh Hùng, giảng dạy tại Đại học George Mason
tiểu bang Virginia Hoa Kỳ phát biểu với Đài ACTD về tính cách chuyến Mỹ du của
Chủ tịch Trương Tấn Sang:
“Tôi nghĩ chuyến đi tương đối gấp rút và có lẽ đó là ý
vọng của Việt Nam nhiều hơn và ông Obama cũng đáp ứng với cái ý vọng đó. Bởi vì
ông cũng không muốn Trung Quốc tính toán sai lầm có thể gây ra những mâu thuẫn
gọi là cái nẩy sảy cái ung.”
Nhân quyền không quan trọng?
Khi Chủ tịch Trương Tấn Sang gặp Tổng thống Barack Obama
vào sáng ngày 25/7, thì vòng đàm phán thứ 18 Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) giữa đại diện 12 quốc gia ở Malaysia vừa kết thúc. Vòng 19 sẽ được
tổ chức từ 22 đến 30/8 sắp tới tại Brunei.
Dĩ nhiên sẽ còn nhiều vòng đàm phán nữa với kỳ vọng đạt
thỏa thuận trước cuối năm nay. Hoa Kỳ và Việt Nam là 2 quốc gia thể hiện quyết
tâm mong muốn TPP trở thành hiện thực bên cạnh 10 quốc gia khác. Khi TPP có
hiệu lực nó là một khu vực mậu dịch tự do từ Úc châu qua một phần Á châu sang
Mỹ châu, nơi đóng góp 40% GDP toàn cầu. Hãng tin Reuters mô tả TPP là một phần
chiến lược xoay trục về Châu Á, trong đó có khu vực Đông Nam Á, của Tổng thống
Hoa Kỳ Obama. Sự kiện được cho là để cân bằng thế lực đang trỗi dậy của Trung
Quốc.
“Tôi nghĩ chuyến đi tương đối gấp rút và có
lẽ đó là ý vọng của Việt Nam nhiều hơn và ông Obama cũng đáp ứng với cái ý vọng
đó”.
GS Nguyễn Mạnh Hùng
Hãng tin AP của Mỹ trích lời GS Carl Thayer một chuyên
gia về Việt Nam của các học viện ở Úc dự đoán, nội dung thảo luận giữa ông Obama
và ông Sang sẽ khá tế nhị về vấn đề nhân quyền và đây không phải là một nội
dung quan trọng. Điều này đã trở thành hiện thực, như chúng tôi đã nói lúc đầu.
Theo GS Carl Thayer, Tổng thống Obama quan tâm tới lợi ích lớn nhất đó là làm
sao tạo thêm nhiều việc làm cho dân Mỹ, tiêu thụ được nhiều hàng hóa Mỹ ở châu
Á và đây là vấn đề cốt lõi.
Như vậy chuyến đi Mỹ của ông Trương Tấn Sang có thể được
gọi là “tiện cả đôi bề,” Mỹ kỳ vọng TPP sớm hiện thực để đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hóa vào các nước TPP trong đó có Việt Nam, còn Việt Nam thực hiện hội nhập
trong nỗ lực tìm kiếm đồng minh.
Mở rộng thị trường về nguyên tắc là tốt, nhưng câu hỏi
đặt ra là Việt Nam còn muốn thêm gì ở phiá Hoa Kỳ, khi mà thương mại 2 chiều
năm 2012 đạt gần 25 tỷ USD, nhưng Mỹ thâm hụt thương mại với Việt Nam tới
15.6 tỷ USD. Trong khi đó Việt Nam lại nhập siêu từ Trung Quốc tới 16.7 tỷ USD.
Nếu giảm nhập siêu với Trung Quốc và cân bằng cán cân mậu dịch với Mỹ thì là
một câu chuyện đẹp như mơ như một số ý kiến mà chúng tôi ghi nhận.
Theo VnExpress tại cuộc Hội thảo tổ chức ngày 3/4/2013
tại Hà Nội, các chuyên gia Nhà nước cũng như chuyên gia độc lập cùng nhìn nhận
rằng kinh tế Việt Nam đi xuống sau 5 năm gia nhập WTO. Tăng trưởng kinh tế
trong giai đoạn này kém hơn 5 năm trước khi gia nhập WTO cả về tốc độ lẫn chất
lượng. Đặc biệt trong giai đoạn 2007-2010, hiệu quả kinh tế còn suy giảm mạnh.
Nói lên điều này để thấy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam đã không cải cách đủ để có thể vận hành theo nguyên tắc thị trường.
Thách thức về tự do mậu dịch khi Việt Nam mở cửa thị trường theo thỏa thuận TPP
có thể còn lớn hơn rất nhiều so với cam kết WTO.
TS Võ Trí Thành, Viện phó Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế
Trung ương từ Hà Nội nhận định:
“Để phát triển thì hội nhập là con đường tất yếu mặc dù
nó chưa phải là đủ để cho phát triển bền vững được, mà phải gắn với những cải
cách, gắn với những điều chỉnh cần thiết cả ở mức doanh nghiệp cả ở mức chính
sách. Đấy là cái chung, nói cụ thể hơn Việt Nam và nhiều nước đang phát triển,
hiểu được giá trị hội nhập, hiểu được những tác động bất lợi cả về những góc độ
có thể là kinh tế vĩ mô hoặc liên quan đến vấn đề phát triển sống còn của doanh
nghiệp, đàng sau là công ăn việc làm và thu nhập.”
Vào thời điểm trước khi ông Trương Tấn Sang đi Mỹ, Theo
báo chí Việt Nam, nhiều cuộc hội thảo về triển vọng TPP diễn ra ở Hà Nội và
Saigon. Nhưng chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đều tỏ ra dè dặt
trước những thách thức mà TPP đem lại bên cạnh những quyền lợi mà để có nó cũng
rất khó. Khi TPP hiện thực, Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường cho hàng hóa
các nước nội khối, cụ thể là Mỹ với thuế quan ưu đãi. Nếu trái cây Việt Nam vào
Mỹ dễ hơn, thì ngược lại thịt gà, thịt heo, thịt bò, sản phẩm sữa của Mỹ có khả
năng đánh bẹp sản phẩm nội địa.
Nếu bề nổi chuyến đi Trương Tấn Sang là hiệp định TPP,
thì hy vọng ông được hứa hẹn sự nhân nhượng từ phía Hoa Kỳ. Tuy vậy người dân
Việt Nam lại có thể nhìn thấy một lợi ích đường dài, đó là càng hội nhập thì
Việt Nam càng chịu nhiều sức ép về cải cách.
*****
Quốc tế đánh giá cao quan hệ toàn diện Việt Nam-Mỹ
Vietnam Plus
- 26/07/2013
Tổng thống Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ Barack Obama đón và hội đàm với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang - Ảnh:
Nguyễn Khang/TTXVN
Chuyến thăm
chính thức của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Hoa Kỳ và đặc biệt là việc hai
nước tuyên bố nâng tầm quan hệ lên đối tác toàn diện đã thu hút được sự chú ý
của giới quan sát.
Chuyên gia Enrnest Bower, cố vấn cấp cao, đồng thời là chuyên gia nghiên cứu về Đông Nam Á của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược quốc tế (CSIS), đã nhận định đây là ngày đẹp nhất của mối quan hệ giữa hai quốc gia.
Trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN tại Wasington, ông Bower nêu rõ chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và những phát biểu của nguyên thủ hai nước cho thấy Việt Nam và Hoa Kỳ đã có lòng tin để xây dựng hợp tác, đưa quan hệ song phương lên một tầm cao mới.
Theo ông Bower, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ trong tương lai có thể đạt được nhiều tiến bộ trên nhiều mặt từ kinh tế tới an ninh, là bước đi đưa hai nước trở thành đối tác chiến lược toàn diện trong tương lai. Phát biểu dựa trên kinh nghiệm 25 năm nghiên cứu quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ, chuyên gia Bower khẳng định đây là "ngày đẹp nhất" trong quan hệ hai nước.
Cũng nhân dịp này, nguyên Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Michael Michalak nhận xét mối quan hệ giữa hai nước trong những năm qua phát triển tốt đẹp và sắp tới sẽ còn tốt đẹp hơn. Theo ông Michalak, đối tác toàn diện là tầm hợp tác cần phải có giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang là bước đi mở đường, bước tiếp theo là xác định nội hàm của mối quan hệ toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ.
Là một chuyên gia về chính trị quan hệ quốc tế của Đại học George Mason, bang Virginia (Hoa Kỳ), giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng cũng đánh giá hợp tác Việt Nam-Hoa Kỳ lần này đã đạt một bước tiến mới. Dù chưa phải là đối tác chiến lược toàn diện, nhưng khác với trước đây chỉ nói nâng tầm, lần này quan hệ hai bên đã chính thức được xác định ở mức "toàn diện."
Về tác động của khuôn khổ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, các chuyên gia có cùng nhận định đây sẽ là bước tiến lớn mang lại những kết quả tích cực cho hai nước nói riêng và cả khu vực nói chung.
Theo chuyên gia Enrnest Bower, Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình dương (TPP) hoàn tất sẽ tạo ra "cú hích" cho kinh tế. Xuất khẩu và đầu tư giữa hai nước sẽ phát triển vượt bậc. TPP sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ bước vào thị trường Việt Nam cũng như giúp Việt Nam tiếp cận mạnh hơn nữa các thị trường khác nằm trong khối. Ông cũng khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh để sẵn sàng đón nhận cơ hội lớn này.
Trong khi đó, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đánh giá một tiến trình hợp tác thực chất sẽ giúp cả Hoa Kỳ và Việt Nam cùng đạt được mục tiêu "duy trì ổn định và hòa bình trong khu vực"./.
Chuyên gia Enrnest Bower, cố vấn cấp cao, đồng thời là chuyên gia nghiên cứu về Đông Nam Á của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược quốc tế (CSIS), đã nhận định đây là ngày đẹp nhất của mối quan hệ giữa hai quốc gia.
Trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN tại Wasington, ông Bower nêu rõ chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và những phát biểu của nguyên thủ hai nước cho thấy Việt Nam và Hoa Kỳ đã có lòng tin để xây dựng hợp tác, đưa quan hệ song phương lên một tầm cao mới.
Theo ông Bower, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ trong tương lai có thể đạt được nhiều tiến bộ trên nhiều mặt từ kinh tế tới an ninh, là bước đi đưa hai nước trở thành đối tác chiến lược toàn diện trong tương lai. Phát biểu dựa trên kinh nghiệm 25 năm nghiên cứu quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ, chuyên gia Bower khẳng định đây là "ngày đẹp nhất" trong quan hệ hai nước.
Cũng nhân dịp này, nguyên Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Michael Michalak nhận xét mối quan hệ giữa hai nước trong những năm qua phát triển tốt đẹp và sắp tới sẽ còn tốt đẹp hơn. Theo ông Michalak, đối tác toàn diện là tầm hợp tác cần phải có giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang là bước đi mở đường, bước tiếp theo là xác định nội hàm của mối quan hệ toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ.
Là một chuyên gia về chính trị quan hệ quốc tế của Đại học George Mason, bang Virginia (Hoa Kỳ), giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng cũng đánh giá hợp tác Việt Nam-Hoa Kỳ lần này đã đạt một bước tiến mới. Dù chưa phải là đối tác chiến lược toàn diện, nhưng khác với trước đây chỉ nói nâng tầm, lần này quan hệ hai bên đã chính thức được xác định ở mức "toàn diện."
Về tác động của khuôn khổ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, các chuyên gia có cùng nhận định đây sẽ là bước tiến lớn mang lại những kết quả tích cực cho hai nước nói riêng và cả khu vực nói chung.
Theo chuyên gia Enrnest Bower, Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình dương (TPP) hoàn tất sẽ tạo ra "cú hích" cho kinh tế. Xuất khẩu và đầu tư giữa hai nước sẽ phát triển vượt bậc. TPP sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ bước vào thị trường Việt Nam cũng như giúp Việt Nam tiếp cận mạnh hơn nữa các thị trường khác nằm trong khối. Ông cũng khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh để sẵn sàng đón nhận cơ hội lớn này.
Trong khi đó, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đánh giá một tiến trình hợp tác thực chất sẽ giúp cả Hoa Kỳ và Việt Nam cùng đạt được mục tiêu "duy trì ổn định và hòa bình trong khu vực"./.
TTXVN