Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

4. Tranh chấp Biển Đông: Những tính toán chiến lược và triển vọng giải quyết xung đột

Email In PDF.
Nếu như lãnh thổ nước Đức là chiến tuyến trong thời kỳ Chiến tranh lạnh thì Biển Đông cũng có thể trở thành giới tuyến quân sự trong những thập kỷ tới. Xét về thực chất, đã xuất hiện một cuộc đối đầu không trực diện giữa Trung Quốc và Mỹ trên Biển Đông.
Những nét khái quát
“Nếu như lãnh thổ nước Đức là chiến tuyến trong thời kì Chiến tranh lạnh thì Biển Đông cũng có thể trở thành giới tuyến quân sự trong những thập kỷ tới. Ngày nay thế giới đa cực là một đặc điểm của ngoại giao và kinh tế nhưng Biển Đông có thể sẽ cho thấy một cách nhìn khác về khái niệm đa cực” – Robert Kaplan, chuyên gia hàng đầu của Mỹ về các vấn đề chiến lược.
“Về thực chất đã xuất hiện một cuộc đối đầu không trực diện giữa Trung Quốc và Mỹ trên Biển Đông” – Tướng Li Qing Long, Phó Chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu Chính sách An ninh Quốc gia Trung Quốc.
“Nếu các nước không muốn thay đổi cách hành xử  của họ với Trung Quốc, họ cần phải chuẩn bị sẵn sàng để nghe âm thanh của đại bác. Đó có thể là cách duy nhất để giải quyết những tranh chấp trên vùng biển này” – Bình luận của Hoàn Cầu Thời Báo, tờ báo của cơ quan truyền thông nhà nước Trung Quốc, tháng 11 năm 2011.
An ninh và sự ổn định của Châu Á – Thái Bình Dương trong thế kỷ 21 bị đe dọa một cách nghiêm trọng bởi việc xây dựng lực lượng quân sự quá mức cần thiết của Trung Quốc mặc dù không hề có những mối đe dọa rõ ràng đối với an ninh của quốc gia này. Khát vọng muốn cân bằng chiến lược với Mỹ ở cả sân chơi quyền lực toàn cầu lẫn ưu thế chiến lược vượt trội tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã trở thành động lực cho Bắc Kinh.
Chính vì vậy, hậu quả tất yếu có thể thấy là các tranh chấp trên Biển Đông một lần nữa lại nóng lên với những diễn biến leo thang do chính sách "bên miệng hố chiến tranh" đầy khiêu khích của Trung Quốc, việc sử dụng sức mạnh quân sự và chính trị  để cưỡng ép các quốc gia Đông Nam Á nhỏ và yếu hơn về mặt quân sự, những nước đang bị Trung Quốc thách thức về yêu sách chủ quyền.
Các tranh chấp trên Biển Đông giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á vốn đã tồn tại từ nhiều thập kỷ, nay càng nóng lên từ năm 2008-2009, nhất là sau khi Trung Quốc tuyên bố Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” và sẵn sàng tiến hành chiến tranh để bảo vệ vùng chủ quyền mà nước này yêu sách. Những khẳng định này của Trung Quốc không gây ngạc nhiên cho cộng đồng quốc tế bởi nó đi kèm với những việc làm của Trung Quốc và khuynh hướng sử dụng xung đột để giải quyết tranh chấp lãnh thổ thay vì các sáng kiến giải quyết xung đột.
Tranh chấp Biển Đông ngày nay không chỉ còn là xung đột giữa Trung Quốc với các nước láng giềng ASEAN về các yêu sách mâu thuẫn ở Biển Đông nơi mà Trung Quốc khẳng định có chủ quyền lịch sử đối với toàn bộ Biển Đông, quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và những bãi đất nằm rải rác trong vùng biển này.
Các tranh chấp trên Biển Đông, đúng như Trung Quốc lo ngại, đã trở thành vấn đề quốc tế. Nếu gạt sang một bên những tuyên bố chủ quyền còn cần tiếp tục xem xét của các bên tranh chấp, vấn đề Biển Đông nay đã được nâng tầm trở thành những quan ngại toàn cầu đối với việc “bảo vệ cáctài sản chung toàn cầu”; “tự do đi lại ngoài khơi”; “sử dụng không hạn chế các tuyến đường biển quốc tế”. Vì vậy những tranh chấp hiện nay đã chuyển từ xung đột lợi ích giữa Trung Quốc với ASEAN thành tranh chấp giữa Trung Quốc với Mỹ và với cả cộng đồng quốc tế, các bên có lợi ích liên quan đối với việc sử dụng không hạn chế các tuyến hàng hải quốc tế ở Biển Đông.
Về mặt địa - chiến lược thì Biển Đông không phải là “vùng biển nội địa của Trung Quốc”. “Về mặt chiến lược và quân sự thì Biển Đông có vị trí then chốt trong việc kiểm soát không chỉ Đông Nam Á mà còn có thể kiểm soát cả khu vực Nam và Đông Á”
Với tầm quan trọng chiến lược như vậy, việc mở rộng tuyến đường biển ra toàn bộ khu vực Tây Thái Bình Dương tạo ra các tình huống cạnh tranh sức mạnh giữa Mỹ và Trung Quốc. Tây Thái Bình Dương bao gồm cả vùng Biển Đông nơi mà Mỹ vẫn có ưu thế vượt trội cho đến nay. Nước Mỹ chưa hề có ý định sẽ từ bỏ ưu thế chiến lược này.
Tây Thái Bình Dương cũng có vai trò quan trọng đối với Trung Quốc trong trường hợp nước này muốn phá vỡ thế bao vây quân sự của hải quân Mỹ. Các xung đột trên Biển Đông gia tăng một phần cũng bắt nguồn từ cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung.
Chính sách “bên miệng hố chiến tranh” hiếu chiến của Trung Quốc đối với các xung đột ở Biển Đông gia tăng chủ yếu trong hai thập niên Mỹ lơ là chiến lược đối với Tây Thái Bình Dương, do bị phân tán lược lượng quân sự tại Balkans, Afganistan và Iraq. Điều này đã tạo điều kiện cho Trung Quốc xây dựng lực lượng hải quân nhanh chóng mà không bị Mỹ ngăn cản. Chính việc hiện đại hóa quân đội và hải quân đang được thể hiện trong các xung đột Biển Đông ngày nay.
Thêm vào đó, tư tưởng “phòng tránh rủi ro” và “chiến lược phòng ngừa Trung Quốc” của Mỹ là những nhân tố khiến Trung Quốc tin rằng các hành vi gây hấn trên Biển Đông của nước này sẽ không bị Mỹ thách thức.
Những động thái gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông không chỉ tập trung để chiếm hữu nguyền tài nguyên hyđrô-cácbon khổng lồ dưới đáy Biển Đông. Trung Quốc có những mục tiêu chiến lược trong việc leo thang xung đột Biển Đông, cần phải đặt trong bối cảnh Đại chiến lược của Trung Quốc để hiểu.
Đại chiến lược của Trung Quốc có hai mục tiêu lớn nhất quyết định chiến lược ở Biển Đông, đó là, (1) Buộc Mỹ phải ra khỏi Đông Á và Tây Thái Bình Dương bằng cách gây hao mòn chiến lược và chính trị hoặc đẩy Mỹ vào tình thế bị động chiến lược bằng chính sách bên miệng hố chiến tranh hiếu chiến trên tất cả các vùng biển Tây Thái Bình Dương; (2) Tăng cường sức mạnh hải quân Trung Quốc để thu hẹp khoảng cách với ưu thế hải quân vượt trội của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Mục tiêu rộng hơn là tạo ra khả năng triển khai lực lượng không chỉ ở vùng duyên hải của Trung Quốc mà còn cả ở Ấn Độ Dương.
Đại chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông xoay quanh ba trụ cột, đó là: (1) Đánh phủ đầu/chống lại/cản trở việc quốc tế hóa những tranh chấp trên Biển Đông bằng mọi giá; (2) Chia rẽ đoàn kết ASEAN nhằm ngăn chặn khu vực hóa những tranh chấp này; (3) Duy trì các tranh chấp trên Biển Đông luôn ở mức độ áp lực vừa phải để Mỹ không thể trực tiếp can thiệp quân sự, nhưng vẫn đủ để gây sức ép chiến lược.
Tiềm ẩn trong chính sách “bên miệng hố chiến tranh”  là nguy cơ tính toán sai lầm hoặc đi quá xa của Trung Quốc trong những động thái chiến lược tại Biển Đông, và do đó có thể sẽ châm ngòi những xung đột vũ trang. Hiển nhiên đến một mức độ nào đó, Mỹ sẽ buộc phải can thiệp để bảo vệ ưu thế chiến lược ở Châu Á – Thái Bình Dương và bảo vệ an ninh cho các đồng minh quân sự của mình cũng như bảo vệ những mối quan hệ chiến lược mới trong khu vực.
Đây là khuôn khổ chiến lược mà các xung đột Biển Đông phải được nhìn nhận trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21. Ngày nay, kinh tế và an ninh năng lượng dường như chỉ là thứ yếu. Các yếu tố chiến lược giờ có thể làm lu mờ những tranh cãi về pháp lý và chủ quyền trên khu vực Biển Đông.
Bài viết này nghiên cứu những tác động chiến lược nảy sinh từ tranh chấp Biển Đông cả ở cấp độ toàn cầu lẫn khu vực.
Thông thường thì những tác động chiến lược đối với khu vực sẽ được nghiên cứu trước, và sau đó là những tác động của chúng tới sân chơi quyền lực toàn cầu. Trong bài này, những tác động chiến lược ở cấp độ toàn cầu sẽ được đem ra bàn thảo trước bởi có lý do cho thấy rằng những hệ lụy chiến lược toàn cầu đang ngày càng trở nên quan trọng hơn và những hệ lụy đối với khu vực có thể gộp chung vào với những hệ lụy toàn cầu.
Tranh chấp Biển Đông: những tác động chiến lược toàn cầu
Những tranh chấp trên Biển Đông ngày nay không chỉ là vấn đề của khu vực Đông Á, Tây Thái Bình Dương và châu Á – Thái Bình Dương nữa. Chuỗi những diễn biến trong tranh chấp trên Biển Đông đã đưa vấn đề vượt ra ngoài phạm vi khu vực, thu hút sự quan tâm của các chủ thể quốc tế có liên quan đến những tranh chấp này.
Sự chia rẽ trong nội bộ các nước Đông Á và việc các nước này không đủ tiềm lực quân sự để có thể ngăn chặn dù là những động thái gây hấn nhỏ nhất của Trung Quốc trên Biển Đông đã mở đường cho các chủ thể bên ngoài bước chân vào khu vực và đứng về phía các quốc gia xung quanh Trung Quốc. Mỹ chính là cường quốc đối trọng và Nhật Bản cùng với Ấn Độ có thể xem là những đối tác giúp Mỹ gia tăng uy thế tại Châu Á – Thái Bình Dương, kiềm chế chính sách “bên miệng hố chiến tranh” không giới hạn của Trung Quốc.
Nga, một cường quốc Châu Á – Thái Bình Dương. cũng tham gia vào để thực hiện mục tiêu này. Nga đã tuyên bố xoay trục chiến lược về Châu Á – Thái Bình Dương, tuy nhiên vấn đề thời điểm và các ý định của Nga vẫn còn đang được tranh cãi.
Trong ván cờ ở Biển Đông hiện nay không chỉ có những hành động rõ ràng của Mỹ nhằm hạn chế Trung Quốc mà còn có những động thái thăm dò đầu tiên của Nhật Bản và Ấn Độ để đối phó với Trung Quốc về mặt chính trị nếu không phải là quân sự.
Chính sách “bên miệng hố chiến tranh” của Trung Quốc và việc sử dụng vũ lực trong các cuộc xung đột Biển Đông đã làm gia tăng quan ngại của Châu Á về sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Trung Quốc không phải là thành viên có trách nhiệm đối với an ninh và ổn định ở Châu Á - đây là quan niệm đã bắt đầu bén rẽ trong nhận thức của các nước Châu Á. 
Đây là một chủ đề rất lớn do đó chỉ những tác động chiến lược toàn cầu quan trọng nhất của tình trạng leo thang tranh chấp Biển Đông mới được đề cập. Các tác động này bao gồm:
  • - Xung đột Biển Đông dẫn đến phân cực Châu Á và thúc đẩy một cấu trúc cân bằng quyền lực mới ở Châu Á – Thái Bình Dương
  • - Tác dụng phụ lớn nhất của xung đột Biển Đông: Tây Thái Bình Dương không còn “Thái Bình” nữa
  • - Các phản ứng của quốc tế đối với chính sách “bên miệng hố chiến tranh” ngày càng leo thang của Trung Quốc trên Biển Đông
  • - Tác động chiến lược nổi bật nhất: Trung Quốc gây ra một cuộc Chiến tranh lạnh mới ở Châu Á – Thái Bình Dương
Xung đột Biển Đông dẫn đến phân cực Châu Á và thúc đẩy cấu trúc cân bằng quyền lực mới ở Châu Á – Thái Bình Dương
Sự phân cực chiến lược Châu Á ngày nay được thúc đẩy bởi các quan điểm xung đột và đối kháng của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông. Cùng với sự phân cực Châu Á này là sự xuất hiện các cấu trúc ‘cân bằng quyền lực’ mới ở Châu Á – Thái Bình Dương.
"Tham vọng chiến lược của Trung Quốc về sự trỗi dậy của trật tự Châu Á trong đó Trung Quốc đóng vai trò trung tâm dường như chắc chắn sẽ thất bại nếu xét theo đánh giá chiến lược hiện nay về môi trường an ninh ở Châu Á. Sự thay đổi trong Đại chiến lược của Trung Quốc từ việc dựa vào  'sức mạnh mềm' chuyển sang triển khai 'sức mạnh cứng' dường như đã tạo ra một sự phân cực chiến lược ở Châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời củng cố nhận định về Mối đe doạ Trung Quốc bao trùm khắp khu vực."
Việc Trung Quốc đe doạ quân sự, gây sức ép cả về chính trị lẫn quân sự trong tranh chấp Biển Đông với các nước láng giềng ASEAN - những nước trong hàng thập kỷ đã cùng nỗ lực hợp tác với Trung Quốc thông qua các cơ chế đối thoại của ASEAN - không những đã phản bội niềm tin của ASEAN, mà còn xói mòn uy tín của Trung Quốc trong việc trở thành nước láng giềng có trách nhiệm và yêu chuộng hoà bình đối với các nước ASEAN.
Nhìn từ góc độ lịch sử, Châu Á - Thái Bình Dương đã chứng kiến nhiều hình mẫu 'cân bằng quyền lực' khác nhau trong quá khứ. Tuy nhiên, sự can thiệp quân sự của Mỹ vào khu vực Balkans thập niên 1990 hay Afghanistan và Iraq những năm 2000 đã gây xáo trộn hiện trạng 'cân bằng quyền lực' ở khu vực. Khoảng trống chiến lược đó đã tạo cơ hội cho Trung Quốc đẩy mạnh quân sự một cách nhanh chóng mà không gặp phải sự cản trở của Mỹ
Tranh chấp Biển Đông nóng lên từ giai đoạn cuối năm 2009 và những tác động chiến lược của vấn đề này đã hối thúc Mỹ xoay trục tới Châu Á - Thái Bình Dương, tìm cách khôi phục cán cân quyền lực khu vực vốn đang bị Trung Quốc xáo trộn.
Năm 2013, Châu Á - Thái Bình Dương đang chứng kiến sự nổi lên của một cấu trúc 'cân bằng quyền lực' mới ở khu vực. Nhìn chung, công thức của Mỹ để thực hiện mục tiêu này bao gồm: (i) củng cố các liên minh quân sự hiện có tại Đông Bắc Á dựa vào các nước đồng minh như Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines; (ii) khắc phục khoảng trống trong liên kết an ninh với các quốc gia ven  Biển Đông bằng cách đẩy quan hệ chiến lược với Việt Nam và Indonesia, tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Độ, và khai thông quan hệ với Myanmar.
"Kết luận lại có thể thấy những điều mà Mỹ nhiều năm trước đây không làm được là chia rẽ Châu Á - Thái Bình Dương nhằm chống lại mối đe dọa tiềm tàng Trung Quốc thì chính những chính sách hung hăng của Trung Quốc trong bước đầu thiếu kiên nhiễn nhằm thể hiện sức mạnh quân sự mới của mình dường như đã góp phần tạo ra một sự phân cực chiến lược đáng kể ở khu vực theo chiều hướng bất lợi cho Trung Quốc."
Tác dụng phụ lớn nhất của Tranh chấp Biển Đông: Tây Thái Bình Dương sẽ không còn  Thái Bình"
Khu vực Tây Thái Bình Dương là nơi có các mối đan xen dày đặc nhất về lợi ích chiến lược và cạnh tranh quyền lực giữa Trung Quốc và Mỹ.  Đây cũng là nơi đan xen mối quan hệ cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Nhật Bản và đối đầu giữa Trung Quốc với Việt Nam và Philippines trong tranh chấp Biển Đông. Ở mức độ ngày càng gia tăng, Mỹ sẽ quan tâm nhiều hơn đến các tranh chấp khu vực giữa các nước với Trung Quốc. Mỹ chắc chắn không thể 'cô lập chiến lược' đối với các vấn đề an ninh chủ chốt ở khu vực Tây Thái Bình Dương. Bởi nếu như thế Mỹ có thể chịu rủi ro khi chứng kiến sự tan rã của cấu trúc an ninh khu vực. Cuối cùng thì Mỹ bắt buộc thực thi chính sách ngăn chặn đối với Trung Quốc ở khu vực Tây Thái Bình Dương.
Trọng tâm của bất cứ chiến lược kiềm chế hay ngăn chặn nào của Mỹ đối với Trung Quốc là "Chuỗi đảo thứ nhất", chuỗi đảo mang tính chiến lược chạy gần như song song với vùng ven biển Đông Á tại khu vực Tây Thái Bình Dương.
Ý nghĩa chiến lược của dãy đảo này đối với Mỹ trong khu vực Tây Thái Bình Dương nằm ở những tính toán quân sự sau: (1) Tạo ra một vành đai bảo vệ nước Mỹ lục địa và cung cấp bàn đạp gần Trung Quốc trong trường hợp cần can thiệp quân sự, (2) Kết hợp giữa sự kế cận địa lý với Trung Quốc Đại lục và khả năng triển khai quân đội của Mỹ với các nước đồng minh, cho phép bao vây Trung Quốc bằng quân sự. (3) Cấu trúc chuỗi đảo này chỉ tồn tại vài con đường hẹp cho Hải Quân Trung Quốc thoát ra để tiến vào Thái Bình Dương
Điều đáng chú ý hơn đó là yêu sách của Trung Quốc đối với các thực thể đảo tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. Những thực thể đảo tranh chấp mà Trung Quốc đang chiếm đóng bất hợp pháp có thể là căn cứ giúp Trung Quốc triển khai lực lượng quân sự như một phần của chiến lược "ngăn chặn" đối với sự can thiệp hải quân và không quân Mỹ.
Khu vực Tây Thái Bình Dương có thể sẽ trở thành điểm bùng nổ xung đột giữa Trung Quốc và Mỹ, nơi hai bên khai hỏa những phát súng đầu tiên, trừ khi những tiếng nói thông thái ở Trung Quốc chiếm ưu thế, giúp Trung Quốc hạ nhiệt chính sách "bên miệng hố chiến tranh" ngày càng leo thang tại Biển Đông.
Phản ứng Quốc tế đối với việc leo thang chính sách "bên miệng hố chiến tranh" của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông
Phản ứng quốc tế về chính sách "bên miệng hố chiến tranh" của Trung Quốc ở Biển Đông được minh hoạ rõ nhất trong các bài phát biểu tại Đối thoại Shangri-La tháng 6 năm 2012 ở Singapore. Chủ đề chung xuyên suốt của các bài phát biểu này đó là cộng đồng quốc tế và các cường quốc cam kết bảo đảm an ninh cho "các vùng chung toàn cầu" cũng như đối với "tự do biển cả", rằng không một nước nào có quyền tuyên bố những vùng đó là chủ quyền quốc gia. Ngoại trưởng Mỹ, Anh và Pháp nhấn mạnh rằng các nước này có cam kết đối với an ninh và ổn định tại khu vực Đông Nam Á.
Tranh chấp Biển Đông vì thế không phải là tranh chấp khu vực, và sự quan ngại quốc tế đối với những hành động của Trung Quốc nhằm áp đặt chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển và các thực thể đảo trong Biển Đông, cũng như cam kết của cộng đồng quốc tế đối với an ninh và ổn định khu vực Đông Nam Á đã gửi đến những thông điệp cảnh tỉnh choTrung Quốc. E ngại những phản ứng quốc tế như vậy, giới chức sắc cao cấp Trung Quốc đã lảng tránh vấn đề này.
Tác động chiến lược đáng chú ý nhất: Trung Quốc có thể gây ra một cuộc Chiến tranh Lạnh tại Châu Á - Thái Bình Dương.
Khả năng Trung Quốc gây ra một cuộc Chiến tranh Lạnh thứ hai tại Châu Á - Thái Bình Dương là chủ đề tôi đã trình bày vào khoảng đầu tháng 4 năm 2001, trong bài viết có nhan đề "Có phải Trung Quốc đang gây ra một cuộc chiến tranh lạnh thứ hai tại Châu Á: Những lựa chọn về chính sách của Mỹ".
Một số nhận định liên quan trong bài viết đó là: "Trung Quốc xem Mỹ là mối đe doạ hàng đầu và Trung Quốc đã nhìn nhận như vậy trong một khoảng thời gian. Về lâu về dài điều này sẽ khiến quan hệ Mỹ - Trung khá mong manh và không ổn định. Có phải chúng ta đang chứng kiến bước khởi đầu của một cuộc Chiến tranh Lạnh? Những nghi ngờ, lập luận, cũng như chính sách "bên miệng hố chiến tranh" của Trung Quốc trong các hành động chống lại Mỹ phần nào khơi gợi lại những tiến trình đã diễn ra với cuộc Chiến tranh lạnh trước đây."
Tiếp theo vào năm 2008, trong một bài viết khác có nhan đề "Trung Quốc gia tăng sức mạnh quân sự: Những tác động khu vực và toàn cầu", tôi đã cho rằng "diễn biến quan hệ Mỹ - Trung hiện nay đang đi theo chiều hướng của một cuộc Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, khác với cuộc Chiến tranh Lạnh trước đây, Chiến tranh Lạnh lần hai hoàn toàn trở thành một cuộc "chiến tranh nóng" giữa Mỹ và Trung Quốc đối với một loạt các điểm nóng xung đột trải dài khắp Châu Á và các vấn đề chiến lược khác."
Năm 2013 bức tranh thậm chí còn u ám hơn khi mà Trung Quốc gần như đang ở đỉnh cao của việc xây dựng lực lượng quân sự ngày càng tỏ ra bồn chồn và bất an trước chiến lược xoay trục Châu Á của Mỹ cũng như việc tạo dựng sự cân bằng quyền lực tại Châu Á - Thái Bình Dương. Sự leo thang xung đột tại Biển Đông là thách thức lớn nhất mà Trung Quốc có thể đặt ra cho Mỹ.
Tranh chấp Biển Đông: Những tác động chiến lược đối với khu vực
Tranh chấp/đối đầu/xung đột khu vực không xảy ra bên ngoài bối cảnh khu vực. Nó sẽ xảy ra trong bối cảnh an ninh đã tồn tại, hiện đang tồn tại và có khả năng sẽ xuất hiện trong tương lai gần. Do đó, tranh chấp Biển Đông cần phải được xem xét một cách tổng thể trong môi trường an ninh của khu vực Châu Á thế kỷ 21. Nhận thức đóng vai trò quan trong trong cả việc định hình môi trường an ninh, cũng như phạm vi  không gian dành cho những kẻ gây rối ở khu vực và các cường quốc theo chủ nghĩa xét lại đầy hiếu chiến.
Trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, sự hiếu chiến và chính sách "bên miệng hố chiến tranh" của Trung Quốc cần phải được đánh giá từ nhận thức của Trung Quốc đối với cam kết của Mỹ về an ninh và ổn định của ASEAN cũng như sự mơ hồ của Mỹ mà Trung Quốc có thể tiếp tục tận dụng để phục vụ mục tiêu chiến lược là kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Trung Quốc không mấy quan tâm đến sự nhạy cảm chiến lược của ASEAN vì biết rằng dù các nước ASEAN hợp sức lại vẫn không thể ngăn cản bước tiến của Trung Quốc trên Biển Đông
Xét về những tác động chiến lược khu vực gây ra bởi sức ép mạnh mẽ của Trung Quốc đối với các nước ASEAN, nhìn chung có một số điểm nổi bật cần chú ý như sau:
  • - Các quốc gia ASEAN bị kích động chạy đua vũ trang
  • - Sự đối đầu có chiều hướng xung đột của Trung Quốc trên Biển Đông dẫn đến việc Nhật Bản và Ấn Độ đẩy nhanh xây dựng quân sự
  • - Cộng đồng ASEAN thống nhất: một huyền thoại đang bị Trung Quốc phá vỡ
Cuộc chạy đua vũ trang của các quốc gia ASEAN bắt đầu 
Tuy muộn nhưng các nước ASEAN đã thức tỉnh trước một thực tế chiến lược rằng Mối đe doạ Trung Quốc đã hiện hữu, và bởi vì mối đe dọa Trung Quốc chủ yếu liên quan đến biển nên các nước ASEAN cần tập trung xây dựng năng lực răn đe cho lực lượng hải quân và hải giám của họ.
Trước khi Trung Quốc có những hành động leo thang trong xung đột Biển Đông thì các nước ASEAN có thể cho là tương đối thỏa mãn với việc xây dựng khả năng răn đe ở mức thấp nhất  về hải quân và không quân đối với Trung Quốc.
Chính vì vậy các quốc gia ASEAN, dù là bên tranh chấp hay không tranh chấp ở Biển Đông, đều có nhu cầu liên kết với nhau vì lý do đơn giản là vấn đề an ninh và ổn định của khu vực Đông Nam Á không thể tách rời. Do đó, hợp tác an ninh khu vực là mục tiêu chung cho ASEAN vì Trung Quốc đang trỗi dậy một cách ngày càng mạnh mẽ và hung hăng hơn.
Tác động đáng chú ý ở đây là không chỉ các nước ASEAN đang tăng cường năng lực quân sự mà những cường quốc khác có lợi ích đối với an ninh và ổn định ở Biển Đông có thể cũng tham gia vào quá trình xây dựng năng lực răn đe cho ASEAN.
Sự đối đầu có chiều hướng xung đột của Trung Quốc ở Biển Đông khiến Nhật Bản và Ấn Độ đẩy nhanh việc tăng cường sức mạnh quân sự
Lập trường gây xung đột của Trung Quốc không chỉ giới hạn ở Biển Đông - nước này cũng có những tranh chấp lãnh thổ và đối đầu quân sự với Nhật Bản và Ấn Độ. Chính sách bên miệng hố chiến tranh mạnh mẽ của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông đã tình cờ thức tỉnh Nhật Bản và Ấn Độ đánh giá lại khả năng ngăn chặn của những nước này trước một Trung Quốc với sức mạnh quân sự đang gia tăng.
Nhật Bản và Ấn Độ với những lợi ích không nhỏ đối với an ninh Châu Á đã sớm nhận ra rằng hai nước, riêng rẽ hoặc cùng nhau, cần tạo một đối trọng ở Châu Á trước sức mạnh quân sự đang gia tăng của Trung Quốc. Cả Nhật Bản và Ấn Độ đều chịu sự xâm chiếm và chính sách bên miệng hố chiến tranh trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.
Nhật Bản đã tiến hành những bước đi đầu tiên hướng tới sự tự chủ lớn hơn trong năng lực quốc phòng và khả năng ngăn chặn Trung Quốc. Chính sách bên miệng hố chiến tranh của Trung Quốc ở quần đảo Senkaku càng cho thấy năng lực quân sự độc lập với Mỹ là điều cần thiết với Nhật. Việc Trung Quốc kiểm soát hoàn toàn Biển Đông có thể dẫn đến sự kìm hãm về kinh tế và chiến lược đối với Nhật Bản, và Nhật Bản được kỳ vọng ngăn chặn viễn cảnh này xảy ra.
Nhật Bản cho đến nay vẫn bị Mỹ hạn chế trong việc áp dụng các chính sách cứng rắn đối với Trung Quốc. Trong xử lý với Trung Quốc, Nhật Bản phải gộp lợi ích an ninh quốc gia của chính nước này vào những vấn đề nhạy cảm chiến lược của Mỹ với Trung Quốc. Xung đột hậu Biển Đông và việc xung đột lan rộng tới Biển Hoa Đông buộc Nhật Bản không chỉ xem xét lại Hiến pháp Hòa bình của nước này mà còn phải tăng cường sức mạnh quân sự nhằm đối phó với Trung Quốc.
Ấn Độ cuối cùng đã thấu hiểu trò chơi không có giải pháp của Trung Quốc trong tranh chấp biên giới Tây Tạng mà Ấn Độ chiếm đóng và sự bao vây chiến lược của Trung Quốc với Ấn Độ. Nước này đã thức tỉnh trước những thách thức của hải quân Trung Quốc đang dần hiện thực hóa ở Ấn Độ Dương. Từ nhận thức đó, Ấn Độ hiện đang nổi lên như một bên liên quan đến vấn đề an ninh và ổn định ở Biển Đông.
Cả Ấn Độ và Nhật Bản gần đây bày tỏ mối quan tâm tích cực hơn đến xung đột Biển Đông và có một sự tương đồng chiến lược trong việc ‘bảo vệ các vùng chung toàn cầu.’ Việc tăng cường sức mạnh quân sự của Nhật Bản và Ấn Độ được trông đợi sẽ hình thành nên những đối trọng trước Trung Quốc ở hai bờ Biển Đông.
Đây có thể nguồn khích lệ đối với các nước ASEAN và thúc giục họ không nên giữ thái độ trung dung trong quan hệ với Trung Quốc nữa.
Sự đoàn kết tập thể của ASEAN: Huyền thoại bị Trung Quốc phá vỡ
Sở dĩ Trung Quốc bạo dạn trong việc đẩy mạnh chính sách bên miệng hố chiến tranh trong xung đột Biển Đông là bởi Trung Quốc hiểu không có sự đoàn kết tập thể trong ASEAN để đạt đượcvà hình thành một mặt trận thống nhất nhằm chống lại sự thúc ép của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Sự đoàn kết của ASEAN bị Trung Quốc phá vỡ tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN ở Phnom Penh tháng 6 năm 2012, khi Campuchia trong cương vị chủ tịch đã cản trở và thành công trong việc không đưa vấn đề Biển Đông vào Thông cáo Chung ASEAN, một tuyên bố sẽ chỉ trích rất nhiều các quan điểm gây xung đột của Trung Quốc ở Biển Đông.
Trung Quốc có thể ​​sẽ theo đuổi chiến lược gây chia rẽ các nước ASEAN với cường độ lớn hơn khi nước này ngày càng phải chịu nhiều sức ép từ cộng đồng quốc tế về giải pháp giải quyết xung đột trong tranh chấp Biển Đông.
Sự đoàn kết chung của ASEAN trước Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ sẽ tiếp tục là một huyền thoại không có thực vì một số nước ASEAN dễ bị Trung Quốc lôi kéo bằng những hứa hẹn đầu tư tài chính hấp dẫn. Một số quốc gia ASEAN không tranh chấp có quan điểm khác với các quốc gia tranh chấp trong việc đánh giá Trung Quốc và điều này sẽ làm tăng thêm sự mất đoàn kết của ASEAN và đem lại lợi thế cho Trung Quốc.
ASEAN, một thể chế khu vực nổi bật ở Đông Nam Á, đứng trước nguy cơ tan vỡ nếu một số nước thành viên của tổ chức này gục ngã trước chiến lược chia rẽ ASEAN của Trung Quốc.
Chúng ta không nên quên rằng ASEAN đã bị Trung Quốc lừa dối hai lần khi: (i) lợi dụng lòng tin của khối trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho nước này tham gia vào các diễn đàn đối thoại khác nhau của ASEAN và hy vọng rằng Trung Quốc theo đó trong mối quan hệ với ASEAN sẽ cư xử như một đối tác có trách nhiệm, và (ii) gây xung đột và hành xử quyết đoán đối với các quốc gia ASEAN trong tranh chấp Biển Đông.
Tranh chấp Biển Đông: Triển vọng về Giải quyết Xung đột
Các tiến trình giải quyết xung đột chủ yếu tập trung vào ba nhiệm vụ chính đó là: (1) Giảm bớt sự leo thang trong Cách Hành xử; (2) Thay đổi Thái độ/ Cách tiếp cận đối với Xung đột; và (3) Thay đổi mối quan hệ khi có các lợi ích đối lập.
Trung Quốc với thái độ cứng rắn và không khoan nhượng trong xung đột Biển Đông thể hiện trong các tuyên bố chính thức rằng quyền chủ quyền của của nước này đối với Biển Đông là "không thể đàm phán" đã chứng tỏ Trung Quốc chưa sẵn sàng cho các tiến trình giải quyết xung đột. Hơn nữa khi Trung Quốc coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” và để bảo vệ lợi ích cốt lõi này Trung Quốc sẵn sàng tiến hành chiến tranh đã cho thấy rõ ý đồ chiến lược của nước này.
Về triển vọng giải quyết xung đột trên Biển Đông, một học giả khác cho rằng có ba nhân tố thúc đẩy và phụ thuộc lẫn nhau để tiến tới một giải pháp công bằng và thỏa mãn được kỳ vọng các bên như sau: (1) Trung Quốc phải có thái độ kiềm chế trong các vấn đề gây xung đột ở Biển Đông; (2) ASEAN cần thể hiện tinh thần đoàn kết để tăng cường sức mạnh thương lượng tập thể của khối trước Trung Quốc và khả năng răn đe ở chừng mực nào đó; (3) Cam kết mạnh mẽ của Mỹ để đảm bảo chính sách miệng hố chiến tranh hiếu chiến của Trung Quốc bị kiềm chế trong xung đột Biển Đông.
Quan điểm chung đối với ba nhân tố này đó là khó có thể mong đợi Trung Quốc sẽ kiềm chế  trong xung đột Biển Đông bởi cách hành xử đã được thể hiện và những tuyên bố cứng rắn của nước này. Đối với sự đoàn kết của ASEAN, huyền thoại này sẽ bị phá vỡ hoàn toàn như đã phân tích ở trên. Trên thực tế, có khả năng Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc phân hóa nội bộ ASEAN.
Ngoại trừ Philippines, Mỹ không bị ràng buộc bởi bất kỳ mối quan hệ đồng minh an ninh nào với các nước ASEAN có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông. Cam kết duy nhất của nước này đối với xung đột Biển Đông là “bảo vệ các vùng chung toàn cầu” và “tự do hàng hải” và nhờ đó duy trì vị trí thống trị trên biển Tây Thái Bình Dương. Vẫn chưa rõ liệu Mỹ sẽ đi xa tới đâu trong việc bảo vệ các lợi ích chiến lược, thoát khỏi sự bó buộc của chiếc áo chính sách Trung Quốc chật hẹp mà nước này tự tạo ra như “Chiến lược Phòng ngừa Trung Quốc” và “Phòng tránh Rủi ro”.
Trong tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc với tư cách là một cường quốc khu vực, đã sử dụng tất cả các công cụ cưỡng ép để đạt được mục tiêu chiến lược đó là kiểm soát hoàn toàn quần đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa và thực thể đất liền nằm rải rác trên biển. Ngoài ra, Trung Quốc tuyên bố rằng nước này có đầy đủ chủ quyền đối với vùng biển xung quanh các quần đảo tranh chấp này.
Chiến lược “cơ bắp” của Trung Quốc đang vượt ra ngoài giới hạn với ASEAN để ngầm thách thức Hải quân Mỹ, Ấn Độ và các nước thăm dò dầu khí quốc tế. Hành động gây hấn của Trung Quốc hiện đã tiến xa hơn về phía Bắc, với Nhật Bản trên Biển Hoa Đông.
Trung Quốc tất nhiên không tránh khỏi việc đưa ra những quan điểm chính sách và các diễn giải gợi nhớ đến hình ảnh một "cường quốc xét lại” có ý định thay đổi trật tự hiện tại ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Câu hỏi quan trọng đặt ra là triển vọng lạc quan về giải pháp cho xung đột trong tranh chấp Biển Đông là gì. Trung Quốc đến giờ không đưa ra bất kỳ dấu hiệu thực chất nào về việc tham gia các sáng kiến ​​giải quyết xung đột hay thậm chí là tôn trọng luật pháp quốc tế/ các công ước hiện hành đối với những tranh chấp như vậy. Trung Quốc cứng nhắc cho rằng nước này chỉ sẵn sàng đối thoại song phương riêng lẻ với từng bên yêu sách. Điều này bản thân nó đã là một “rào cản” trước khi khởi động bất kỳ quá trình giải quyết xung đột nào, có ảnh hưởng rộng hơn đối với khu vực và quốc tế.
Kết Luận
Tranh chấp và xung đột Biển Đông từ khá lâu chỉ được xem xét dưới góc nhìn hẹp về tranh chấp tính hợp pháp và chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các thực thể nằm rải rác trên biển giữa một Trung Quốc độc đoán về quân sự và các bên yêu sách ASEAN yếu hơn.
ASEAN, với tổ chức khu vực quan trọng nhất của các quốc gia Đông Nam Á, đã bày tỏ mong muốn duy trì một mặt trận tập thể vững chắc trước Trung Quốc và ngăn nước này có hành động hiếu chiến đối với các quốc gia ven biển ASEAN trên Biển Đông. Tuy nhiên, sự chia rẽ kéo dài của ASEAN, do sự xếp đặt của Trung Quốc nhằm thúc đẩy các mục tiêu chiến lược của mình, cuối cùng có thể hủy hoại ASEAN.
Xung đột Biển Đông hiện nay chuyển hóa ở một mức độ chiến lược cao hơn khi khu vực này đang trở thành một bàn cờ, nơi diễn ra cuộc chơi quyền lực quốc tế và cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ về quyền kiểm soát Tây Thái Bình Dương.
Tuyên bố gần đây của Nga về chiến lược xoay trục Châu Á-Thái Bình Dương báo hiệu sự xuất hiện một người chơi mới, đầy sức mạnh trong khu vực có thể tác động đến hệ quả xung đột đang diễn ra.
Cam kết của Mỹ đối với ổn định và an ninh ở khu vực Biển Đông cần phải rõ ràng, đáng tin cậy và mạnh mẽ. Nếu Mỹ do dự đi theo hướng này vì cách tiếp cận theo kiểu "phòng tránh rủi ro" đối với Trung Quốc, Mỹ có thể thất bại trong việc can dự chiến lược ở Châu Á-Thái Bình Dương.
Xung đột Biển Đông dường như đang mở ra một cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, lần này là ở Châu Á-Thái Bình Dương. Cuộc Chiến tranh Lạnh mới, bắt nguồn bằng sự hiếu chiến và chính sách bên miệng hố chiến tranh của Trung Quốc, tuy không mang nền tảng ý thức hệ như trước đây nhưng bị chi phối bởi cuộc cạnh tranh chiến lược đang diễn ra để giành quyền bá chủ khu vực Tây Thái Bình Dương, được dự báo sẽ rất khốc liệt và đầy xung đột.
Tiến sĩ Subhash Kapila được mời tham dự Hội thảo Quốc tế về Biển Đông “Chủ quyền Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Khía cạnh Lịch sử và Pháp lý” tại trường Đại học Phạm Văn Đồng, Việt Nam, ngày 27-28/4, 2013. Bài tham luận được trình bày tại Hội thảo Quốc tế này và đăng trên trang “Eurasia Review”.
Người dịch: Anh Châu
Hiệu đính: Minh Ngọc