Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

26. Một số thách thức về kinh tế của EU thập niên đầu thế kỷ XXI

TCCSĐT - Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI (2000 - 2010), EU đã đạt được những thành tựu rất lớn trong việc xây dựng một liên minh kinh tế tiền tệ, xây dựng Hiến pháp chung. Đặc biệt, năm 2010 là năm đánh dấu giai đoạn 10 năm thực hiện Hiệp ước Lisbon nhằm hình thành một khuôn khổ phối hợp chính sách về chính trị, kinh tế, xã hội trong giai đoạn trung hạn 10 năm để đưa EU trở thành một khu vực kinh tế tri thức có khả năng cạnh tranh trên thế giới, có việc làm đầy đủ và sự liên kết xã hội rộng rãi hơn.


So với thời điểm bắt đầu thực hiện Hiệp ước Lisbon, EU ngày nay đã có nhiều thay đổi theo hướng lớn mạnh hơn, mở rộng hơn. Tuy nhiên, 10 năm đầu của thế kỷ XXI cũng chứng kiến những khó khăn, thách thức của EU cả trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội, điển hình là vẫn tồn tại những bất đồng quan điểm giữa các nước lớn trong những vấn đề chung của xã hội, nạn nhập cư, mất an ninh phi truyền thống, thất nghiệp, khủng hoảng nợ công... Những vấn đề này sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của EU trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI.
1. Khủng hoảng kinh tế cuối thập niên 2000
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong những năm cuối thập niêm 2000 đã làm mất mát một lượng tài chính rất lớn trên thị trường tài chính châu Âu. Theo đánh giá của IMF (tháng 4-2009), khủng hoảng đã làm mất khoảng 1.193 tỉ USD trên thị trường tài chính khu vực đồng Euro và Anh. Các ngân hàng của Anh mất khoảng 316 tỉ USD và các ngân hàng khu vực đồng Euro mất khoảng 1.109 tỉ USD trong năm 2009 do bị tác động tiêu cực của khủng hoảng. Khủng hoảng khiến tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trong năm 2008 chỉ ở mức 0,1%, năm 2009 ở mức -10,5%. Do hàng loạt công ty và các tổ chức tài chính ngân hàng bị phá sản, thất nghiệp của EU trong năm 2008 là 7%, năm 2009 là 9,4%.
Để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế, EU đã đưa ra một loạt các chính sách, trong đó có ba chính sách sau đây:
* Nhóm chính sách phòng ngừa khủng hoảng: Chính phủ các nước EU đã đưa ra một loạt các chính sách tài chính - tiền tệ để phòng ngừa khủng hoảng, ổn định tài chính vĩ mô như bảo đảm tăng trưởng tín dụng và giá nhà ở.
* Nhóm chính sách kiểm soát và giảm nhẹ tác động của khủng hoảng: Trong nhóm chính sách này, chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng. Các nước EU đều thực hiện các biện pháp mở rộng tiền tệ và tung ra những gói kích thích tài chính để hỗ trợ cho các ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Ngoài ra, một loạt các chính sách khác đuợc áp dụng như can thiệp vào thị trường sản xuất, thị trường lao động, hạn chế thất nghiệp
* Nhóm chính sách phối hợp giữa các nước thành viên: Sự phối hợp chính sách chống khủng hoảng giữa các nước thành viên EU được thực hiện thông qua Ủy ban giám sát EU, Thị trường chung đơn nhất, Chính sách cạnh tranh, Hội nghị G20, Chiến lược Lisbon, Hiệp ước Tăng trưởng và ổn định. Vào đầu năm 2010, EU chính thức lập quỹ chống khủng hoảng trị giá 750 tỉ Euro để giúp các nước trong khu vực gặp khó khăn về tài chính như Hy Lạp. Ngoài ra, sự phối hợp của EU còn được thể hiện thông qua chính sách phối hợp chống khủng hoảng nợ của Hy Lạp. Để đối phó với cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp, EU nhất trí thành lập một lực lượng đặc nhiệm nhằm xem xét các khả năng về cải cách kinh tế trong khối 27 nước này.
Mặc dù các nước EU đã nỗ lực hết sức để khắc phục khủng hoảng tài chính - kinh tế, nhưng cho đến cuối năm 2010 cuộc khủng hoảng này vẫn chưa có hồi kết. Nhiều dự báo khác nhau cho rằng kinh tế EU27 trong năm 2011 có thể sẽ đạt mức tăng trưởng 1,7% và kinh tế khu vực đồng Euro có thể sẽ đạt mức tăng trưởng 1,5% nhờ có sự phục hồi của nền kinh tế thế giới và những tác động tích cực của các biện pháp chống khủng hoảng của các nước EU.
2. Khủng hoảng nợ công, thâm hụt ngân sách và ảnh hưởng đến đồng Euro
Theo đúng nguyên tắc của SGP, châu Âu trong thập niên 2000 đã theo đuổi một mục đích rất rõ ràng: đẩy thâm hụt ngân sách xuống còn khoảng 3% GDP và giảm nợ công xuống mức 60% GDP.
Tuy nhiên, kể từ khi SGP được ban hành, EU hầu như không thực hiện đúng nguyên tắc trên. Rất khó để EU có thể vừa thực hiện chính sách kích thích tăng trưởng kinh tế, vừa thực hiện mục tiêu cắt giảm ngân sách trong điều kiện nền kinh tế EU gặp đầy rẫy những khó khăn như sản xuất đình đốn, thất nghiệp lan rộng và quỹ an sinh xã hội ngày càng mở rộng. Chính vì thế, nợ công và thâm hụt ngân sách không phải là vấn đề mới. Nó tồn tại ở EU ngay từ khi SGP ra đời và có dịp bùng phát mạnh mẽ trong khủng hoảng kinh tế do chính phủ các nước đưa ra những gói kích thích, cứu trợ kinh tế trị giá khổng lồ.
Khủng hoảng nợ công ở EU xuất phát từ Hy Lạp khi vào cuối năm 2009, Hy Lạp rơi vào tình trạng lâm nguy về tài chính công với thâm hụt ngân sách ở mức 13,9% GDP, vượt gấp 4 lần giới hạn cho phép của SGP.  Mức thâm hụt ngân sách này cùng với khoảng nợ công trị giá 236 tỉ Euro, chiếm 115% GDP của Hy Lạp trong năm 2009(1) đã gấp tới 2 lần quy định về nợ công trong SGP đã khiến Hy Lạp lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng ở Hy Lạp xảy ra khi các nước EU chưa phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh tế đã lan thành “đại dịch” và lan nhanh ra toàn châu lục, khiến một loạt nước EU khác lâm vào khủng hoảng nợ công. Sau một thập kỷ gần như đình trệ, tăng trưởng kinh tế của Bồ Đào Nha được dự báo là rất yếu (0,6% năm 2010 và 1,1% năm 2011). Thâm hụt ngân sách nhà nước lên đến 9,4% trong năm 2009. Nợ công cũng ở mức 76,6% GDP trong năm 2009 và có thể lên tới 84,6% trong năm nay. Chính phủ Bồ Đào Nha đang phải tìm cách ổn định khu vực tài chính công trong bối cảnh nợ và thâm hụt ngân sách nhà nước đã và đang làm xói mòn lòng tin của thị trường. Theo đánh giá của một số nhà kinh tế Mỹ, Bồ Đào Nha đang trong tình cảnh “giống Argentina năm 2001”.
Cùng với Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, từng tận hưởng hơn một thập kỷ kinh tế tăng trưởng nhanh và từ lâu vẫn được đánh giá là có một ngân sách cân bằng và mức nợ công thấp, hiện cũng đang đứng trước những khó khăn không dễ tháo gỡ do nền kinh tế mất đi sức cạnh tranh và tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt. Thâm hụt ngân sách của Tây Ban Nha lên tới 11,2% trong năm 2009 và có thể vẫn cao gấp ba mức trần của EU trong năm 2010. Chính phủ Tây Ban Nha đã chi quá nhiều cho phúc lợi thất nghiệp và các biện pháp kích thích kinh tế sau khủng hoảng.
Tình hình tại bốn nền kinh tế lớn ở châu Âu là Anh, Pháp, Italy và Đức cũng đáng lo ngại. Nợ công của Italy trong những tháng đầu năm 2010 vào khoảng 120,1% GDP, trong khi thâm hụt ngân sách của Anh ở mức gần 12% GDP. Pháp cũng phải tạm ngừng mọi chi tiêu cho khu vực công trong vài năm tới để giảm thâm hụt ngân sách, trong khi Đức đang phải vật lộn để cân bằng mức thâm thủng ngân sách khổng lồ.
Hình 1: Khủng hoảng nợ công ở EU

 

Khủng hoảng nợ công và thâm hụt ngân sách ở EU đã làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến sức mạnh của đồng Euro. Điều này là rất dễ hiểu bởi sức mạnh và sự ổn định của đồng Euro phụ thuộc vào sức mạnh của các nền kinh tế trong khu vực đồng Euro. Có một số lý do khiến nợ công và thâm hụt ngân sách của Hy Lạp và các nước EU tăng cao, làm ảnh hưởng đến sức mạnh của đồng Euro, đó là:
Thứ nhất, do không tuân thủ chặt chẽ các quy định trong Liên minh tiền tệ. Theo Hiệp ước Maastricht, để tham gia vào EMU các quốc gia thành viên phải đáp ứng nhiều tiêu chuẩn, trong đó có quy định mức thâm hụt ngân sách bằng 3% GDP và có nợ công nhỏ hơn hoặc bằng 60% GDP. Theo quy định này, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia EMU vào tháng 5-1998. Tuy nhiên, sau 2 năm, vào ngày 1-1-2001 Hy Lạp cũng được chấp thuận vào EMU với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ. Tuy nhiên bội chi ngân sách và nợ nước ngoài của Hy Lạp vẫn tiếp tục tăng lên.
Thứ hai, tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực. Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm giúp các quốc gia điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng - hàng hóa, vốn và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, hội nhập cũng có mặt trái của nó. Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây thực sự là thách thức. Với một quốc gia có nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu ngân sách giảm, chi an sinh xã hội cao.
Ngoài ra, theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế xuất nhập khẩu hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại được chuyển vào ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa, các quốc gia có vị trí thuận lợi về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng... sẽ nhận được một nguồn thu đặc biệt từ thuế nhập khẩu vào EU mà các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi hơn như Hy Lạp không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình. Nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm. Ngoài ra, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia tăng thâm hụt ngân sách.
Thứ ba, mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính. Đồng tiền chung hệ thống ngân hàng Trung ương châu Âu bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 16 ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên. ECB điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát. Quy định này tạo nền tảng cho việc hình thành và ổn định đồng Euro. Nhưng nó cũng mang lại nhiều thách thức cho các chính phủ do họ không thể sử dụng chính sách tiền tệ làm công cụ hữu hiệu để hỗ trợ kinh tế phát triển. Các quốc gia thành viên khu vực đồng euro chấp thuận một ngân hàng trung ương chung, một chính sách tiền tệ chung nhưng không chấp thuận một chính sách thuế chung.
Nguyên nhân sâu xa là mỗi quốc gia có một nhà nước riêng và nhà nước riêng thì cần có ngân sách riêng với hàng loạt nguyên tắc chi tiêu đính kèm. Điều này hợp lý nhưng lại là rào cản đối với khu vực đồng tiền chung, bởi vì chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa luôn có mối quan hệ khắng khít với nhau. Cụ thể, lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc vào chính sách lãi suất do ECB định đoạt. Lãi suất trái phiếu chính phủ lại do bộ tài chính của từng quốc gia quyết định. Quyết định của bộ tài chính phụ thuộc vào chính sách tài khóa của từng quốc gia. Đối với một số nước có năng lực cạnh tranh kém hơn, thâm hụt ngân sách lớn hơn các quốc gia khác trong khối, để bình ổn nền kinh tế, phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn là giải pháp được ưa chuộng. Vì vậy, khủng hoảng nợ do mất khả năng chi trả chỉ còn là vấn đề thời gian.
Ngoài ra, so với các quốc gia khác, khoản chi phúc lợi - an sinh xã hội và thu thuế của EU rất cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Mỹ có thu nhập bình quân đầu người là 34.320 USD nhưng chỉ dành 19,4% GDP chi phúc lợi và an sinh xã hội. Con số tương tự ở Nhật là 25.130 USD/người và 18,6%. Trong khi đó, tại EU, tỷ lệ này dao động từ trên 20-38,2%. Để có tiền chi phúc lợi và an sinh xã hội, các nước buộc phải gia tăng các khoản thuế. Thực tế cho thấy, tỷ lệ thu thuế tính trên GDP của các nước trong khối EU cũng tăng vượt trội so với các quốc gia khác trên toàn cầu. Tỷ lệ này biến động từ trên 30-50% GDP. Để có nguồn thu lớn, EU đã xây dựng một biểu thuế suất cao hơn. Thuế giá trị gia tăng trung bình trên 20%, trong khi tỷ lệ này ở Mỹ và Hàn Quốc khoảng 10%; tại Nhật và Canada là 5%. Chính điều này đã làm cho EU trở thành thiên đường của hưởng thụ hơn là nơi hấp dẫn nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Lợi thế trong thu hút nguồn vốn nước ngoài của EU cũng bị tác động. Là một thành viên của EU, trong các hoạt động kinh tế đối ngoại với các quốc gia ngoài EU, Hy Lạp cũng gặp những khó khăn tương tự. Không chỉ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, Hy Lạp còn bị thất thế trong các giao dịch nội khối. Là một quốc gia nhỏ, nghèo tài nguyên, năng lực cạnh tranh của Hy Lạp giảm. Mặc dù Hy Lạp thiết lập một tỷ lệ thu thuế và chi phúc lợi và an sinh xã hội ở mức trung bình của khu vực đồng tiền chung, nhưng nó cũng làm tăng mức thâm hụt ngân sách, tạo áp lực gia tăng nợ công.
Những thách thức cho khu vực đồng euro
Sức mạnh của đồng Euro phụ thuộc vào sức mạnh của mỗi nền kinh tế trong EU. Đồng tiền chung của 16 quốc gia ngày càng khẳng định được vị thế, tạo sự tin cậy, từng bước thay thế vị trí độc tôn của USD trong gần chục năm qua về thanh toán và dự trữ quốc tế... Tỷ trọng của  Euro trong quỹ dự trữ của các Ngân hàng trung ương trên thế giới vào cuối năm 2009 đã lên tới gần 30%, so với mức 17,9% từ khi ra đời. Nhưng khi một số nước châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng nợ, các món nợ khổng lồ và chồng chéo nhau được lộ rõ, thì sức mua của Euro suy giảm mạnh. Tính đến tháng 7-2010, Euro đã giảm giá khoảng 15,7% so với USD, 8,5% so với GBP và 20% so với JPY… Cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước EU cùng với các kế hoạch cắt giảm chi tiêu, cứu trợ kinh tế tiếp tục là mối đe dọa nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng Euro. Việc cứu trợ Hy Lạp có thể sẽ phải kéo dài, thậm chí có thể phải cơ cấu lại nợ. Kế hoạch cứu trợ kinh tế của các nước tiếp theo như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,… sẽ tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế của khu vực Euro. Vì thế, châu Âu khó tránh khỏi cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2011 và tình trạng trì trệ vào những năm tiếp theo. Như vậy, tăng trưởng kinh tế của khu vực này sẽ chậm hơn các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc và các nền kinh tế phát triển khác, trong khi lượng tiền không nhỏ đưa ra để cứu trợ, sẽ đẩy nhanh đà mất giá của Euro. Hơn nữa, sự suy giảm niềm tin của giới đầu tư và người tiêu dùng sẽ tiếp tục đặt áp lực giảm giá Euro. Niềm tin đối với triển vọng kinh tế của 16 quốc gia khu vực sử dụng Euro  đã sụt giảm trong quí 2 và 3 năm 2010. Theo số liệu của IMF, chỉ số  niềm tin của giới chủ doanh nghiệp và người tiêu dùng tại Eurozone đã giảm từ mức 100,6 điểm trong tháng 4 xuống 94,5 điểm trong tháng 6, trong đó, tại Hy Lạp giảm từ mức 69,1 điểm xuống còn 51,9 điểm, tại Bồ Đào Nha giảm từ 93,8 điểm xuống còn 87,1 điểm. Đồng Euro dự báo sẽ tiếp tục giảm giá trong những năm tới, nhưng khả năng phục hồi của nó nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào việc cải cách mạnh mẽ hệ thống tài chính từng quốc gia, việc thực thi chính sách tài khóa và kỷ luật tài chính nghiêm ngặt, cũng như việc điều hành chính sách tiền tệ của ECB trong thời gian tới.
3. Chênh lệch trình độ kinh tế giữa các nước thành viên
Chênh lệch trình độ kinh tế giữa các nước thành viên là một trong những thách thức đối với quá trình nhất thể hóa EU, đồng thời dễ làm nảy sinh những bất đồng, chia rẽ trong liên kết nội khối. Trong khu vực các nước EU15 được xếp vào nhóm nước thu nhập cao, thì EU12 (các nước Trung và Đông Âu) lại là những nước được xếp hạng là có thu nhập trung bình. Trong khi thu nhập bình quân đầu người của toàn EU27 là 23.600 USD/người/năm (theo PPP), thì thu nhập của nhiều nước EU15 cao hơn rất nhiều, chẳng hạn như GDP bình quân đầu người của Luxemburg năm 2009 là 63.000 USD, bằng 267,8% mức thu nhập bình quân toàn EU27, Ai Len là 30.900 USD, bằng 131% thu nhập bình quân của EU27, Thụy Điển là 28.4000 USD (120,3%), Áo là 28.800 USD (124%), Hà Lan là 30.700 USD (129,8%), Đức là 27.400 USD (116,2%). Trong khi đó, có nhiều nước EU12 thu nhập bình quân đầu người rất thấp, chỉ bằng trung bình 60% thu nhập bình quân của toàn khu vực, điển hình có những nước chỉ bằng dưới 50% thu nhập toàn khu vực như Romania 10.400 USD (bằng 41%), Bulgaria (10.400 USD, 41%), Latvia (11.400 USD,48,5%)(2). Việc mở rộng EU buộc các nước có thu nhập đầu người thấp hơn phải nỗ lực chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế để theo kịp trình độ phát triển chung của toàn khu vực.
Hình 2: Tổng chi tiêu R&D ở các nước châu Âu (% GDP)
 
 

Nguồn: UNESCO Institute for Statistics database, World Development Indicators database, 2008.
Khoảng cách trong chi tiêu R&D giữa các nước thành viên cũ và mới cũng cho thấy chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các nước. Chi tiêu R&D của EU15 vượt xa các nước EU12 và các nhóm nước châu ÂU khác. Chi tiêu R& D ở nhóm nước EU15 thường ở mức 2% GDP (có những nước EU15 giành chi tiêu R&D ở mức 3-4% GDP), trong khi chi tiêu R&D ở nhóm nước EU12 chỉ là khoảng 1%GDP, chỉ có vài nước ở EU12 có chi tiêu R&D trên 1% là Hungary, Cộng hòa Sec, Slovenia, Ukraine.
Tính theo chỉ số phát triển nguồn nhân lực, cũng có thể thấy sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước EU. Trong khi HDI của EU15 trung bình là 0,943 (năm 2005), thì HDI của các nước EU12 trung bình chỉ là 0,820, có những nước còn thấp hơn như Romania (0,813), Bulgaria (0,804), Ukraine (0,788)(3). Khoảng cách phát triển này cho thấy EU hiện nay tuy là một thực thể kinh tế thống nhất nhưng vẫn bao gồm nhiều quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau, có năng lực công nghệ khác nhau và thể chế chính trị khác nhau. Mặc dù Hiệp ước Lisbon đã đi vào hiệu lực để tạo ra một EU có tiếng nói chung, hình ảnh chung, quyết định chung, cùng thống nhất trong hoạch định và ra quyết định chính sách, nhưng khoảng cách phát triển giữa hai nhóm nước EU vẫn khiến EU không tránh khỏi sự chia rẽ, bất đồng và phải gánh những khoản tài chính khổng lồ để thu hẹp khoảng cách phát triển./.
---------------------------------------------
(1) European Commission 2009
(2) Eurostat (2009)
(3) Warsaw Bishkek Kyiv Tbilisi Chisinau Minsk, The Development Gap between the CIS and EU, CASE Network Reports, No 81- 2008
PGS.TS. Đinh Công TuấnViện Nghiên cứu châu Âu
(24/11/2011)

25.Dấu ấn từ chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ tại Hội nghị Cấp cao Đông Á lần thứ 6

TCCSĐT - Thông điệp mà Tổng thống Mỹ Barack Obama để lại tại Hội nghị APEC-19 vừa qua và Hội nghị EAS-6 mới đây là “nước Mỹ sẽ vẫn duy trì vị thế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong thế kỷ XXI”.


 
Tổng thống Mỹ Barack Obama tham dự EAS-6 đánh dấu sự can dự chính thức của Mỹ vào khối 18 nước, trong đó có Trung Quốc
Từ khách mời đặc biệt của Hội nghị Cấp cao Đông Á tại Hà Nội năm 2010

Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) là một diễn đàn đối thoại về các vấn đề chiến lược, kinh tế và chính trị, bao gồm 10 nước ASEAN cùng Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand và Ấn Độ.

Năm 2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, với tư cách là Chủ tịch Hội nghị Cấp cao ASEAN, đã thông báo quyết định của lãnh đạo cấp cao Đông Á mời Tổng thống Nga và Tổng thống Mỹ tham dự Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 6 nhóm họp năm 2011 tại Indonesia. Do đó, tại EAS lần thứ 5 tại Hà Nội năm 2010 lần đầu tiên có sự tham gia của Bộ trưởng Ngoại giao Nga và Mỹ với tư cách khách mời đặc biệt của nước chủ nhà là Việt Nam. Đây là một trong những sự kiện quan trọng trong hoạt động đỉnh cao của năm Việt Nam khi làm Chủ tịch ASEAN.

Quyết định của ASEAN mở rộng thêm Nga và Mỹ làm thành viên tham dự Hội nghị cấp cao EAS có ý nghĩa chiến lược nhằm đưa EAS thành diễn đàn hợp tác có phạm vi và tầm ảnh hưởng cao hơn ở khu vực, trong đó ASEAN giữ vai trò chủ đạo và là hạt nhân gắn kết hài hòa các lợi ích và nhu cầu hợp tác đan xen ở khu vực, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực. Với dân số 580 triệu người, GDP khoảng 1,5 nghìn tỉ USD, nền kinh tế tăng trưởng ổn định và kim ngạch thương mại cao, ASEAN đang là một trong những định chế lớn nhất thế giới, có vai trò quan trọng trong việc định hình an ninh và hợp tác ở châu Á - Thái Bình Dương.

Nhận xét về tương lai và triển vọng của EAS, Tổng Thư ký ASEAN, ông Suri Pitsuwan cho biết, tổng thu nhập GDP của 18 quốc gia EAS vào khoảng 30 nghìn tỉ USD mỗi năm, hơn một nửa tổng thu nhập GDP của toàn cầu. Do đó, các nước EAS sẽ là động lực phát triển không chỉ cho khu vực mà cho cả toàn cầu. Vì thế, ông đánh giá cao sự tham gia của Nga và Mỹ vào EAS.

Trong bài phát biểu mang tính khái quát chính sách đối ngoại của Mỹ đối với châu Á trước thềm chuyến thăm Việt Nam, Trung Quốc, Campuchia, Malaysia, Papua New Guinea, New Zealand, Australia và American Samoa trong năm 2010, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton nhận định rằng: “sự phát triển kinh tế nhanh chóng và những thay đổi xã hội ở khu vực đang tạo ra một tương lai mà trong đó Mỹ phải đi đầu”. Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố, Mỹ muốn củng cố vị trí ở châu Á - Thái Bình Dương và cho rằng, nếu các vấn đề an ninh, kinh tế, chính trị có liên quan đến Mỹ thì “Mỹ cũng phải có một chỗ trên bàn thảo luận”. Ngoại trưởng Hillary Clinton cho rằng, Mỹ đang ngày càng tham gia tích cực hơn vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương cùng với các đồng minh, các đối tác, các lực lượng mới nổi lên, các thể chế được xây dựng để gìn giữ hòa bình, thúc đẩy thịnh vượng và ổn định.

Đánh giá về việc Mỹ được kết nạp vào EAS, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cho biết, theo quan điểm của Washington, EAS có thể và nên là một diễn đàn chính bàn về các vấn đề chính trị và an ninh của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Tổng thống Barack Obama mong đợi tham dự Hội nghị EAS năm 2011 ở Indonesia. Văn phòng phát ngôn viên ngoại giao Mỹ nhận xét rằng, sự can dự ngày càng tăng của Mỹ và sự đóng góp của Mỹ dành cho một trong các định chế đang nổi lên này ở Đông Nam Á là một trong những ưu tiên của Chính quyền Mỹ dưới thời Tổng thống Barack Obama.

Tới Hội nghị Cấp cao Đông Á tại Indonesia năm 2011

Chiều 19-11-2011, tại Bali, Indonesia, Hội nghị Cấp cao Đông Á lần thứ 6 (EAS-6) kết thúc, lãnh đạo các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và 8 nước đối tác đối thoại đã ra Tuyên bố chung về kết nối ASEAN.

Trên cơ sở Tuyên bố Hà Nội năm 2010 về việc thông qua Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN và nhận thức về việc tăng cường kết nối khu vực về thương mại, đầu tư, hạ tầng, du lịch, văn hóa, giao lưu nhân dân v.v.. là bước đầu của tiến trình tăng cường kết nối trong phạm vi Đông Á, đồng thời mang lại quyền lợi cho các nước tham gia, lãnh đạo các nước tham dự EAS-6 đã ra tuyên bố xác định kết nối ASEAN là một trong những ưu tiên trong khuôn khổ hợp tác Đông Á, cùng với các lĩnh vực ưu tiên khác mà các bên đã có được tiếng nói đồng thuận. Ngoài ra, các nhà lãnh đạo đã xem xét khả năng ban hành Kế hoạch kết nối tổng thể trong tương lai nhằm phát triển hơn nữa các hình thức liên kết giữa ASEAN với các nước đối tác đối thoại, trong đó ASEAN đóng vai trò trung tâm.

Tại EAS-6, lãnh đạo các nước ASEAN và 8 nước đối tác đối thoại đã ra Tuyên bố chung về những nguyên tắc xây dựng các mối quan hệ cùng có lợi, bao gồm tăng cường tôn trọng độc lập, chủ quyền, sự bình đẳng, bản sắc dân tộc của nhau, cũng như tính đa dạng về dân tộc, tôn giáo, lập trường quan điểm; tôn trọng pháp luật quốc tế; thúc đẩy quan hệ láng giềng tốt, đối tác tốt và xây dựng cộng đồng; tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau; duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, thịnh vượng; không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác; không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực chống lại nước khác; giải quyết khác biệt và tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế; tăng cường sức đối phó của khu vực, trong đó có việc đối phó với khủng hoảng kinh tế và thảm họa thiên nhiên; tôn trọng các quyền tự do cơ bản, thúc đẩy bảo vệ quyền con người và công lý xã hội, tăng cường quan hệ hợp tác cùng có lợi trong EAS và giữa EAS với các tổ chức khu vực khác.

Thành công của EAS-6 và sự tham dự chính thức lần đầu tiên của Nga và Mỹ đã để lại dấu ấn nhất định đối với kết quả của EAS-6. Việc Tổng thống Mỹ Barack Obama đích thân tham dự Hội nghị cấp cao EAS đánh dấu sự can dự chính thức của Mỹ vào khối 18 nước, trong đó có Trung Quốc.

Cũng như tại APEC-19, bên lề Hội nghị EAS-6, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo. Mặc dù hai bên đã tìm được tiếng nói đồng thuận về một số vấn đề như tình hình CHDCND Triều Tiên, Iran, nhưng quan hệ Mỹ - Trung vẫn tỏ ra căng thẳng, đặc biệt trong hai vấn đề:

Một là, Washington tiếp tục cáo buộc Bắc Kinh kìm giữ tỷ giá đồng nhân dân tệ thấp so với đồng USD, gây mất cân đối trong trao đổi mậu dịch song phương.

Hai là, vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, trong đó Trung Quốc vẫn kiên quyết bác bỏ chủ trương của Mỹ muốn giải quyết vấn đề thông qua cơ chế đàm phán đa phương.

Giới phân tích cho rằng, tại EAS-6, Tổng thống Barack Obama đã có những tuyên bố cứng rắn nhưng không đe dọa Trung Quốc khi ông B.Obama trấn an rằng, Mỹ “không lo ngại” Trung Quốc và không tìm cách ngăn cản sự phát triển của Trung Quốc. Còn Bắc Kinh bác bỏ mọi cáo buộc rằng Trung Quốc có ý đồ bành trướng và cảnh báo Washington không nên can thiệp vào công việc của Trung Quốc.

Trong khuôn khổ quan hệ song phương Mỹ với nước chủ nhà Indonesia, ngày 18-11-2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã chứng kiến lễ ký kết thỏa thuận Indonesia mua 230 máy bay Boeing 737 của Mỹ. Đây là một hợp đồng lớn chưa từng có trong lịch sử của tập đoàn chế tạo máy bay này của Mỹ, trị giá gần 22 tỉ USD, tạo ra khoảng 110.000 việc làm ở Mỹ. Ngoài ra, Indonesia còn có ý định mua thêm 150 máy bay, đưa tổng giá trị hợp đồng lên tới gần 35 tỉ USD.

Hợp đồng mua bán máy bay chưa từng có này được ký kết vào thời điểm tỷ lệ được lòng dân của Tổng thống Barack Obama đang xuống thấp tới mức kỷ lục, còn kinh tế Mỹ vẫn trong tình trạng gặp khó khăn với tỷ lệ thất nghiệp dao động ở mức 9%.

Có thể thấy, tiếp theo ngay sau Hội nghị APEC-19, Hội nghị cấp cao EAS-6, Mỹ đã thể hiện sự chuyển hướng trọng tâm chiến lược của mình sang châu Á - Thái Bình Dương, theo tinh thần đã được thể hiện trong bài viết gần đây đăng trên tạp chí “Foreign Policy” với tựa đề “Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ” của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. Trong bài viết này,Ngoại trưởng H.Clinton khẳng định, châu Á - Thái Bình Dương đã trở thành đầu tàu kinh tế và chính trị toàn cầu và là cơ hội lớn cho nước Mỹ trong thế kỷ XXI. Do đó, trong 10 năm nữa, Washington sẽ phải đưa ra quyết định nên đầu tư vào đâu để có thể duy trì vị thế lãnh đạo thế giới của mình, đồng thời bảo vệ lợi ích và thúc đẩy các giá trị Mỹ.

Theo Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, trong khi vẫn không thể quay lưng lại với các đồng minh trong mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương, Mỹ sẽ phải chọn châu Á là khu vực địa chính trị có ý nghĩa then chốt. Vì thế, Washington phải chứng tỏ cho các nước châu Á thấy, mặc dù đang trải qua khủng hoảng kinh tế, Mỹ vẫn rất mạnh./.
Hương Ly (22/11/2011)

24.Đóng góp cụ thể và thiết thực của Việt Nam tại APEC 19

TCCSĐT - Kể từ khi tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APEC) tháng 11-1998, Việt Nam đã từng bước phát huy tính tích cực, chủ động và có trách nhiệm tại các Diễn đàn APEC được tổ chức hằng năm. Tại APEC 19, Việt Nam đã có những đóng góp cụ thể và thiết thực để tăng cường hợp tác kinh tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.


Đặc biệt, Việt Nam đã đăng cai và tổ chức rất thành công Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2006 tại Hà Nội. APEC 2006 do Việt Nam chủ trì đã phê chuẩn Chương trình hành động Hà Nội; thông qua các khuyến nghị cải cách APEC với nhiều biện pháp cụ thể nhằm làm cho APEC có sức sống ngày càng mạnh mẽ, trở thành tổ chức năng động và có hiệu quả hơn.

Ngoài ra, Việt Nam còn tích cực xây dựng nhiều nội dung hợp tác khác như tham gia soạn thảo các chiến lược và kế hoạch hành động của APEC trong tất cả các lĩnh vực; thực hiện nghiêm túc các cam kết của APEC; chủ động đề xuất nhiều sáng kiến mới và đã triển khai thành công khoảng 70 sáng kiến trong hầu hết các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, kỹ thuật, y tế, đối phó với tình trạng khẩn cấp, bảo đảm an ninh.


Tham gia APEC, Việt Nam có thêm điều kiện thuận lợi để tiếp cận tốt hơn tới các nguồn vốn, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý kinh tế thông qua các hoạt động đầu tư và thương mại với các thành viên tham gia APEC, trong đó có những thành viên có nền kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Canada v.v..


Năm 2011, trong bối cảnh vị thế của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế và khu vực không ngừng được nâng cao, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dẫn đầu Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự APEC 19 ở Honolulu (Mỹ) nhằm triển khai đường lối đối ngoại đề ra trong Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Tham dự APEC 19, Việt Nam có điều kiện và cơ hội để tranh thủ các chương trình hợp tác phù hợp của APEC nhằm thiết thực góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam. Đây cũng là dịp để Việt Nam thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại và chính trị với các đối tác, làm sâu sắc thêm quan hệ giữa Việt Nam với các thành viên APEC.


Theo hướng triển khai đó, tại APEC 19, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đưa ra nhiều ý kiến cụ thể và quan trọng. Phát biểu tại các phiên họp, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đánh giá cao ý nghĩa và tầm quan trọng của chủ đề APEC 19 là tăng cường liên kết kinh tế khu vực và mở rộng thương mại, lấy đó làm định hướng chung để phối hợp chính sách và hành động. Chủ tịch nước đã đề nghị APEC cần có cách tiếp cận tổng thể và toàn diện, hành động mau chóng và quyết liệt trên các cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu nhằm tránh nguy cơ xảy ra một cuộc suy thoái mới, qua đó tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng đang được định hình của APEC trong cấu trúc khu vực và quốc tế.


Là quốc gia sớm tham gia các cuộc đàm phán về Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), sáng 12-11-2011, trong khuôn khổ APEC 19, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã dự cuộc họp cấp cao của các thành viên TPP. Chủ tịch nước cho rằng, APEC cần nỗ lực toàn diện hơn để đóng góp tương xứng vào tiến trình gia tăng liên kết kinh tế, tái cấu trúc nền kinh tế toàn cầu, cải cách hệ thống tài chính quốc tế và sớm kết thúc vòng đàm phán Doha. Đối với từng nền kinh tế và các khuôn khổ hợp tác tiểu vùng, Chủ tịch nước nhấn mạnh, APEC cần ưu tiên các chương trình, dự án chuyển đổi mô hình tăng trưởng, thu hẹp khoảng cách phát triển, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, phát triển hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo và tăng cường kết nối nội khối, đặc biệt là các nỗ lực xây dựng Cộng đồng ASEAN và Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN cũng như hợp tác tiểu vùng Mekong.


Liên quan đến nội dung hợp tác về sử dụng năng lượng hiệu quả và an ninh năng lượng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh, bảo đảm đủ năng lượng phục vụ, phục hồi và phát triển kinh tế, đồng thời phát triển bền vững và bảo vệ môi trường là hai nhiệm vụ cấp bách, không thể tách rời. Do đó, Việt Nam đang nỗ lực bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia theo hướng phát triển đồng bộ các nguồn năng lượng, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phát triển công nghệ sản xuất sạch và năng lượng sạch. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cho rằng, APEC cần tăng cường đóng góp vào các nỗ lực quốc tế trong lĩnh vực này, nhất là “Sáng kiến nền kinh tế xanh” của Liên hợp quốc và “Kế hoạch hành động ASEAN về hợp tác năng lượng”.


Thảo luận về chủ đề “Cải cách quản lý và cạnh tranh”, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh, để bảo đảm hợp tác hiệu quả hơn và giúp các thành viên nâng cao sức cạnh tranh, APEC cần lồng ghép nội dung hợp tác này vào việc thực hiện các Mục tiêu Bogo và Chiến lược tăng trưởng của APEC. Chủ tịch nước khẳng định, Việt Nam coi cải cách hành chính và quản lý là một biện pháp quan trọng nhằm cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững và hiệu quả, đồng thời đề nghị APEC cần bảo đảm các nguyên tắc tự nguyện, linh hoạt, phù hợp với trình độ phát triển của các thành viên.


Cũng trong khuôn khổ APEC 19, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tham gia cùng các nhà lãnh đạo APEC đối thoại với Hội đồng Tư vấn kinh doanh APEC (ABAC) về 4 nội dung: hội nhập kinh tế khu vực; phát triển bền vững; doanh nghiệp vừa và nhỏ; tạo thêm việc làm. Phát biểu với ABAC, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh vai trò quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự phát triển của các nền kinh tế thành viên APEC. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng 60% GDP và tạo ra 90% việc làm mới. Vì thế, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đề nghị, ABAC và APEC tiếp tục ưu tiên lĩnh vực này, tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các hộ kinh doanh cá thể có thể hoạt động dễ dàng, liên kết và tham gia các chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu. Từ đó, Chủ tịch nước đã đưa ra nhiều đề xuất cụ thể như trợ giúp tài chính; hỗ trợ đổi mới công nghệ; phát triển nguồn nhân lực và cải cách thủ tục hành chính; khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia cung ứng sản phẩm, dịch vụ công.


Trong khuôn khổ Hội nghị, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tới thăm và có bài phát biểu quan trọng về chính sách đối ngoại của Việt Nam và quan hệ Việt Nam - Mỹ tại Trung tâm Đông Tây - một trong những trung tâm nghiên cứu chính sách lớn nhất của Hoa Kỳ và tại châu Á - Thái Bình Dương. Đây là lần đầu tiên, lãnh đạo cấp cao Việt Nam có bài phát biểu tại cơ quan nghiên cứu có uy tín hàng đầu này, với sự tham dự của hơn 200 đại biểu là lãnh đạo 11 quốc đảo ở Thái Bình Dương, đại diện nghị sỹ liên bang, lãnh đạo bang Hawaii và thành phố Honolulu cùng các nhà nghiên cứu, học giả và sinh viên trường Đại học Tổng hợp Hawaii. Sau bài phát biểu, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã trao đổi về các vấn đề kinh tế, chính trị của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Mỹ cũng như các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm.


Bên lề Hội nghị cấp cao APEC 19, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và các thành viên chính thức của Ðoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã có các cuộc gặp và tiếp xúc song phương với nhiều nguyên thủ, lãnh đạo thành viên APEC, trong đó có Tổng thống Mỹ Barack Obama, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, Tổng thống Nga Dmitri Medvedev và Tổng thống các nước Chile, Peru, Thủ tướng Australia... Tại các cuộc gặp và tiếp xúc đó, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và lãnh đạo các nước đã nhất trí về nhiều biện pháp đẩy mạnh hợp tác song phương giữa Việt Nam với các đối tác chủ chốt trong khu vực, nhất là về kinh tế - thương mại; phối hợp trong các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm, cũng như trong khuôn khổ APEC và các diễn đàn đa phương khác. Nhân dịp này, Việt Nam đã ký kết với Chile "Hiệp định mậu dịch tự do", đánh dấu giai đoạn mới trong quan hệ hai nước; ký kết với Peru "Hiệp định hợp tác và hỗ trợ giữa các cơ quan hải quan".


Các doanh nghiệp APEC đánh giá cao những thành tựu có ý nghĩa quan trọng của Việt Nam trong quá trình đổi mới và nỗ lực hội nhập quốc tế sâu và toàn diện; khẳng định ủng hộ và sẵn sàng hợp tác với Việt Nam để tiếp tục đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, phát triển nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng; tin tưởng Việt Nam sẽ đạt được những kết quả tích cực trong thời gian tới; sẽ tích cực mở rộng và triển khai các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam./.
Trà Mi (29/11/2011)

23.Thu hút FDI vào đồng bằng sông Cửu Long: Cần chiến lược, tư duy và cách làm mới

TCCSĐT - Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có nhiều đóng góp quan trọng cho cả nước, nhưng kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)  chưa tương xứng với tiềm năng, vai trò, vị trí của vùng. Nhận diện đúng thực trạng, tìm nguyên nhân, có chiến lược thu hút đầu tư, tư duy phát triển và các giải pháp phù hợp, đồng bộ là những vấn đề cần quan tâm để tăng cường thu hút FDI  vào ĐBSCL.


Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa công bố, 8 tháng đầu năm 2011, toàn vùng ĐBSCL thu hút thêm 53 dự án FDI với số vốn 25,36 triệu USD, xếp thứ 5 trong tổng số 6 vùng cả nước, chỉ cao hơn Tây Nguyên, thấp hơn cả vùng Trung du miền núi phía Bắc. Lũy kế đến nay, ĐBSCL có 612 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 9.756 triệu USD, trong đó có hơn 4.463 triệu USD vốn điều lệ, chiếm 4,72% số dự án, 4,8% tổng vốn đăng ký và 6,7% vốn điều lệ so với cả nước, xếp thứ 4/6 vùng có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ hơn Tây Nguyên và các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc.
Từ khu vực thu hút vốn FDI sớm nhất đến … “vùng trũng”
ĐBSCL là vùng thu hút FDI sớm nhất của cả nước, ngay từ khi Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực. Năm 1988, ĐBSCL có 5 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 7,8 triệu USD, bằng 10% về số dự án và 2,09% tổng vốn đầu tư của cả nước. Các dự án có vốn FDI đầu tiên vào ĐBSCL của Liên doanh Meko lúc đó nằm trên địa bàn thành phố Cần Thơ trong lĩnh vực chăn nuôi (Xí nghiệp gia cầm Meko), chế biến nấm rơm (Xí nghiệp chế biến thực phẩm Meko), thuộc da (Xí nghiệp da Meko), may mặc (Xí nghiệp may Meko) và hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu (Xí nghiệp thủ công mỹ nghệ Meko). Đây  là những ngành nghề được khuyến khích vì  sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu nông sản và xuất khẩu.
Ở giai đoạn đầu cùng cả nước thực hiện chính sách mở cửa kinh tế, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, ĐBSCL có nhiều lợi thế nhờ nguồn lao động dồi dào, nhân công rẻ, là vùng nguyên liệu nông sản lớn. Tuy nhiên, những giai đoạn tiếp theo, trong khi các tỉnh miền Đông Nam Bộ: như Bình Dương, Đồng Nai nhanh chóng “chuyển mình”, tận dụng lợi thế liền kề Thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm kinh tế lớn nhất nước, đồng thời thực hiện chính sách “trải thảm đỏ”, thì các tỉnh ĐBSCL - phía Tây Nam của Thành phố Hồ Chí Minh, lại ì ạch trong thu hút FDI. Nguyên nhân chính là  do những trở ngại vì hạ tầng giao thông kém, nguồn lực đầu tư công hạn chế, thiếu động lực, lao động qua đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu nhà đầu tư, chính sách thu hút đầu tư rập khuôn, thiếu liên kết chặt chẽ để phát huy thế mạnh, hạn chế những điểm yếu. Vì thế, mặc dù là “điểm sáng” ở thời kỳ đầu, nhưng đến nay ĐBSCL đã  thành một trong những “vùng trũng” trong “bản đồ” thu hút đầu tư cả nước.
“Cửa ngõ” miền Tây và “Tứ giác phát triển”
Khảo sát dòng vốn FDI vào ĐBSCL thời gian qua có thể thấy, nhiều năm liền, dòng vốn này tập trung chủ yếu ở các tỉnh Long An, Tiền Giang, nhờ lợi thế liền kề Thành phố Hồ Chí Minh, “cửa ngõ Miền Tây” và thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tuy về mặt cơ chế chính sách, vốn đầu tư công… các tỉnh này chưa hưởng “qui chế” gì đặc biệt, nhưng cũng được hưởng lợi về vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng nhờ sức lan tỏa từ Thành phố Hồ Chí Minh và miền Đông Nam Bộ. Năm 2010, toàn vùng ĐBSCL thu hút 1.740 triệu USD, thì có 757,6 triệu USD thuộc Long An và Tiền Giang, chiếm 43,5% tổng vốn FDI của toàn vùng. Tính chung đến nay, hai  địa phương này thu hút 408 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 4.028 triệu USD, chiếm 66,7% dự án và 41,3% tổng vốn FDI của cả ĐBSCL. Thời gian gần đây, thành phố Cần Thơ - trung tâm vùng ĐBSCL - cùng với Kiên Giang, Cà Mau và An Giang là 4 địa phương nằm trong “Tứ giác phát triển” của vùng cũng trở thành địa bàn trọng điểm thu hút FDI. Đến nay, các địa phương này có 92 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 4.616 triệu USD, chiếm 47,2% tổng vốn toàn vùng.
Kết quả thu hút FDI những năm gần đây của ĐBSCL đã có những khởi sắc nhờ những cải thiện về cơ sở hạ tầng, tập trung đầu tư phát triển 3 khâu đột phá là: giao thông, thủy lợi, giáo dục - đào tạo và dạy nghề; thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL, tăng cường đầu tư cho thành phố Cần Thơ - trung tâm vùng; Phú Quốc - Kiên Giang; trung tâm công nghiệp khí - điện - đạm Cà Mau và bước đầu hình thành phát huy vai trò vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, yêu cầu phát triển vẫn đang đặt ra cho vùng đất giàu tiềm năng này nhiều thách thức phải vượt qua.
Cần một tầm nhìn chiến lược về thu hút FDI cho ĐBSCL
Quyết định phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 của Thủ tướng Chính phủ xác định: Vùng ĐBSCL đến năm 2050 sẽ là vùng nông sản lớn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu; là vùng kinh tế phát triển năng động, bền vững, có môi trường đầu tư thuận lợi …. Đó là mục tiêu chiến lược của một tầm nhìn chiến lược, định vị ĐBSCL không chỉ trong phạm vi quốc gia mà nhìn ra quốc tế. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, cần một tư duy phát triển và tầm nhìn chiến lược trong thu hút FDI.
Cho đến nay, nhiều quy hoạch cấp vùng đã được ban hành, song vẫn chưa có một chiến lược hay quy hoạch thu hút đầu tư FDI nào cho ĐBSCL. Thiếu một chiến lược, lúng túng trong việc tiếp cận các đối tác, nôn nóng muốn vượt lên thoát khỏi “vùng trũng” ... là nguyên nhân dẫn đến tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh trong thu hút đầu tư giữa các địa phương trong vùng theo kiểu “phá rào ưu đãi đầu tư” hay đua nhau quy hoạch khu công nghiệp tràn lan … Chiến lược FDI và tư duy kinh tế vùng trong thu hút đầu tư là động lực để các tỉnh, thành cùng nhau  chia sẻ lợi ích, chia sẻ thị trường, khai thác “lợi thế dùng chung”  của vùng về cơ sở hạ tầng như: sân bay, cảng biển, cầu đường, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực. Có như thế mới tránh được tình trạng đầu tư lãng phí theo kiểu “tỉnh nào cũng có” để rồi không tỉnh nào có đủ điều kiện đáp ứng theo yêu cầu nhà đầu tư.
Kinh tế vùng không chỉ cho ĐBSCL mà còn cho Thành phố Hồ Chí Minh, miền Đông Nam Bộ và các kết nối các vùng khác trong cả nước. Lợi thế của ĐBSCL không chỉ với các sản phẩm nông nghiệp mà còn là từ vị trí địa lý chiến lược trong cục diện mới. Đó là thế mạnh để phát triển kinh tế biển; từ đảo ngọc Phú Quốc đến tuyến hàng hải quốc tế rất gần, tuyến hành lang kinh tế trong Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng; từ thế “tựa lưng” với Thành phố Hồ Chí Minh, trông ra biển Đông, kề vai tuyến biên giới Tây Nam, nằm trong bán kính 500 km của ASEAN mà vùng châu thổ này là tâm điểm … đã tạo ra thế “địa kinh tế” đặc biệt của ĐBSCL. Sự tiên phong về tư duy phát triển, gắn kết được quá trình liên kết các chuỗi giá trị kinh tế sẽ là khâu đột phá để ĐBSCL trở thành một cực thu hút đầu tư và tăng trưởng của quốc gia trong những thập niên tới.
Liên kết vùng trong thu hút đầu tư FDI
Nhu cầu bức xúc hiện nay là những cơ chế, chính sách tốt để thúc đẩy liên kết vùng, trong đó có liên kết xúc tiến, thu hút vốn, tạo môi trường đầu tư chung, cơ sở hạ tầng dùng chung, khắc phục tình trạng cạnh tranh bất lợi, thiếu lành mạnh, không gian kinh tế bị chia cắt, để có sự “phân công, phân vai” giữa các địa phương trong vùng cùng với liên kết sức mạnh cộng đồng doanh nghiệp ĐBSCL. Liên kết vùng được xem là giải pháp có tính chiến lược nhằm đẩy mạnh thu hút có chọn lọc nguồn vốn FDI vào vùng ĐBSCL. Các tỉnh trong vùng, các bộ, ngành Trung ương đã có tiếng nói chung, thông qua nhiều hoạt động như: Diễn đàn Hợp tác kinh tế ĐBSCL được tổ chức hằng năm, thành công của Hội nghị Xúc tiến đầu tư vùng ĐBSCL năm 2010 thay cho các hoạt động  riêng lẻ, chồng chéo của các tỉnh.
Song, thực tế hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư ĐBSCL trong thời gian qua còn nhiều tồn tại, nút thắt cần tháo gỡ: Việc phân bổ vốn và tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch chỉ có 2 cấp là cấp quốc gia và địa phương, “ bỏ quên” cấp vùng; đề án tổng thể xúc tiến đầu tư - thương mại du lịch vùng ĐBSCL với những cơ chế, chính sách đầu tư đặc thù còn chậm...
Xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài cần dựa trên chiến lược vùng, quy hoạch chung, sự liên kết theo từng chuyên đề, theo ngành, lĩnh vực và theo vùng. Việc khai thác tốt lợi thế các sản phẩm mũi nhọn: lúa gạo, thủy sản, trái cây, công nghiệp năng lượng, vùng ĐBSCL có thể trở thành địa điểm đánh dấu sự thành công lớn của các nhà đầu tư nước ngoài. Khi mối liên kết giữa các tỉnh, thành  trong vùng sâu và đạt đến độ có thể biến những lợi thế nổi trội của từng địa phương thành “lợi thế dùng chung” của cả ĐBSCL thì sẽ hình thành được phong cách làm việc mới, xây dựng được một cực tăng trưởng mới của đất nước trong các thập niên tới./.
Trần Hữu HiệpVụ trưởng Vụ Kinh tế - Xã hội, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ
(26/11/2011)

Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2011

22. Việt Nam - cơ hội thịnh vượng trong tầm tay!

GS. John William Snow là Bộ trưởng Ngân khố thứ 73 của Hoa Kỳ và đảm nhận cương vị này dưới thời Tổng thống George W. Bush .
Trả lời báo chí trước chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam trung tuần tháng 11, GS, TS John William Snow, vị Bộ trưởng Ngân khố thứ 73 của Hoa Kỳ, cha đẻ của hàng trăm thương hiệu lớn cho rằng chính nền văn hóa, tính sáng tạo của người Việt Nam là những tài sản quý giá để tạo nên sự thịnh vượng…

Thưa ông, Việt Nam cần phải làm gì để thu hút đầu tư? Làm thế nào để doanh nghiệp Việt Nam phát triển thành công và đưa được thương hiệu của mình ra thế giới?
Việt Nam đang ở trong khu vực nóng về phát triển kinh tế, có nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư. Quan trọng là, Việt Nam cần gửi ra thế giới những thông điệp rõ ràng về việc các nhà đầu tư nước ngoài khi đến đây sẽ được đối xử tốt như thế nào. Vốn có ở khắp nơi nhưng các nhà đầu tư chỉ đến nơi mà họ nhận được sự tôn trọng. Do vậy, Việt Nam phải xây dựng được một nhà nước pháp quyền tốt, bảo vệ được quyền lợi của các nhà đầu tư, thí dụ như vấn đề tôn trọng bản quyền.
Thu hút đầu tư không chỉ mang lại tiền, mà còn là kinh nghiệm, công nghệ, kỹ năng. Có những điều đó, Việt Nam mới có thể phát triển mạnh mẽ hơn, có sức cạnh tranh, sản phẩm chất lượng hơn. Việc xuất khẩu tăng sẽ đem về nhiều ngoại tệ hơn, bên cạnh đó, các công ty có doanh số tăng trưởng sẽ có thêm nhiều việc làm cho người lao động… Từ đó tạo nên sự thịnh vượng cho doanh nghiệp và cho toàn bộ nền kinh tế.
Một doanh nghiệp, dù ở bất kỳ đâu trên thế giới đều phải cạnh tranh để đưa ra những sản phẩm tốt hơn, giá cả hấp dẫn hơn, buộc họ phải không ngừng sáng tạo. Các công ty muốn phát triển phải tìm đến những thị trường tốt để khai thác cung - cầu. Bấy giờ sự thịnh vượng của một quốc gia rất có ý nghĩa bởi nó nói lên bản chất của thị trường
Một số chuyên gia và tổ chức quốc tế cho rằng“bức tranh” doanh nghiệp Việt Nam đang tồn tại nhiều vấn đề, vậy điều gì khiến ông tin tưởng Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục tăng trưởng và thu hút đầu tư?
Việt Nam là một quốc gia đang tăng trưởng rất tốt, GDP tăng trưởng cao, đặc biệt là dân số nước các bạn rất đông, tốc độ gia tăng nhanh, đó là một nguồn lực dồi dào, hứa hẹn giá nhân công thấp… Tuy nhiên, kỹ năng lao động của người lao động Việt Nam vẫn còn thấp. Vì vậy, nếu các bạn giải quyết được vấn đề nâng cao kỹ năng và trình độ của người lao động thì sẽ góp phần tăng hiệu quả hoạt động cho doanh nghiệp, các đối tác nước ngoài sẽ muốn đến Việt Nam.
Tôi có lạc quan hay không, câu trả lời đó phụ thuộc vào Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh, Việt Nam có nhiều điểm tốt, có nền tảng để phát triển thịnh vượng. Đó là nền văn hóa, tính sáng tạo của người dân, những tài sản quý giá để tạo nên sự thịnh vượng. Bên cạnh đó, nền giáo dục, bản tính ham học hỏi có vai trò thiết yếu và quan trọng. Việt Nam cũng đã có ý tưởng cải thiện cán cân thương mại bằng việc xây dựng các thị trường chiến lược. Điều này sẽ có tác động tích cực lâu dài. Và thời gian sẽ giúp trả lời câu hỏi về tiềm năng của các bạn
Theo ông Việt Nam cần phải cải thiện chính sách và môi trường pháp lý như thế nào để trở nên hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư?
Các bạn phải xây dựng một môi trường pháp lý thuận lợi, mang tính hỗ trợ cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài. Môi trường pháp lý phải công bố trước cho các nhà đầu tư để các nhà đầu tư được biết vì các nhà đầu tư không thể ra một quyết định đầu tư một cách chính xác trong khả năng của họ khi mà môi trường pháp lý không hỗ trợ họ.
Hệ thống pháp luật cần phải có sự tương thích. Lấy ví dụ, với một nhà đầu tư, Luật hợp đồng đóng vai trò rất quan trọng, khi ký hợp đồng, xử lý một quan hệ đầu tư khi thực hiện nó, cơ quan có thẩm quyền liệu có phán xét một cách công bằng hay không, hay tính thực thi của Luật đến đâu khi có mâu thuẫn, tranh chấp… là những quan tâm số một của nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài còn quan tâm đến những quy định và luật khác như luật quản lý tài sản công ty, luật sở hữu trí tuệ,…, tất cả đều cần phải được hoàn thiện và củng cố.
Nhiều công ty tư vấn, tập đoàn đa quốc gia nhận định rằng Việt Nam nếu muốn tiến ra toàn cầu thì nên theo mô hình quản trị của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Vậy lời khuyên của ông là gì?
Các bạn nên xây dựng một danh sách các nền kinh tế nào trên thế giới đã phát triển thành công để học hỏi từ họ một cách có chọn lọc chứ không thể sao chép nguyên xi. Nghĩa là doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam phải biết cách tự lèo lái để biến những thành công trong thực tiễn của các nước khác thành của mình nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam. Ngoài Hàn Quốc, Nhật Bản, còn có Ấn Độ, nơi cũng có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thành công. Việc đặt trọng tâm vào doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất sáng suốt, vì đó là nơi tạo ra nhiều công ăn việc làm. Nhỏ nhưng năng động, giàu nhiệt huyết hoạt động là yếu tố cấu thành quan trọng của nền kinh tế.
Diễn Tú (thực hiện)
http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/KinhTe/2011/11/05E44551A93B7196/

21. Việt Nam đóng góp quan trọng cho các trọng tâm ASEAN



Tối 19-11, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu Việt Nam đã rời Bali (Indonesia), kết thúc tốt đẹp chuyến tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 19 và các hội nghị cấp cao liên quan.


Với tinh thần “chủ động, tích cực và có trách nhiệm", Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trong đề xuất các giải pháp tăng cường hợp tác xây dựng Cộng đồng ASEAN; triển khai Kết nối ASEAN và mở rộng quan hệ đối ngoại của Hiệp hội; xem xét, giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực mà các bên cùng quan tâm.
Nhân dịp này, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã trả lời phỏng vấn báo chí về trọng tâm của Hội nghị và những đóng góp của Việt Nam vào thành công của Hội nghị.

- Xin Bộ trưởng cho biết trọng tâm của Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 19 và các hội nghị cấp cao liên quan tại Bali (Indonesia).


Bộ trưởng Phạm Bình Minh:
Từ ngày 17 đến 19-11, tại Bali (Indonesia) đã diễn ra Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 19 và các hội nghị cấp cao giữa ASEAN với các đối tác, bao gồm Cấp cao ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS) và các Cấp cao ASEAN+1 với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Mỹ và Liên hợp quốc.

Cấp cao ASEAN-Trung Quốc năm nay cũng đồng thời là Cấp cao kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ đối thoại. Lần đầu tiên Nga và Mỹ tham dự EAS với tư cách thành viên chính thức.


Với chủ đề “Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng các quốc gia toàn cầu,” các hội nghị lần này tập trung vào những nội dung chính là đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng ASEAN; liên kết và kết nối khu vực; mở rộng và làm sâu sắc quan hệ của ASEAN với các đối tác và trao đổi về các vấn đề khu vực, quốc tế cùng quan tâm, nhất là các vấn đề liên quan đến hòa bình, an ninh và hợp tác ứng phó với các thách thức đang nổi lên như thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh hàng hải, tội phạm xuyên quốc gia...


- Xin Bộ trưởng cho biết những kết quả chính đạt được tại các hội nghị cấp cao lần này?


Bộ trưởng Phạm Bình Minh:
Qua hơn một tuần làm việc khẩn trương, tích cực, các cuộc họp cấp quan chức, cấp Bộ trưởng và Hội nghị cấp cao ASEAN cũng như các hội nghị cấp cao ASEAN với các đối tác đã đạt được những kết quả quan trọng sau:

Thứ nhất,
các nhà lãnh đạo các nước ASEAN khẳng định quyết tâm triển khai hiệu quả Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và Kế hoạch Kết nối ASEAN, theo đó cần thực hiện đầy đủ và hiệu quả các thỏa thuận cũng như các chương trình, dự án trọng điểm về kết nối, thu hẹp khoảng cách phát triển, phát triển tiểu vùng, trong đó có Tiểu vùng Mekong, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững và đồng đều ở khu vực. ASEAN cũng sẽ tiếp tục tăng cường công tác điều phối và giám sát thực thi ở cả cấp độ quốc gia và khu vực; lồng ghép các cam kết khu vực vào các mục tiêu, chương trình phát triển quốc gia; đầu tư thích đáng cho giáo dục, phát triển nguồn nhân lực; tăng cường quảng bá, thu hút thêm sự ủng hộ, hỗ trợ từ khu vực doanh nghiệp, các nguồn xã hội hóa và các đối tác. Trong quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, hơn bao giờ hết, các nước ASEAN nhất trí cần phát huy đoàn kết và thống nhất trong ASEAN; theo đó, đối với những vấn đề còn khác biệt, các nước thành viên sẽ nỗ lực giải quyết thỏa đáng trên tinh thần hữu nghị, Hiến chương ASEAN và lợi ích chung của Hiệp hội.

Thứ hai,
các nước ASEAN nhất trí sẽ tăng cường phối hợp lập trường về các vấn đề toàn cầu mà khu vực quan tâm tại các diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, G20…, qua đó nâng cao vai trò, tiếng nói của Hiệp hội tại các diễn đàn này cũng như đóng góp trách nhiệm vào việc xử lý hiệu quả các thách thức đang nổi lên. Để phát huy được vai trò đó, ASEAN cần tiếp tục dành ưu tiên cao nhất cho xây dựng Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh; tập trung vào các vấn đề thiết thân của khu vực cũng như những vấn đề quan tâm chung của quốc tế; bảo đảm sự tham vấn rộng rãi và đồng thuận chung của Hiệp hội cùng với sự đóng góp phù hợp của các nước thành viên.

Thứ ba,
ASEAN tiếp tục khẳng định chính sách đối ngoại rộng mở, khuyến khích các đối tác tham gia hợp tác xây dựng và đóng góp tích cực vào việc xử lý các vấn đề cùng quan tâm, vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực cũng như hỗ trợ các trọng tâm và ưu tiên của ASEAN; phát huy vai trò chủ đạo của ASEAN trong việc thúc đẩy xây dựng một cấu trúc khu vực trên cơ sở các tiến trình hợp tác khu vực hiện có và phù hợp với lợi ích, đặc thù của khu vực. Các đối tác coi trọng quan hệ với ASEAN, đẩy mạnh hợp tác với ASEAN về kinh tế, thương mại, giáo dục, khoa học - công nghệ, các vấn đề xuyên quốc gia…; ủng hộ ASEAN xây dựng cộng đồng, triển khai kết nối, phát triển tiểu vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển... Các nước cũng hoan nghênh Nga và Mỹ lần đầu tiên chính thức tham dự EAS; mong muốn hai nước này sẽ chung tay hợp tác và đóng góp tích cực vào hòa bình, an ninh và phát triển ở khu vực.

Thứ tư,
về các vấn đề khu vực và quốc tế, các nhà lãnh đạo nhấn mạnh việc tăng cường hơn nữa các nỗ lực vì hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực; đồng thời cần dành ưu tiên cao cho hợp tác và nâng cao năng lực ứng phó hiệu quả với những thách thức đang nổi lên như biến đổi khí hậu, thiên tai, an ninh hàng hải, an ninh năng lượng, lương thực, quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước... Tại Hội nghị, các nước đã chia sẻ sự cảm thông, tình đoàn kết và sẵn sàng hỗ trợ các nước chịu hậu quả nặng nề do thiên tai, bão lụt, động đất, sóng thần như Thái Lan, Campuchia, Philippines, Myanmar, Việt Nam, Nhật Bản… Về vấn đề Biển Đông, Hội nghị nhấn mạnh hòa bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông, trong đó có an ninh và an toàn hàng hải, là lợi ích chung của khu vực và tất cả các nước; các bên liên quan cần giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS), thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), hướng tới xây dựng một Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).

Kết thúc các Hội nghị, các nhà lãnh đạo các nước ASEAN và đối tác đã ký và thông qua nhiều văn kiện quan trọng như Tuyên bố Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng các quốc gia toàn cầu; Tuyên bố EAS về các nguyên tắc quan hệ cùng có lợi và về Kết nối ASEAN; Tuyên bố chung của ASEAN với Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Liên hợp quốc…


- Xin Bộ trưởng cho biết sự tham gia và đóng góp của Việt Nam vào thành công của các hội nghị cấp cao lần này?


Bộ trưởng Phạm Bình Minh:
Đoàn cấp cao Việt Nam tham dự Hội nghị do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu. Phát huy thành công Năm Chủ tịch ASEAN 2010 của Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Đoàn ta đã có những đóng góp quan trọng với tinh thần "chủ động, tích cực và có trách nhiệm" vào các trọng tâm ưu tiên của ASEAN và khu vực, trong đó có xây dựng Cộng đồng ASEAN, Kết nối ASEAN; bảo đảm đoàn kết và tăng cường vai trò chủ đạo của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình; phối hợp lập trường tại các diễn đàn quốc tế như APEC, ASEM, G20, Liên hợp quốc... và làm sâu sắc quan hệ với các đối tác, cùng đóng góp thiết thực vào hòa bình, ổn định và ứng phó với các thách thức đang nổi lên ở khu vực; tăng cường liên kết khu vực, thu hẹp khoảng cách phát triển, phát triển bền vững, trong đó có tiểu vùng Mekong.

Hòa bình, an ninh, an toàn và tự do hàng hải ở khu vực và ở Biển Đông là quan tâm và lợi ích chung của khu vực và các nước có liên quan, vì vậy khu vực và các nước cần chung tay vì mục tiêu này. Bên cạnh đó, ASEAN sẽ tiếp tục phát huy hiệu quả các công cụ và cơ chế hợp tác chính trị - an ninh của ASEAN như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC), Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)... nhằm góp phần thúc đẩy hòa bình, an ninh và hợp tác phát triển ở khu vực cũng như tăng cường và phát huy vai trò chủ đạo của ASEAN đóng góp vào mục tiêu trên. Các nước cần giải quyết các tranh chấp thông qua biện pháp hòa bình; tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS), bảo đảm tôn trọng và thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC, sớm xây dựng COC; đồng thời cần tiếp tục tăng cường hợp tác về các vấn đề trên biển khác, trong đó có an ninh và an toàn cho các tuyến đường hàng hải, cứu hộ, cứu nạn trên biển, phòng chống cướp biển, các tội phạm trên biển... trên cơ sở luật pháp quốc tế và UNCLOS.


Về vấn đề Mekong, ta đã trao đổi với các nước Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan về thúc đẩy phát triển, sử dụng, bảo tồn và quản lý bền vững nguồn nước sông Mekong; đề nghị cùng nghiên cứu một cách khoa học, tổng thể và hệ thống nhằm sử dụng hợp lý nguồn nước Mekong, bảo đảm phát triển bền vững cho các nước hạ nguồn cũng như thượng nguồn. Ta cũng phối hợp chặt chẽ với các nước này đề nghị Nhật Bản giúp tiến hành một nghiên cứu tổng thể về tác động môi trường và xã hội trước khi quyết định xây dựng các công trình trên dòng chính sông Mekong.


Với tư cách nước Điều phối quan hệ đối thoại tại Cấp cao kỷ niệm ASEAN-Trung Quốc (2009-2012), chúng ta đã phối hợp cùng các nước ASEAN và Trung Quốc đóng góp vào việc tăng cường hơn nữa Quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc cũng như phối hợp triển khai các hoạt động trong năm kỷ niệm 20 năm quan hệ hai bên; ASEAN và Trung Quốc cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Kế hoạch hành động giai đoạn 2011-2015, trong đó có việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC, hướng tới COC, góp phần củng cố hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực.


Bên lề các hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự Hội nghị cấp cao Mekong-Nhật Bản và có các tiếp xúc, trao đổi với lãnh đạo nhiều nước về quan hệ song phương và các vấn đề cùng quan tâm.


- Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng./.
Theo: TTXVN (21/11/2011)

20.Nhật Bản sẽ đảm nhận vai trò mới ở Biển Đông

Mạng phân tích tình báo chiến lược "Stratfor" của Mỹ gần đây có đăng bài Japan taking a new role in the South China Sea cho rằng việc Nhật Bản ký thoả thuận hợp tác quân sự với Philíppin cho thấy nước này dường như đang xem xét việc can dự lớn hơn vào những tranh chấp ở Biển Đông. 


Trong chuyến thăm của Tổng thống Philíppin Benigno Aquino đến Nhật Bản từ ngày 25 - 27/9, Philíppin và Nhật Bản đã ký thoả thuận hợp tác quân sự để mở rộng các cuộc tập trận hải quân chung và các cuộc đàm phán định kỳ giữa các quan chức hải quân.
Thoả thuận đã đưa quan hệ của hai nước vượt qua các mối quan hệ kinh tế truyền thống và bước vào lĩnh vực an ninh. Tổng thống Benigno Aquino đã nói trước chuyến đi của mình rằng ông cũng tìm kiếm sự ủng hộ của Chính phủ Nhật Bản trong các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. 
Mặc dù tránh can dự trực tiếp vào những tranh chấp ở Biển Đông, nhưng lợi ích của Nhật Bản ở Biển Đông là lâu dài và thực tế, có liên quan đến các mối lo ngại địa lý trực tiếp của nước này: đảm bảo việc tiếp cận các tuyến đường thương mại và các nguồn tài nguyên mà quốc đảo này thiếu. Hồi đầu năm nay, những căng thẳng ở Biển Đông tăng lên giữa Trung Quốc, Philíppin và Việt Nam vì Bắc Kinh ngày càng khẳng định những đòi hỏi về lãnh thổ của mình. Trong khi đó, Nhật Bản cũng coi việc ảnh hưởng của Trung Quốc tăng lên nhanh chóng là một thách thức đối với vị thế vốn vững chắc của Tôkyô ở Đông Nam Á. Nhật Bản cũng coi sự thống trị của Trung Quốc ở Biển Đông là mối đe dọa đối với tuyến đường biển then chốt của nước này và đối với tầm ảnh hưởng chiến lược của chính mình. Khi các nước có khẳng định chủ quyền ở Biển Đông khác tìm kiếm sự cộng tác để củng cố các luận điểm của họ và khi Mỹ khôi phục lại sự can dự của mình ở khu vực, Tôkyô có thể sử dụng những tranh chấp ở Biển Đông để xác lập lại vị thế của mình ở Đông Nam Á. 
Lợi ích của Nhật Bản ở Đông Nam Á 
Nhật Bản đã hoạt động tích cực ở Biển Đông vì công cuộc công nghiệp hoá buộc nước này phải bảo vệ các tuyến đường thương mại và tìm kiếm các nguồn tài nguyên. Điều này song hành với công cuộc quân sự hoá và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Nhật Bản. Nhật Bản đã bắt đầu khai thác ở quần đảo Trường Sa từ năm 1918 và chiếm đóng quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai để triển khai quân sự của nước này tại châu Á - Thái Bình Dương. 
Sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, chính sách của Nhật Bản là để trở thành nhà lãnh đạo về kinh tế ở Đông Nam Á, chủ yếu thông qua viện trợ và đầu tư, và để xây dựng lòng tin giữa các quốc gia trong khu vực với một học thuyết quân sự hạn chế. Từ năm 1977 đến 1992, viện trợ phát triển của Nhật Bản cho các nước Đông Nam Á đã tăng từ 1,42 tỷ lên 50 tỷ USD. Trong khoảng thời gian này, Nhật Bản đã giành được ảnh hưởng đáng kể đối với Đông Nam Á và can dự nhiều vào các công việc của khu vực. 
Tuy nhiên, kể từ thập niên 1990, ảnh hưởng của Nhật Bản ở khu vực đã giảm đáng kể do những hạn chế về kinh tế và chính trị ở trong nước và do những thách thức nổi lên từ các đối thủ khu vực, đặc biệt là Trung Quốc. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Biển Đông không còn quan trọng đối với Nhật Bản. Việc nhập khẩu dầu mỏ và các nguyên liệu thô có ý nghĩa sống còn với một nước nghèo năng lượng và tài nguyên như Nhật Bản. Hiện tại, Nhật Bản phụ thuộc gần như 100% vào dầu thô nhập khẩu, 88% số đó lại được vận chuyển qua Biển Đông. Hơn nữa, eo biển Malắcca là một tuyến vận chuyển quan trọng để hàng hoá của Nhật Bản đi ra các thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, những hạn chế của Nhật Bản cùng với sự quan tâm yếu đi của Mỹ đối với khu vực đã cho phép Trung Quốc sử dụng ảnh hưởng chính trị và kinh tế đang tăng lên của nước này để coi mình là một cường quốc đang nổi lên ở khu vực Đông Nam Á. 
Những lo ngại của khu vực đối với Trung Quốc 
Trong 5 năm qua, chiến lược biển và việc phát triển quân sự của Trung Quốc đã tạo ra những lo ngại trong các quốc gia Đông Nam Á về việc Trung Quốc xây dựng quân đội và sự hồi sinh những căng thẳng ở Biển Đông. Những diễn biến này cũng thu hút sự chú ý của Nhật Bản, nước coi thái độ ngày càng gây hấn của Trung Quốc ở các vùng biển là môt mối đe dọa tiềm tàng đối với các tuyến đường cung ứng của Nhật Bản. Nhật Bản cũng có những tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc liên quan đến quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) ở Biển Hoa Đông và đã dẫn đến các cuộc tranh cãi thường xuyên với Bắc Kinh liên quan đến các dự án thăm dò chung. Đối với Nhật Bản, việc Trung Quốc tăng cường quân đội và những đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông không chỉ cho thấy cách tiếp cận tương tự có thể được sử dụng trong những tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản, mà còn cho thấy Trung Quốc muốn có một vai trò thống trị hơn trong các công việc ở Đông Nam Á. 
Trước đây, Nhật Bản không muốn thách thức trực tiếp Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, gần đây, Tôkyô đã có thái độ mạnh mẽ hơn trong các vấn đề của khu vực, đặc biệt là liên quan đến Biển Đông. Do những căng thẳng ở vùng biển này đã gia tăng mức độ cao mới hồi đầu năm nay, Nhật Bản đã nhiều lần lên tiếng bày tỏ lo ngại đối với sự thống trị các vùng biển của Trung Quốc tại các cuộc họp của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và hỗ trợ các quốc gia có liên quan kêu gọi sự quan tâm chú ý lớn hơn đến vấn đề an ninh khu vực. 
Nhật Bản dường như cũng đã thúc đẩy những nỗ lực của mình để làm Oasinhtơn quan tâm hơn đến Biển Đông. Điều này được thể hiện thông qua ý định của Tôkyô thúc đẩy một khuôn khổ cho sự hợp tác Mỹ - Nhật Bản cùng với các nước ASEAN để ép Trung Quốc tuân thủ các quy định quốc tế. Nhật Bản cũng thúc đẩy sáng kiến hợp tác với Mỹ và Hàn Quốc để xoa dịu những căng thẳng ở Biển Đông và đề xuất các cuộc đối thoại Mỹ - Ấn Độ - Nhật Bản về các vấn đề an ninh khu vực. Tiếp đó, Lực lượng phòng vệ hải quân Nhật Bản (JMSDF) hồi đầu năm nay đã triển khai đến Biển Đông để tham gia một cuộc diễn tập quân sự nhỏ với Mỹ và Ôxtrâylia ở ngoài khơi Brunây. 

Vai trò có thể thay đổi của Nhật Bản 
Nhiều thay đổi đã làm cho Nhật Bản có thể sử dụng những căng thẳng ở Biển Đông để có quan điểm mạnh mẽ hơn đối với Trung Quốc. Thứ nhất, nhờ Mỹ lại quan tâm đến những công việc ở châu Á – Thái Bình Dương, Nhật Bản - đồng minh hùng mạnh nhất của Mỹ ở khu vực, đã chịu áp lực từ Oasinhtơn phải đảm nhận vai trò lớn hơn trong các công việc của khu vực nhằm đối trọng với Trung Quốc. Trong thập kỷ qua, Nhật Bản đã dần rời xa cái ô an ninh của Mỹ và bắt đầu chịu trách nhiệm nhiều hơn trong việc bảo vệ mình. Điều này, cùng với sức mạnh kinh tế tăng lên và sự hiện đại hoá và mở rộng quân sự của Trung Quốc ở khu vực, đã làm cả Oasinhtơn và Tôkyô phải xem xét lại các mối quan hệ của mình với Bắc Kinh. Lợi ích của Nhật Bản trong việc bảo vệ tuyến đường biển của mình trước sự xâm lấn của Trung Quốc đã làm Tôkyô có thêm động cơ đảm nhận một vai lớn hơn trong vấn đề an ninh khu vực. 
Thứ hai, Nhật Bản có thể muốn tiếp tục mở rộng vai trò của JMSDF để giải quyết vấn đề dễ bị tổn thương của tuyến đường cung cấp năng lượng và mối đe dọa chung do Trung Quốc gây ra - cả hai điều này đang ngày càng trở nên quan trọng. JMSDF được xem là một trong những lực lượng hải quân tinh vi và giỏi nhất thế giới, nhưng những ký ức còn lại của Chiến tranh Thế giới thứ Hai và những quan niệm của công chúng về quân đội Nhật Bản đã cản trở mạnh mẽ sự phát triển của nó. Những quan niệm này thể hiện những dấu hiệu của sự thay đổi dần dần, làm cho Tôkyô dễ dàng hơn trong việc ủng hộ triển khai quân đội vì mục đích nhân đạo và ở nước ngoài, như người ta đã thấy khi JMSDF phản ứng với thảm họa sau động đất và sóng thần 11/3. Do đó, sự gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông có thể giúp thanh minh cho các chiến dịch của JMSDF.
Cho đến nay, việc mở rộng vai trò của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản (JSDF) mới chủ yếu tập trung vào việc cứu trợ thiên tai hoặc các nhiệm vụ gìn giữ hoà bình, nhưng nhiệm vụ chống cướp biển ngoài khơi Xômali và căn cứ không quân ở Gibuti cho thấy ý định của Tôkyô tăng cường sự hiện diện hoà bình của JSDF ở nước ngoài. Việc huấn luyện song phương JMSDF với các quốc gia Đông Nam Á có thể là sự bắt đầu của một sự can dự quân sự lớn hơn ở Biển Đông nói riêng. 
Cuối cùng, Nhật Bản cũng đã theo đuổi mối quan hệ an ninh song phương và đa phương với các nước khác trong khu vực, với sự tham gia của Mỹ. Tôkyô đã hợp tác quốc phòng với các nước, bao gồm Philíppin và Việt Nam - cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông, và Ấn Độ, nước có lợi ích chiến lược trong việc kiềm chế sự mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc. Một số hội nghị thượng đỉnh song phương liên quan đến quốc phòng và các cuộc đối thoại ba bên bao gồm cả Mỹ cũng đã được đưa ra. Các quốc gia Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông tin rằng hợp tác với Nhật Bản có thể làm tăng sức mạnh của họ trong các cuộc đàm phán với Trung Quốc, thu hút sự chú ý quốc tế đối với những tranh chấp lãnh thổ. Hơn nữa, hợp tác với Nhật Bản còn là một cơ hội rất tốt đối với Philíppin. Mặc dù dường như việc Nhật Bản quan tâm đến Biển Đông là một phần trong chiến lược của nước này để giành lại ảnh hưởng ở Đông Nam Á khi mà Trung Quốc ngày càng gây hấn, nhưng Tôkyô dường như vẫn tiếp cận một cách thận trọng để tránh nguy cơ căng thẳng hơn với Bắc Kinh. Vẫn chưa rõ liệu chính phủ mới của Nhật Bản muốn có quan điểm quyết đoán chống lại Trung Quốc trong các vấn đề biển hay không. Cho đến nay, nội các mới của Nhật Bản dường như không có kế hoạch cho bất kỳ một bước đi mạnh mẽ nào trong lĩnh vực này. Trước khi thực hiện một bước đi lớn nhằm tái thể hiện vai trò của mình ở Đông Nam Á, Tôkyô có thể phải tập hợp sự ủng hộ chính trị và cân đối cho phù hợp với chiến lược chung của Mỹ ở khu vực./.
Theo Stratfor
Hồng Hạnh(gt)
http://www.nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/2123-2123

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2011

19.Tăng cường hợp tác ASEAN trong các vấn đề toàn cầu


Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Tuyên bố “Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng các Quốc gia toàn cầu” - Ảnh: Chinhphu.vn
Chiều 17/11, trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 19, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố “Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng các Quốc gia toàn cầu”; khẳng định sự tăng cường phối hợp và hợp tác ASEAN trong các vấn đề toàn cầu.

Tuyên bố khẳng định tăng cường phối hợp và hợp tác ASEAN trong các vấn đề toàn cầu, các vấn đề quan tâm chung tại các diễn đàn đa phương, các tổ chức quốc tế, nhằm hướng tới xây dựng lập trường chung của ASEAN và tăng cường sự đóng góp của ASEAN trên các vấn đề toàn cầu, qua đó nâng cao vai trò và tiếng nói của ASEAN trong khu vực và trên thế giới.
Các nguyên tắc được nêu lên trong Tuyên bố là tôn trọng Luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc, Hiến chương ASEAN, dựa trên các văn kiện quan trọng đã ký của ASEAN và có tính đến nội luật của các quốc gia thành viên của Hiệp hội.
Định hướng của Tuyên bố nêu rõ, việc xây dựng lập trường chung và định hướng hợp tác của ASEAN về các vấn đề toàn cầu sẽ dựa trên cơ sở một Cộng đồng ASEAN vững mạnh với các nguyên tắc cơ bản, giá trị và bản sắc ASEAN; ASEAN sẽ tiếp tục phát huy vai trò là động lực thúc đẩy hợp tác khu vực, là trung tâm kết nối các mối liên kết khu vực trên nhiều tầng nấc khác nhau, góp phần vào hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực; đồng thời Hiệp hội sẽ không ngừng nâng cao năng lực và trách nhiệm nhằm ứng phó hiệu quả với các thách thức toàn cầu.
Tuyên bố sẽ được triển khai đồng bộ trên cả ba trụ cột Cộng đồng; Hội đồng Điều phối ASEAN (ACC) giữ vai trò điều phối và các quan chức cao cấp ASEAN trong các lĩnh vực hợp tác, Uỷ ban Đại diện thường trực tại ASEAN (CPR) và Ban thư ký ASEAN đóng vai trò giúp việc.
Các biện pháp được đề ra là tôn trọng các nguyên tắc về độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ; giải quyết bằng biện pháp hòa bình các tranh chấp; không xâm lược hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; xây dựng văn hóa hòa bình, tôn trọng tính đa dạng.
Ứng phó hiệu quả với tội phạm xuyên quốc gia; bảo đảm an toàn hàng hải; tăng cường hợp tác chống khủng bố. Thúc đẩy không phổ biến vũ khí; giải trừ vũ khí; ủng hộ thành lập khu vực phi hạt nhân; sớm thúc đẩy 5 nước sở hữu vũ khí hạt nhân thamg gia Hiệp ước SEANWFZ.
Ủng hộ thu hẹp khoảng cách phát triển, tiến tới một khu vực hội nhập  đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu; tăng cường năng lực của ASEAN với mục tiêu trở thành một nhân tố  vững mạnh và năng động hơn trong hệ thống cung cấp toàn cầu.
Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế liên quan nhằm  đưa tính năng động kinh tế, thịnh vượng bền vững và  tăng trưởng đồng đều lên mức độ cao hơn.
Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN ký Hiệp định về việc thành lập Trung tâm điều phối ASEAN về hỗ trợ nhân đạo đối với quản lý thiên tai - Ảnh: Chinhphu.vn
Xây dựng năng lực để ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai; tăng cường nhận thức và sự tham gia của công chúng và tăng cường phối hợp quân-dân sự nhằm ứng phó hiệu quả, kịp thời các thiên tai chính; xây dựng hệ thống cảnh báo sớm cho khu vực; tăng cường công tác điều phối phòng, chống và khắc phục thiên tai.
Đảm bảo nỗ lực liên tục hướng tới sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bền vững về môi trường nhằm hạn chế tác động tiêu cực đến việc đạt được các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs).
Về Y tế, Khoa học kỹ thuật, Giáo dục, Nguồn nhân lực, Văn hóa và Chất lượng sống cao, đảm bảo cơ hội tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe với mức giá hợp lý, thông qua tăng cường chuyển giao công nghệ, nghiên cứu và phát triển, thiết lập mạng lưới các viên khoa học kỹ thuật, tăng cường phối hợp với các tổ chức giáo dục khu vực và quốc tế và thúc đẩy giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Chiều cùng ngày, các nhà lãnh đạo ASEAN đã chứng kiến Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN ký Hiệp định về việc thành lập Trung tâm điều phối ASEAN về hỗ trợ nhân đạo đối với quản lý thiên tai và Bộ trưởng Kênh Văn hóa Xã hội ASEAN ký Tuyên bố ASEAN về đoàn kết trong đa dạng văn hóa: Tiến tới củng cố Cộng đồng ASEAN.
Theo VGPNews
Tăng cường hợp tác ASEAN trong các vấn đề toàn cầu
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Tuyên bố “Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng các Quốc gia toàn cầu” - Ảnh: Chinhphu.vn
Chiều 17/11, trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 19, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố “Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng các Quốc gia toàn cầu”; khẳng định sự tăng cường phối hợp và hợp tác ASEAN trong các vấn đề toàn cầu.

Tuyên bố khẳng định tăng cường phối hợp và hợp tác ASEAN trong các vấn đề toàn cầu, các vấn đề quan tâm chung tại các diễn đàn đa phương, các tổ chức quốc tế, nhằm hướng tới xây dựng lập trường chung của ASEAN và tăng cường sự đóng góp của ASEAN trên các vấn đề toàn cầu, qua đó nâng cao vai trò và tiếng nói của ASEAN trong khu vực và trên thế giới.
Các nguyên tắc được nêu lên trong Tuyên bố là tôn trọng Luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc, Hiến chương ASEAN, dựa trên các văn kiện quan trọng đã ký của ASEAN và có tính đến nội luật của các quốc gia thành viên của Hiệp hội.
Định hướng của Tuyên bố nêu rõ, việc xây dựng lập trường chung và định hướng hợp tác của ASEAN về các vấn đề toàn cầu sẽ dựa trên cơ sở một Cộng đồng ASEAN vững mạnh với các nguyên tắc cơ bản, giá trị và bản sắc ASEAN; ASEAN sẽ tiếp tục phát huy vai trò là động lực thúc đẩy hợp tác khu vực, là trung tâm kết nối các mối liên kết khu vực trên nhiều tầng nấc khác nhau, góp phần vào hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực; đồng thời Hiệp hội sẽ không ngừng nâng cao năng lực và trách nhiệm nhằm ứng phó hiệu quả với các thách thức toàn cầu.
Tuyên bố sẽ được triển khai đồng bộ trên cả ba trụ cột Cộng đồng; Hội đồng Điều phối ASEAN (ACC) giữ vai trò điều phối và các quan chức cao cấp ASEAN trong các lĩnh vực hợp tác, Uỷ ban Đại diện thường trực tại ASEAN (CPR) và Ban thư ký ASEAN đóng vai trò giúp việc.
Các biện pháp được đề ra là tôn trọng các nguyên tắc về độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ; giải quyết bằng biện pháp hòa bình các tranh chấp; không xâm lược hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; xây dựng văn hóa hòa bình, tôn trọng tính đa dạng.
Ứng phó hiệu quả với tội phạm xuyên quốc gia; bảo đảm an toàn hàng hải; tăng cường hợp tác chống khủng bố. Thúc đẩy không phổ biến vũ khí; giải trừ vũ khí; ủng hộ thành lập khu vực phi hạt nhân; sớm thúc đẩy 5 nước sở hữu vũ khí hạt nhân thamg gia Hiệp ước SEANWFZ.
Ủng hộ thu hẹp khoảng cách phát triển, tiến tới một khu vực hội nhập  đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu; tăng cường năng lực của ASEAN với mục tiêu trở thành một nhân tố  vững mạnh và năng động hơn trong hệ thống cung cấp toàn cầu.
Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế liên quan nhằm  đưa tính năng động kinh tế, thịnh vượng bền vững và  tăng trưởng đồng đều lên mức độ cao hơn.
Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN ký Hiệp định về việc thành lập Trung tâm điều phối ASEAN về hỗ trợ nhân đạo đối với quản lý thiên tai - Ảnh: Chinhphu.vn
Xây dựng năng lực để ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai; tăng cường nhận thức và sự tham gia của công chúng và tăng cường phối hợp quân-dân sự nhằm ứng phó hiệu quả, kịp thời các thiên tai chính; xây dựng hệ thống cảnh báo sớm cho khu vực; tăng cường công tác điều phối phòng, chống và khắc phục thiên tai.
Đảm bảo nỗ lực liên tục hướng tới sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bền vững về môi trường nhằm hạn chế tác động tiêu cực đến việc đạt được các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs).
Về Y tế, Khoa học kỹ thuật, Giáo dục, Nguồn nhân lực, Văn hóa và Chất lượng sống cao, đảm bảo cơ hội tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe với mức giá hợp lý, thông qua tăng cường chuyển giao công nghệ, nghiên cứu và phát triển, thiết lập mạng lưới các viên khoa học kỹ thuật, tăng cường phối hợp với các tổ chức giáo dục khu vực và quốc tế và thúc đẩy giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Chiều cùng ngày, các nhà lãnh đạo ASEAN đã chứng kiến Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN ký Hiệp định về việc thành lập Trung tâm điều phối ASEAN về hỗ trợ nhân đạo đối với quản lý thiên tai và Bộ trưởng Kênh Văn hóa Xã hội ASEAN ký Tuyên bố ASEAN về đoàn kết trong đa dạng văn hóa: Tiến tới củng cố Cộng đồng ASEAN.
Theo VGPNews