Vào
những năm cuối của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI, Mỹ Latinh
- khu vực từng được Mỹ coi là “sân sau” của mình, đã thu hút sự chú ý
của thế giới bằng những chuyển động mới, mạnh mẽ trên cả bình diện chính
trị và kinh tế.
Sự lên ngôi của nhiều chính phủ thiên tả
Đây
là khoảng thời gian mà trào lưu cánh tả ở Mỹ Latinh dâng cao bằng những
thắng lợi liên tiếp, dẫn tới sự lên ngôi của các chính đảng thiên tả.
Các đảng và phong trào cánh tả đã giành thắng lợi qua tuyển cử và lên
nắm chính quyền ở một loạt nước, như Bolivia (năm 2006), Venezuela (năm
1999 và năm 2006), Chile (năm 2000 và năm 2006), Brasil (năm 2002 và năm
2006), Nicaragoa (năm 2006), Ecuador (năm 2006), Achentina (năm
2007)...
Giương
cao ngọn cờ chống sự can thiệp, áp đặt từ bên ngoài, các chính phủ
thiên tả chủ trương thực hiện đường lối độc lập dân tộc, từng bước thoát
khỏi sự lệ thuộc vào các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Cải thiện đời
sống cho người dân, giải quyết các vấn đề xã hội, thu hẹp chênh lệch
giàu - nghèo... là những ưu tiên hàng đầu của các đảng cánh tả. Một số
chính phủ đã tiến hành những cải cách chính trị, kinh tế, xã hội, tìm
kiếm những mô hình phát triển mới của riêng mình phù hợp với thực tiễn
của thế kỷ XXI. Venezuela đưa ra lý thuyết về “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ
XXI”, còn Bolivia thì có ý tưởng xây dựng mô hình chung sống toàn cầu
khác với mô hình tư bản chủ nghĩa hiện tại, “sống lành mạnh, cân bằng và
hòa đồng với thiên nhiên”. Tổng thống Bolivia E-vô Mô-ra-let đã tiến
hành quốc hữu hóa toàn bộ các mỏ dầu khí và quặng khoáng sản nhằm bảo
đảm lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường của đất nước trong việc khai
thác tài nguyên thiên nhiên. Còn Tổng thống Achentina Cristina Fernández
nhấn mạnh tới nhu cầu tìm ra những mô hình phát triển kinh tế mới công
bằng và bình đẳng hơn.
Đồng
thời với những cải cách trong nước, chính phủ nhiều nước còn mở rộng
hợp tác khu vực, thực hiện chính sách đa phương hóa, tăng cường quan hệ
hợp tác đối thoại với các nước trên thế giới; đẩy mạnh các hoạt động đối
ngoại với các nước thuộc Phong trào không liên kết, các nước xã hội chủ
nghĩa; chống chủ nghĩa đế quốc, ủng hộ cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc trên thế giới.
Nhiều
nước Mỹ Latinh đã ủng hộ Cuba, yêu cầu Mỹ chấm dứt cấm vận đối với đất
nước này. Chính phủ cánh tả nhiều nước trong khu vực đã thiết lập lại
quan hệ ngoại giao đầy đủ với Cuba. Bất chấp sự phản đối của Mỹ, ngày
3-6-2009, Tổ chức các nước châu Mỹ (OAS) đã bãi bỏ nghị quyết khai trừ
Cuba ra khỏi OAS, mở đường cho việc Cuba tái gia nhập tổ chức này một
cách “vô điều kiện”.
Kinh tế phát triển nhanh và đều khắp
Bên
cạnh những chuyển động tích cực về chính trị ở một số quốc gia trong
khu vực, Mỹ Latinh cũng bước đầu khẳng định tiềm năng và sức sống của
mình trong phát triển kinh tế, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu năm 2008, thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau:
Đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Trong
những năm đầu của thế kỷ XXI, kinh tế Mỹ Latinh đạt mức tăng trưởng ổn
định. Theo báo cáo của ủy ban Kinh tế Mỹ Latinh và Caribe (CEPAL), năm
2006, nền kinh tế khu vực này đạt mức tăng trưởng 5,3%/năm, trong đó,
Achentina, Cuba và Venezuela đạt mức tăng trưởng cao nhất (khoảng 8%).
Riêng Cuba đạt 12,5%, tiếp đến là Peru, Panama và Chile đạt khoảng 6% (1) .
Cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008 và tiếp đó là suy thoái kinh tế toàn cầu
đã tác động tiêu cực đến các nền kinh tế khu vực Mỹ Latinh, tuy nhiên
những biện pháp do các chính phủ áp dụng đã phát huy tác dụng, đưa kinh
tế khu vực này nhanh chóng ra khỏi khủng hoảng, thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng. Theo báo cáo của CEPAL năm 2010, sau khi giảm 1,9% năm 2009, năm
2010, nền kinh tế khu vực Mỹ Latinh và Caribe đạt tốc độ tăng trưởng
nhanh hơn các dự báo, với tốc độ tăng trưởng trung bình toàn khu vực lên
tới 6%, mức tăng GDP tính theo đầu người đạt trung bình 4,8%. Các nước
Nam Mỹ đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất với 6,6%, các nước Trung Mỹ và
Mexico đạt 4,9%. Đồng thời, tỷ lệ thất nghiệp cũng giảm từ 8,2% năm 2009
xuống 7,6% năm 2010, chất lượng việc làm cũng được cải thiện. Tổng Thư
ký Ủy ban Kinh tế Mỹ Latinh và Caribe của Liên hợp quốc (ECLAC), bà
Alicia Bárcena, cho biết, kinh tế khu vực này có thể đạt mức tăng trưởng
từ 4% - 4,5% trong năm 2011. Brasil và Mexico là hai nước đứng đầu khu
vực về tốc độ tăng trưởng.
Tăng trao đổi thương mại, đa dạng hóa đối tác trao đổi thương mại. Kim
ngạch xuất khẩu của khu vực Mỹ Latinh và Caribe trong năm 2009 giảm 24%
(mức giảm kỷ lục trong vòng một năm tại khu vực kể từ năm 1937) so với
năm trước đó do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh
tế toàn cầu. Tuy nhiên, đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của khu vực
này đã tăng 29% so với năm 2009, đạt 853 tỉ USD, trong đó trao đổi
thương mại giữa các nước trong khu vực tăng 17,5%. Các nước Mỹ Latinh
đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại với các nước trên thế giới, nhất là
với EU, Trung Quốc, Nga và Ấn Độ. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực Mỹ
Latinh và Caribe sang Trung Quốc tăng tới 50%. Xuất khẩu của khối Thị
trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) tăng 28%, đứng đầu là Paragoay với mức
tăng 39,7%, tiếp đến là Brasil, Urugoay và Achentina có mức tăng tương
ứng là 29,7%; 24,6% và 24%. Bên cạnh đó, xuất khẩu của các nước thuộc
Cộng đồng Andes cũng tăng tới 28%, đứng đầu là Peru (35,2%), tiếp đến là
Ecuador (28,8%) và Colombia (21,2%). Kim ngạch xuất khẩu của các nước
Trung Mỹ tăng 14,1%, đứng đầu là Nicaragoa với mức tăng 30%.
Trong
trao đổi thương mại với Mỹ, năm 2010, các nước trong khu vực đạt kim
ngạch cao kỷ lục (636,262 tỉ USD), tăng 27,3% so với năm 2009. Kim ngạch
xuất khẩu của Mỹ sang các nước Mỹ Latinh cũng tăng 27,1%, đạt 285,809
tỉ USD; kim ngạch nhập khẩu tăng 27,3%, đạt 350,453 tỉ USD. Mexico là
đối tác thương mại khu vực lớn nhất của Mỹ với tổng kim ngạch trao đổi
hai chiều đạt 87,429 tỉ USD. Coxta Rica là quốc gia có mức tăng trưởng
xuất khẩu sang Mỹ cao nhất ở khu vực với 55,2%.
Cùng
với việc các nền kinh tế Mỹ Latinh đa dạng hóa quan hệ với các nước, mở
rộng thị trường thì các nước, các khu vực khác nhau trên thế giới cũng
đẩy mạnh việc tiếp cận các nền kinh tế Mỹ Latinh. Hiện nay, các quốc gia
A rập là bạn hàng thương mại lớn thứ ba của khu vực, với kim ngạch xuất
khẩu đạt 10 tỉ USD trong năm 2010, chiếm tới 11% tổng kim ngạch xuất
khẩu của nước này. Tháng 10-2010, Quỹ Qata của Qata đã đầu tư 2 tỉ USD
để mua lại 5% cổ phần của Ngân hàng Santander (Brasil), Vale, tập đoàn
khoáng sản hàng đầu của Brasilvà thế giới, đang xây dựng một nhà máy sản
xuất thép tại Oman với nguồn vốn đầu tư lên tới 1 tỉ USD. Bằng việc
thiết lập các đường bay thẳng giữa các thành phố (khai trương đường bay
trực tiếp giữa Dubai và São Paulo, từ Doha tới São Paulo và Buenos Aires,
khoảng cách giữa các nền kinh tế ở Tây bán cầu với Trung Đông, với thế
giới A rập dường như được thu hẹp lại. Thế giới đang chứng kiến sự xích
lại gần nhau giữa Mỹ Latinh và thế giới A rập.
Thu hút khách du lịch ngày càng nhiều.
Theo số liệu của Tổ chức Du lịch thế giới, doanh thu du lịch của khu
vực Mỹ Latinh và Caribe năm 2010 đã đạt gần 60 tỉ USD với gần 75 triệu
lượt du khách quốc tế, tăng gần 20 triệu lượt khách so với năm 2009. Chỉ
riêng đối với quốc đảo Cuba, theo Cơ quan Thống kê quốc gia Cuba, trong
năm 2010, nước này đã thu hút được 2,5 triệu lượt khách du lịch nước
ngoài (tăng 2,9% so với năm 2009), đạt doanh thu hơn 2,2 tỉ USD (tăng
5,5% so với năm 2009). Riêng trong tháng 1-2011, lượng du khách đến Cuba
tăng 26% so với cùng kỳ năm ngoái. Mức chi tiêu trung bình của du khách
nước ngoài đến Cuba cũng tăng từ 96 USD (năm 2009) lên 102 USD (năm
2010). Cùng với việc thực hiện cập nhật hóa mô hình kinh tế đã được Đại
hội VI của Đảng Cộng sản Cuba thông qua (tháng 4-2011) và việc chính
quyền của Tổng thống B.Obama tuyên bố nới lỏng hạn chế đi lại từ Mỹ đến
Cuba, lượng du khách đến “Hòn đảo Xanh” này sẽ còn tăng hơn.
Với
những lợi thế do thiên nhiên ưu đãi, du lịch đã và đang trở thành ngành
kinh tế phát triển nhanh nhất, đem lại nguồn thu cao nhất cho nhiều
nước trong khu vực, đồng thời tạo thêm nhiều việc làm, thu ngoại tệ và
góp phần thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các cộng đồng dân cư.
Giảm tỷ lệ đói nghèo, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Theo
đánh giá của Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc kiêm Giám đốc Chấp hành
ECLAC, khu vực này đã có những bước tiến đáng khích lệ trong giảm tỷ lệ
đói nghèo và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. ở hầu hết 9
nước trong khu vực được ECLAC khảo sát, tỷ lệ đói nghèo đã giảm từ giữa
năm 2008 và năm 2009. Báo cáo “Toàn cảnh xã hội khu vực Mỹ Latinh năm
2010” của ECLAC ghi nhận số người nghèo ở khu vực đã giảm xuống mức 180
triệu người trong năm 2010, tương đương với mức của năm 2008 (trước khi
xảy ra khủng hoảng tài chính thế giới). Bolivia là nước có tỷ lệ giảm
nghèo cao nhất khu vực Mỹ Latinh và Caribe, với tỷ lệ giảm từ 51% (năm
2000) xuống còn 35% (năm 2009). Tại Brasil, việc thực hiện các chính
sách xã hội, đặc biệt là triển khai chương trình xã hội “Không có người
đói” được coi là lớn nhất thế giới từ trước đến nay, trong vòng 8 năm
qua, đã đưa hơn 30 triệu người dân Brasil đứng vào hàng ngũ trung lưu.
Thành
tựu giảm nghèo trên đây là kết quả của việc thực hiện các chính sách
đổi mới, tiến hành những cải cách trong nước, gia tăng đầu tư cho giáo
dục cũng như khả năng thu hút được một khối lượng lớn vốn FDI cho đầu tư
phát triển. Ngoài ra cũng phải kể đến nhiều chính phủ đã thành công
trong việc đưa ra những chính sách giảm nhẹ tác động của khủng hoảng tài
chính, mà không làm tăng tỷ lệ người nghèo.
Gia tăng xu hướng liên kết giữa các nước, các nhóm nước trong khu vực. Liên
minh Bolivia cho châu Mỹ (ALBA), Tổ chức Hợp tác năng lượng vùng Caribê
(Petrocaribe), Liên minh các quốc gia Nam Mỹ (UNASUR), MERCOSUR... là
những không gian không chỉ bao gồm các thỏa thuận kinh tế mà còn đặt
những “viên gạch” đầu tiên cho quá trình hợp tác, hội nhập về chính trị.
Cuối tháng 4-2011, ở khu vực Mỹ Latinh đã xuất hiện thêm tiền đề cho sự
ra đời hai liên kết mới. Đó là, đại diện của 30 nước trong khu vực Mỹ
Latinh và Caribê đã nhất trí thông qua quy trình và các bước hành động
tiến tới thành lập Cộng đồng các nước Mỹ Latinh và Caribe (CELAC). CELAC
không bao gồm Mỹ và Canada, mang bản sắc riêng và thừa hưởng di sản của
tổ chức Nhóm Rio và Hội nghị thượng đỉnh Mỹ Latinh và Caribe (CALC), đề
cao nguyên tắc tôn trọng dân chủ, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
tất cả các nước thành viên, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực, bảo
vệ môi trường, nhân quyền và luật pháp quốc tế, kiến tạo hòa bình và an
ninh khu vực.
Tiếp
đó là sự kiện lãnh đạo các nước Pê-ru, Chi-lê, Cô-lôm-bi-a và Mê-hi-cô
ký Thỏa thuận Thái Bình Dương nhằm tăng cường quan hệ trong các lĩnh vực
thương mại, dịch vụ, sản xuất và mở rộng thị trường. Thỏa thuận này
được đánh giá là một công cụ để chinh phục các thị trường quốc tế, như
thị trường châu Á và MERCOSUR (hiện gồm 4 nước Achentina, Brasil,
Paragoay và Urugoay). Peru, Chile, Colombia và Mexicô được đánh giá là
các nền kinh tế mở nhất tại Mỹ Latinh và là 4 quốc gia đứng đầu trong
khu vực về ký kết các thỏa thuận tự do thương mại. Năm 2010, với thị
trường gồm 204 triệu dân, GDP của liên minh thương mại này đạt 1.400 tỉ
USD, tương đương 34,4% tổng GDP của khu vực. Kim ngạch ngoại thương của 4
quốc gia trên cũng chiếm hơn 50% tổng giá trị xuất - nhập khẩu của khu
vực, với 856 tỉ USD.
Một
hình thức liên kết khác là liên kết xuyên lục địa với sự tham gia của
Bra-xin vào nhóm các nền kinh tế đang trỗi dậy mạnh mẽ nhất trên thế
giới bao gồm Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, tạo thành nhóm BRIC. Tại cuộc gặp
đầu tiên cấp ngoại trưởng ở thành phố Ekaterinbua (Nga), các thành viên BRIC
đã ra Thông cáo chung, trong đó phản đối chủ nghĩa đơn phương và kêu
gọi các quốc gia cùng nhau xây dựng một hệ thống quan hệ quốc tế mới dân
chủ hơn và đa phương hơn... Ngoại trưởng Brasil, ông Celso Amorim tuyên
bố: “Chúng tôi đang thay đổi trật tự thế giới hiện nay”. Và mới đây,
với sự gia nhập của Nam Phi (ngày 24-12-2010), BRIC đã trở thành BRICS.
Mạng Đánh giá chính trị thế giới (Mỹ) ngày 27-1-2011 đã nói đến “một làn
gió mới” từ BRICS vì “rất có thể nó sẽ làm thay đổi bàn cờ địa - chính
trị thế giới”.
Để tiếp tục phát triển và khẳng định
Để đóng một vai trò lớn hơn trên thế giới, khu vực này còn phải vượt qua không ít rào chắn và những trở ngại không nhỏ, như:
Thứ nhất,
việc đầu tư cho nghiên cứu và phát triển còn thấp đang làm hạn chế khả
năng cạnh tranh của các nền kinh tế ở khu vực. Các nước Mỹ Latinh, trừ
Brasil, đầu tư chưa tới 1% GDP cho nghiên cứu và phát triển, trong khi
các nước công nghệ cao, ngay từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đã đầu tư
ít nhất 2% - 5% GDP.
Thứ hai, xuất
hiện nguy cơ tăng trưởng quá nóng với những dấu hiệu như lạm phát cao,
tín dụng tăng nhanh. Trong năm 2010, vốn FDI vào khu vực này đạt 112,6
tỉ USD, tăng 40% so với năm 2009. Brasil - nước đứng đầu về thu hút FDI
với 48,46 tỉ USD, đồng thời cũng là một trong số ít nền kinh tế tăng
trưởng nhanh nhất thế giới đạt tốc độ 7,5% trong năm 2010, được cảnh báo
là tăng trưởng quá nóng. Ông Nicolas Eyzaguirre, Giám đốc IMF khu vực
Tây bán cầu cảnh báo các “bong bóng” tài sản của nhiều nước Mỹ La-tinh
đang ngày càng phình to. Ngày 27-7, ECLAC nhận định, khủng hoảng nợ công
ở Mỹ sẽ tác động mạnh đến Mỹ Latinh - khu vực có dự trữ ngoại tệ bằng
USD lớn thứ hai trên thế giới (sau Trung Quốc).
Thứ ba, những yếu tố gây bất ổn chính trị.
Bên cạnh xu hướng liên kết, xích lại gần nhau giữa một số nước, giữa
các nhóm nước trong khu vực để tăng cường sức mạnh, thì những cuộc đảo
chính, những xung đột, tranh chấp lãnh thổ, cũng như những căng thẳng về
chính trị, ngoại giao ở một số quốc gia Mỹ Latinh trong thời gian qua
là những yếu tố rất bất lợi cho tăng trưởng và phát triển. Tổng Thư ký
OAS José Miguel Insulza cảnh báo rằng, sau vụ đảo chính tại Honduras
hồi tháng 6-2009 lật đổ Tổng thống hợp hiến Manuel Zelaya và cuộc đảo
chính bất thành tại Ecuado (tháng 9-2010), “Mỹ Latinh cần cảnh giác
trước nguy cơ tiếp tục xảy ra những vụ việc tương tự, bởi ngay tại Mỹ
Latinh vẫn có những nhóm người, dù chỉ là một bộ phận thiểu số, luôn sẵn
sàng lợi dụng bất cứ hoàn cảnh nào để gây bất ổn chính trị”.
Thứ tư, tình hình tội phạm, đặc biệt là tội phạm ma túy rất phức tạp.
Hoạt động buôn bán, tàng trữ, vận chuyển ma túy với quy mô lớn, cùng sự
thanh toán, bài trừ lẫn nhau giữa các băng nhóm tội phạm này là vấn đề
rất nhức nhối, đe dọa an ninh và ổn định xã hội ở nhiều nước trong khu
vực. Theo số liệu thống kê chính thức, riêng trong năm 2010, tại Mexico,
bạo lực do hoạt động buôn bán ma túy gây ra đã khiến gần 15.300 người
thiệt mạng tại Mexico. Đây là con số cao nhất kể từ năm 2006 khi Tổng
thống huy động quân đội triển khai trên toàn quốc chiến dịch truy quét
tội phạm ma túy. Qua những vụ truy quét tội phạm ma túy ở các nước trong
khu vực có thể thấy một nét chung là: điểm đến chủ yếu của ma túy, cần
sa là Mỹ, phần lớn số lượng cocain được sản xuất ở Colombia, việc vận
chuyển ma túy từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ được các băng đảng ở
nhiều nước Mỹ Latinh thực hiện trên cả đường bộ và đường biển.
Thứ năm, sự ảnh hưởng và can thiệp từ phía Mỹ.
Có một nghịch lý là, quan hệ kinh tế, thương mại Mỹ Latinh - Mỹ vẫn
tiếp tục gia tăng dù cho tâm lý phản kháng và xu hướng muốn thoát khỏi
ảnh hưởng của Mỹ có chiều hướng lan rộng. Mỹ hiện là đối tác số 1 và có
vai trò kinh tế quan trọng tại khu vực. Một số nước trong khu vực đã ký
các hiệp định tự do thương mại song phương (FTA) với Mỹ. Thêm vào đó, Mỹ
đang cố gắng thay đổi cách ứng xử với khu vực dựa trên lập luận rằng,
Mỹ Latinh “rất đa dạng” và Mỹ không thể “áp dụng cùng một chính sách và
như nhau với tất cả các quốc gia”. Khó có thể khẳng định rằng, cách ứng
xử “mềm dẻo”, có phân biệt đó sẽ không gây chia rẽ, không ảnh hưởng đến
sự gắn kết giữa các nước trong khu vực.
Rõ ràng là, trên bình
diện một thế giới rộng lớn đang đi lên phía trước nhưng với những bước
đi dích dắc bởi những diễn biến phức tạp khôn lường, thì có một Mỹ
Latinh mang nhiều khí sắc và đường nét mới, dù còn đứng trước nhiều rào
chắn, trở ngại, nhưng đang dần khẳng định là một khu động lực. Một Mỹ
Latinh có dân số trẻ với độ tuổi bình quân là 27 tuổi, đạt tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, giàu khoáng sản, lương thực, lại sở hữu tiềm năng to
lớn của cả bốn loại năng lượng hàng đầu trong thế kỷ XXI (nhiên liệu
hóa thạch, nhiên liệu sinh học, năng lượng nguyên tử, kim loại có khả
năng dự trữ năng lượng), được dự báo, sẽ đóng một vai trò ngày càng lớn
hơn trong một thế giới đang chuyển động theo xu hướng đa cực./.
------------------------------------------
(1) Các số liệu sử dụng trong bài viết được trích dẫn từ nguồn Thông tấn xã Việt Nam