Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa công bố, 8 tháng đầu năm 2011, toàn vùng ĐBSCL thu hút thêm 53 dự án FDI với số vốn 25,36 triệu USD, xếp thứ 5 trong tổng số 6 vùng cả nước, chỉ cao hơn Tây Nguyên, thấp hơn cả vùng Trung du miền núi phía Bắc. Lũy kế đến nay, ĐBSCL có 612 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 9.756 triệu USD, trong đó có hơn 4.463 triệu USD vốn điều lệ, chiếm 4,72% số dự án, 4,8% tổng vốn đăng ký và 6,7% vốn điều lệ so với cả nước, xếp thứ 4/6 vùng có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ hơn Tây Nguyên và các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc.
Từ khu vực thu hút vốn FDI sớm nhất đến … “vùng trũng”
ĐBSCL là vùng thu hút FDI sớm nhất của
cả nước, ngay từ khi Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực. Năm 1988, ĐBSCL
có 5 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 7,8 triệu USD, bằng 10% về số dự
án và 2,09% tổng vốn đầu tư của cả nước. Các dự án có vốn FDI đầu tiên
vào ĐBSCL của Liên doanh Meko lúc đó nằm trên địa bàn thành phố Cần Thơ
trong lĩnh vực chăn nuôi (Xí nghiệp gia cầm Meko), chế biến nấm rơm (Xí
nghiệp chế biến thực phẩm Meko), thuộc da (Xí nghiệp da Meko), may mặc
(Xí nghiệp may Meko) và hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu (Xí nghiệp thủ
công mỹ nghệ Meko). Đây là những ngành nghề được khuyến khích vì sử
dụng nhiều lao động, nguyên liệu nông sản và xuất khẩu.
Ở giai đoạn đầu cùng cả nước thực hiện
chính sách mở cửa kinh tế, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, ĐBSCL có
nhiều lợi thế nhờ nguồn lao động dồi dào, nhân công rẻ, là vùng nguyên
liệu nông sản lớn. Tuy nhiên, những giai đoạn tiếp theo, trong khi các
tỉnh miền Đông Nam Bộ: như Bình Dương, Đồng Nai nhanh chóng “chuyển
mình”, tận dụng lợi thế liền kề Thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm kinh
tế lớn nhất nước, đồng thời thực hiện chính sách “trải thảm đỏ”, thì các
tỉnh ĐBSCL - phía Tây Nam của Thành phố Hồ Chí Minh, lại ì ạch trong
thu hút FDI. Nguyên nhân chính là do những trở ngại vì hạ tầng giao
thông kém, nguồn lực đầu tư công hạn chế, thiếu động lực, lao động qua
đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu nhà đầu tư, chính sách thu hút đầu tư rập
khuôn, thiếu liên kết chặt chẽ để phát huy thế mạnh, hạn chế những điểm
yếu. Vì thế, mặc dù là “điểm sáng” ở thời kỳ đầu, nhưng đến nay ĐBSCL đã
thành một trong những “vùng trũng” trong “bản đồ” thu hút đầu tư cả
nước.
“Cửa ngõ” miền Tây và “Tứ giác phát triển”
Khảo sát dòng vốn FDI vào ĐBSCL thời
gian qua có thể thấy, nhiều năm liền, dòng vốn này tập trung chủ yếu ở
các tỉnh Long An, Tiền Giang, nhờ lợi thế liền kề Thành phố Hồ Chí Minh,
“cửa ngõ Miền Tây” và thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tuy về
mặt cơ chế chính sách, vốn đầu tư công… các tỉnh này chưa hưởng “qui
chế” gì đặc biệt, nhưng cũng được hưởng lợi về vị trí địa lý và cơ sở hạ
tầng nhờ sức lan tỏa từ Thành phố Hồ Chí Minh và miền Đông Nam Bộ. Năm
2010, toàn vùng ĐBSCL thu hút 1.740 triệu USD, thì có 757,6 triệu USD
thuộc Long An và Tiền Giang, chiếm 43,5% tổng vốn FDI của toàn vùng.
Tính chung đến nay, hai địa phương này thu hút 408 dự án với tổng vốn
đầu tư đăng ký là 4.028 triệu USD, chiếm 66,7% dự án và 41,3% tổng vốn
FDI của cả ĐBSCL. Thời gian gần đây, thành phố Cần Thơ - trung tâm vùng
ĐBSCL - cùng với Kiên Giang, Cà Mau và An Giang là 4 địa phương nằm
trong “Tứ giác phát triển” của vùng cũng trở thành địa bàn trọng điểm
thu hút FDI. Đến nay, các địa phương này có 92 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đầu tư 4.616 triệu USD, chiếm 47,2% tổng vốn toàn vùng.
Kết quả thu hút FDI những năm gần đây
của ĐBSCL đã có những khởi sắc nhờ những cải thiện về cơ sở hạ tầng, tập
trung đầu tư phát triển 3 khâu đột phá là: giao thông, thủy lợi, giáo
dục - đào tạo và dạy nghề; thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL,
tăng cường đầu tư cho thành phố Cần Thơ - trung tâm vùng; Phú Quốc -
Kiên Giang; trung tâm công nghiệp khí - điện - đạm Cà Mau và bước đầu
hình thành phát huy vai trò vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL. Tuy
nhiên, yêu cầu phát triển vẫn đang đặt ra cho vùng đất giàu tiềm năng
này nhiều thách thức phải vượt qua.
Cần một tầm nhìn chiến lược về thu hút FDI cho ĐBSCL
Quyết định phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 của Thủ tướng Chính phủ xác định: Vùng ĐBSCL đến năm 2050 sẽ là vùng nông sản lớn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu; là vùng kinh tế phát triển năng động, bền vững, có môi trường đầu tư thuận lợi ….
Đó là mục tiêu chiến lược của một tầm nhìn chiến lược, định vị ĐBSCL
không chỉ trong phạm vi quốc gia mà nhìn ra quốc tế. Tuy nhiên, để đạt
được mục tiêu đó, cần một tư duy phát triển và tầm nhìn chiến lược trong
thu hút FDI.
Cho đến nay, nhiều quy hoạch cấp vùng đã
được ban hành, song vẫn chưa có một chiến lược hay quy hoạch thu hút
đầu tư FDI nào cho ĐBSCL. Thiếu một chiến lược, lúng túng trong việc
tiếp cận các đối tác, nôn nóng muốn vượt lên thoát khỏi “vùng trũng” ...
là nguyên nhân dẫn đến tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh trong thu
hút đầu tư giữa các địa phương trong vùng theo kiểu “phá rào ưu đãi đầu
tư” hay đua nhau quy hoạch khu công nghiệp tràn lan … Chiến lược FDI và
tư duy kinh tế vùng trong thu hút đầu tư là động lực để các tỉnh, thành
cùng nhau chia sẻ lợi ích, chia sẻ thị trường, khai thác “lợi thế dùng
chung” của vùng về cơ sở hạ tầng như: sân bay, cảng biển, cầu đường,
các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực. Có như thế mới tránh được tình trạng
đầu tư lãng phí theo kiểu “tỉnh nào cũng có” để rồi không tỉnh nào có đủ
điều kiện đáp ứng theo yêu cầu nhà đầu tư.
Kinh tế vùng không chỉ cho ĐBSCL mà còn
cho Thành phố Hồ Chí Minh, miền Đông Nam Bộ và các kết nối các vùng khác
trong cả nước. Lợi thế của ĐBSCL không chỉ với các sản phẩm nông nghiệp
mà còn là từ vị trí địa lý chiến lược trong cục diện mới. Đó là thế
mạnh để phát triển kinh tế biển; từ đảo ngọc Phú Quốc đến tuyến hàng hải
quốc tế rất gần, tuyến hành lang kinh tế trong Tiểu vùng sông Mê Kông
mở rộng; từ thế “tựa lưng” với Thành phố Hồ Chí Minh, trông ra biển
Đông, kề vai tuyến biên giới Tây Nam, nằm trong bán kính 500 km của
ASEAN mà vùng châu thổ này là tâm điểm … đã tạo ra thế “địa kinh tế” đặc
biệt của ĐBSCL. Sự tiên phong về tư duy phát triển, gắn kết được quá
trình liên kết các chuỗi giá trị kinh tế sẽ là khâu đột phá để ĐBSCL trở
thành một cực thu hút đầu tư và tăng trưởng của quốc gia trong những
thập niên tới.
Liên kết vùng trong thu hút đầu tư FDI
Nhu cầu bức xúc hiện nay là những cơ
chế, chính sách tốt để thúc đẩy liên kết vùng, trong đó có liên kết xúc
tiến, thu hút vốn, tạo môi trường đầu tư chung, cơ sở hạ tầng dùng
chung, khắc phục tình trạng cạnh tranh bất lợi, thiếu lành mạnh, không
gian kinh tế bị chia cắt, để có sự “phân công, phân vai” giữa các địa
phương trong vùng cùng với liên kết sức mạnh cộng đồng doanh nghiệp
ĐBSCL. Liên kết vùng được xem là giải pháp có tính chiến lược nhằm đẩy
mạnh thu hút có chọn lọc nguồn vốn FDI vào vùng ĐBSCL. Các tỉnh trong
vùng, các bộ, ngành Trung ương đã có tiếng nói chung, thông qua nhiều
hoạt động như: Diễn đàn Hợp tác kinh tế ĐBSCL được tổ chức hằng năm,
thành công của Hội nghị Xúc tiến đầu tư vùng ĐBSCL năm 2010 thay cho các
hoạt động riêng lẻ, chồng chéo của các tỉnh.
Song, thực tế hoạt động xúc tiến, thu
hút đầu tư ĐBSCL trong thời gian qua còn nhiều tồn tại, nút thắt cần
tháo gỡ: Việc phân bổ vốn và tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư,
thương mại, du lịch chỉ có 2 cấp là cấp quốc gia và địa phương, “ bỏ
quên” cấp vùng; đề án tổng thể xúc tiến đầu tư - thương mại du lịch vùng
ĐBSCL với những cơ chế, chính sách đầu tư đặc thù còn chậm...
Xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài cần
dựa trên chiến lược vùng, quy hoạch chung, sự liên kết theo từng chuyên
đề, theo ngành, lĩnh vực và theo vùng. Việc khai thác tốt lợi thế các
sản phẩm mũi nhọn: lúa gạo, thủy sản, trái cây, công nghiệp năng lượng,
vùng ĐBSCL có thể trở thành địa điểm đánh dấu sự thành công lớn của các
nhà đầu tư nước ngoài. Khi mối liên kết giữa các tỉnh, thành trong vùng
sâu và đạt đến độ có thể biến những lợi thế nổi trội của từng địa
phương thành “lợi thế dùng chung” của cả ĐBSCL thì sẽ hình thành được
phong cách làm việc mới, xây dựng được một cực tăng trưởng mới của đất
nước trong các thập niên tới./.