Biển Đông có vị trí quan trọng trong chiến lược các nước lớn lục địa Á-Âu với những nước cờ nhằm phục vụ mục tiêu dài hạn bao vây và phá vây.
Trong những thập kỷ tới, nước nào có sức mạnh sẽ giành được bá quyền
tại siêu lục địa Á-Âu, đồng thời sẽ tạo được ảnh hưởng lên các dân tộc
và hai khu vực kinh tế giàu mạnh hàng đầu thế giới là Tây Âu và Đông Nam
Á. Sức mạnh bá chủ tại Á-Âu cũng sẽ gây ảnh hưởng lên châu Phi và Trung
Đông.
Giữa lúc Biển Đông đang tích tụ sóng ngầm, mạng tin Địa chính trị (Algeria) mới đây đăng bài nghiên cứu liên quan Biển Đông của Jure Vujić, luật sư, nhà địa-chính trị, nhà văn người Pháp. Bài nghị luận cung cấp một bức tranh toàn cảnh chiến lược của các nước lớn có giá trị tham khảo nhất định:
Chiến lược của Mỹ bao vây Trung Quốc
Hệ thống an ninh hải quân Mỹ hiện nay dựa vào các khu vực an ninh trụ cột: Thứ nhất, qua kênh đào Panama nối Đại Tây Dương và Thái Bình Dương; thứ hai, tuyến hàng hải nối các căn cứ hải quân Mỹ từ San Diego tới Hawai và Guam, rồi từ Guam tới Nhật Bản và Hàn Quốc; thứ ba, tuyến vòng cung kéo dài khu vực ven biển Đông Nam Á. Nhờ vào vòng cung kéo dài từ phía Bắc đảo Bornéo đến Singapore này, Mỹ đảm bảo duy trì sự hiện diện địa chiến lược tại Đông Nam Á và những vùng khác ở Đông Á.
Tàu ngầm hạt nhân lớp Ohio của Mỹ
Trung Quốc chắc chắn tiếp tục là một mối đe dọa địa chính trị đối với Nhật Bản và Hàn Quốc. Trung Quốc sẽ phải tăng cường nhập khẩu dầu lửa thêm 150% từ nay đến năm 2020. Hiện có hơn 6000 tàu của Trung Quốc sử dụng Ấn Độ Dương để vận chuyển dầu. Từ nay đến năm 2025, Trung Quốc sẽ phải nhập khẩu một lượng lớn nhiên liệu từ Trung Đông và châu Phi. Các chính sách địa-chiến lược hàng hải của Mỹ và Nhật Bản chỉ nhằm triệt hạ duy nhất tuyến đường hàng hải của Trung Quốc, từ biển Trung Quốc đến các nhánh dọc eo biển Malacca trong trường hợp xẩy ra xung đột. 80% các chuyến tàu vận chuyển dầu sử dụng tuyến đường biển huyết mạch trên.
Chiến lược "Vòng ngọc trai" của Trung Quốc
Để bảo đảm an toàn các tuyến đường biển vận chuyển năng lượng, Trung Quốc sẽ phải tránh Mỹ và Nhật Bản ở phía Đông. Nga tập trung sức mạnh hải quân ở phía Bắc. Ấn Độ kiểm soát mạn Nam Ấn Độ Dương. Chính vì vậy, Trung Quốc sẽ phải tăng cường khả năng độc lập và sức mạnh hải quân, đặc biệt tại Ấn Độ Dương. Chiến lược hải quân của Trung Quốc gồm hai mặt: thứ nhất, chống lại sự hiện diện của Mỹ tại eo biển Đài Loan; thứ hai, trong tương lai, Trung Quốc sẽ bành trướng hải quân ra Ấn Độ Dương để bao vây Ấn Độ.
Để thực hiện chiến lược hải quân mới này, Trung Quốc đã trang bị các tàu ngầm lớp Kilo. Phần thứ hai trong chương trình hiện đại hóa hải quân Trung Quốc và thiết lập vòng vây chiến lược xung quanh Ấn Độ là cái mà người ta gọi là “chuỗi vòng ngọc trai các đảo”. Chuỗi vòng này nối các căn cứ hải quân của Trung Quốc tại Sanya ở phía Nam đảo Hải Nam đến tận Trung Đông. Chuỗi vòng thứ hai kéo dài đến tận Sri Lanka và Maldives, nối vịnh Bengale với cảng Gwadar tại biển Arập và tạo thành tam giác chiến lược xung quanh Ấn Độ.
Các căn cứ hải quân Trung Quốc hình thành "Chuỗi ngọc trai" (đường xanh) bao vây Ấn Độ và tiến ra tranh bá Ấn Độ Dương. (Đường đen là tuyến vận chuyển dầu từ Trung Đông)
Trung Quốc hiện nghi ngờ Mỹ và các đồng minh bao vây Trung Quốc và khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc. Chính vì vậy, Trung Quốc cần phải bảo đảm an toàn các tuyến đường vận tải mà hiện nay đang nằm trong ưu tiên chiến lược quân sự của Trung Quốc. Các chuỗi vòng của Trung Quốc, kéo dài từ Pakistan đến Bornéo, sẽ trở thành các hành lang chiến lược tại vùng biển nối châu Phi và Trung Đông. Để đa dạng hóa các tuyến đường vận chuyển và tránh những chỗ thắt trong chuỗi các đảo, các nguồn năng lượng sẽ có thể được vận chuyển từ Sittwe và Gwadar bằng đường bộ và đường sắt dọc theo biên giới giữa Trung Quốc với Myanmar và Pakistan để vào các tỉnh Vân Nam và Tân Cương. Một khi vị trí địa chiến lược của Trung Quốc được củng cố tại Ấn Độ Dương, chuỗi vòng ngọc tương lai sẽ có thể vươn tới tận đảo Seychelles để hướng chiến lược của Trung Quốc đến tận châu Phi. Không phải là điều ngẫu nhiên mà vào năm 2008 khi Trung Quốc thông báo ý định xây dựng một tàu sân bay nhằm đảm bảo an ninh các chuỗi đảo và tăng cường hiện diện chiến lược của hải quân Trung Quốc tại Ấn Độ Dương.
Chiến lược phá bao vây của Ấn Độ và Nga
Như Trung Quốc, Ấn Độ cũng rất phụ thuộc vào các tuyến mậu dịch hàng hải. 77% lượng dầu nhập khẩu của Ấn Độ đến từ Trung Đông và châu Phi. Giám đốc Viện United Service Institution của Ấn Độ ông Arun Sahgal coi chính sách địa chính trị của Trung Quốc là chiến lược bao vây. Phía Bắc Ấn Độ là nước láng giềng Trung Quốc; phía Tây là đối thủ khu vực Pakistan đang tăng cường quan hệ với Trung Quốc; phía Đông là Banglades thân Trung Quốc và chính quyền quân sự Myanmar, trong khi phía Nam là chuỗi vòng ngọc trai các đảo của Trung Quốc bao vây Ấn Độ như một con rắn biển địa chiến lược. Chỉ có một liên minh lớn gồm các nước ven biển đảo mới cho phép phá thế bao vây này của Trung Quốc. Chiến lược Ấn Độ-Mỹ gồm liên kết các nước châu Á ven biển: Ấn Độ ở phía Tây Nam Trung Quốc; Hàn Quốc ở phía Đông Bắc; Nhật Bản và Đài Loan ở phía Đông; Philippines và Guam ở phía Đông Nam, sẽ buộc Trung Quốc phải lựa chọn thế địa chiến lược phòng thủ.
Ấn Độ đã đề phòng mối đe dọa Pakistan và Trung Quốc tăng cường quan hệ nên đã bắt đầu thực hiện bước xâm nhập địa chiến lược tại Trung Á. Năm 2006, Ấn Độ đã mở rộng ảnh hưởng tại khu vực này của lục địa Á-Âu bằng cách mở sân bay đầu tiên của Ấn Độ tại Tadjikistan. Điều này tạo cho Ấn Độ một cầu nối tiền tiêu trong khu vực.
Ấn Độ đang tăng cường tiềm lực hải quân chiến lược tại Karwar, phía Tây Nam nước này cũng như một căn cứ hàng không-hàng hải mới tại Uchipuli ở phía Đông Nam và một căn cứ quan sát tại Madagascar cho phép tập trung chỉ huy hải quân tại các đảo Andaman. Ấn Độ cũng đã xâm nhập vùng Biển Đông khi cho tàu chiến thăm vịnh Cam Ranh của Việt Nam, nơi này mở ra cho Ấn Độ khả năng thực hiện một sự phối hợp địa chiến lược hải quân và không quân cho phép Ấn Độ phát động tấn công từ biển Arập, vịnh Bengale, dọc Ấn Độ Dương và phần Tây Thái Bình Dương.
Ấn Độ tăng cường sức mạnh hải quân bảo vệ quyền bá chủ Ấn Độ Dương và thâm nhập Biển Đông
Về phía Moscow, ý thức được những mối đe dọa bao vây và chống bao vây từ trong lục địa Á-Âu đến các vùng ven biển thuộc châu Âu và châu Á, Nga đã tái triển khai chiến lược quân sự dọc ven biển lục địa Á-Âu và châu Phi. Điều này giải thích việc Nga quyết định mở các căn cứ hải quân tại Syria, Lybia và Yemen. Các quyết định trên đi kèm với một chương trình hiện đại hóa hải quân quy mô, thông qua các dự án chế tạo máy bay tiêm kích thế hệ mới và việc tăng cường khả năng công nghệ và hậu cần.
Cuộc chơi Trung-Mỹ và chiến lược liên kết tại Biển Đông
Là điểm giao thoa giữa Biển Đông, Đông Nam Á và Đông Á, biển Philippines mở ra các cơ hội rõ nét cho quân đội Mỹ để bảo đảm kiểm soát hoàn toàn khu vực chiến lược trên. Nhưng Trung Quốc là cường quốc khu vực không thể tranh cãi. Trung Quốc là mối đe dọa do can dự vào mọi cuộc xung đột, gia tăng yêu sách lãnh thổ và do dự giải quyết đa phương. Thực tế, Trung Quốc đang tìm cách mở rộng khu vực đặc quyền kinh tế, đặc biệt tại các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Đông Sa và Trung Sa. Tổng thể, từ những năm 1990, Trung Quốc đã mở rộng lợi ích tại vùng biển này. Nhưng điều này không thể so với lợi ích mà Trung Quốc đặt vào Đài Loan.
Về mặt quân sự, vị trí ưu thế tại châu Á trong 50 năm qua đã cho phép Mỹ bố trí lực lượng ăn khớp tại biển Philippines. Tại châu Á, Mỹ vẫn đóng vai trò là nước mạnh nhất về chính trị, kinh tế và quân sự. Sự hiện diện quan trọng nhất của Mỹ hiện nay vẫn là nhằm đe dọa Bắc Triều Tiên tại bán đảo Triều Tiên và trông chừng Trung Quốc.
Trung Quốc đang tìm cách sử dụng sức mạnh hải quân gia tăng để kiểm soát không chỉ các nguồn tài nguyên dầu khí ngoài khơi mà còn kiểm soát các tuyến đường biển, trong đó họ có nhu cầu nhất trên thế giới. Để chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc tại Hồng Hải và Biển Đông, Mỹ có tham vọng tái triển khai một vòng vây hải quân xung quanh Trung Quốc bằng cách thực hiện các cuộc diễn tập hải quân với Hàn Quốc ngoài khơi sườn phía Đông bán đảo Triều Tiên.
Biển Đông từ nay thuộc các “lợi ích sống còn” của Trung Quốc, ngang hàng với Tây Tạng và Đài Loan mặc dù chưa có một tuyên bố chính thức về quan điểm này. Một phần các nước Đông Nam Á dựa vào sự hiện diện của Mỹ để đối trọng lại với chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc. Đối với chính sách đối ngoại Trung Quốc, sẽ không gì bất lợi hơn một sự liên kết của các nước ủng hộ tuyên bố của Mỹ bởi Trung Quốc không có lợi ích khi quốc tế hóa các tranh chấp liên quan lãnh hải. Vì vậy, mối liên kết giữa Biển Đông và Thái Bình Dương nằm trong lợi ích an ninh của Trung Quốc.
Thách thức chiến lược của Biển Philippines
Tại Đông Nam Á, Mỹ không còn hiện diện thường trực, nhất là từ khi phải di dời hai căn cứ quân sự khỏi Philippines tháng 11/1992. Tuy nhiên, trong toàn khu vực, trừ Trung Quốc, nhìn chung các nước vẫn công nhận Mỹ là nhân tố quan trọng nhất có khả năng bảo đảm cân bằng chiến lược. Mỹ cũng đang tham gia rộng rãi vào việc duy trì hòa bình tại khu vực này. Bộ chỉ huy quân đội Mỹ tại Thái Bình Dương có trụ sở đặt tại Hawai phụ trách toàn bộ các lực lượng Mỹ đóng tại vùng biển phía Tây nước Mỹ và biển Philippines. Việc kiểm soát biển Philippines cho phép quân đội Mỹ đảm bảo hỗ trợ hậu cần cho các lực lượng của họ bố trí rải rác tại khu vực châu Á và đảm bảo cho các tàu chiến của họ hoạt động tự do khi được triển khai tại biển Philippines.
Trong mắt Mỹ, một lần nữa được thiết lập căn cứ tại Philippines sẽ mang lại lợi ích gấp hai. Lợi ích đầu tiên là điểm trung chuyển giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nơi mà hiện nay Mỹ có khoảng 1000 quân tại Singapore có nhiệm vụ tiếp liệu, bảo trì tàu chiến và máy bay. Nhưng Singapore chỉ là một hòn đảo nhỏ có khả năng hạn chế và ở lối vào eo biển Malacca. Mỹ đang dòm ngó khu liên hợp sân bay-bến cảng tại Général Santos mà tại đây có thể quan sát một vịnh, trong đó có đảo Mindanao. Général Santos ở cách xa Vịnh Subic ở Biển Đông, vùng biển đang bị các nước Trung Quốc, Việt Nam, Philippines tranh cãi và Mỹ không muốn tham gia vào.
Lợi ích thứ hai là bố trí tại Đông Á một điểm hỗ trợ vững chắc từ bên ngoài cho Nhật Bản và Hàn Quốc trong trường hợp xảy ra xung đột tại Viễn Đông. Khu liên hợp Subic và Clark có thể đảm bảo nhiệm vụ này. Philippines một lần nữa có thể đáp ứng Mỹ nếu cứ tiếp tục tiến hành các cuộc tập trận như hiện nay. Điều này có thể mất từ 6 tháng đến 1 năm để có được cam kết dài hạn. Không loại trừ khả năng người Mỹ tiếp tục gây sức ép lên Philippines để bình thường hóa quan hệ quân sự, bị ngắt quãng từ năm 1991. Biển Philippines có vị trí quan trọng chiến lược về mặt quân sự đối với các cường quốc khu vực, như châu Mỹ đối với nước Mỹ.
Quan hệ quân sự giữa Mỹ và đơn vị tinh nhuệ của lực lượng vũ trang Indonesia nằm trong khung cảnh chiến lược hải quân mới của Mỹ.
Khu vực thứ hai nằm trong chiến lược bao vây Trung Quốc của Mỹ là Hồng Hải, nằm trong vùng lãnh hải quốc tế rất gần Trung Quốc. Điều này một lần nữa chứng minh cam kết của Mỹ cho tự do tại các vùng biển châu Á. Tiếp theo đó là chuyến thăm Việt Nam của một tàu sân bay Mỹ, lần đầu tiên cách đây 35 năm.
Biển Đông là một trong những khu vực địa chính trị ồn ào nhất thế giới hiện tại. Nơi đây đồng thời diễn ra các hoạt động khẳng định tầm ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc và vai trò mang tính bảo vệ khu vực ảnh hưởng của Mỹ.
Giữa lúc Biển Đông đang tích tụ sóng ngầm, mạng tin Địa chính trị (Algeria) mới đây đăng bài nghiên cứu liên quan Biển Đông của Jure Vujić, luật sư, nhà địa-chính trị, nhà văn người Pháp. Bài nghị luận cung cấp một bức tranh toàn cảnh chiến lược của các nước lớn có giá trị tham khảo nhất định:
Chiến lược của Mỹ bao vây Trung Quốc
Hệ thống an ninh hải quân Mỹ hiện nay dựa vào các khu vực an ninh trụ cột: Thứ nhất, qua kênh đào Panama nối Đại Tây Dương và Thái Bình Dương; thứ hai, tuyến hàng hải nối các căn cứ hải quân Mỹ từ San Diego tới Hawai và Guam, rồi từ Guam tới Nhật Bản và Hàn Quốc; thứ ba, tuyến vòng cung kéo dài khu vực ven biển Đông Nam Á. Nhờ vào vòng cung kéo dài từ phía Bắc đảo Bornéo đến Singapore này, Mỹ đảm bảo duy trì sự hiện diện địa chiến lược tại Đông Nam Á và những vùng khác ở Đông Á.
Tàu ngầm hạt nhân lớp Ohio của Mỹ
Trung Quốc chắc chắn tiếp tục là một mối đe dọa địa chính trị đối với Nhật Bản và Hàn Quốc. Trung Quốc sẽ phải tăng cường nhập khẩu dầu lửa thêm 150% từ nay đến năm 2020. Hiện có hơn 6000 tàu của Trung Quốc sử dụng Ấn Độ Dương để vận chuyển dầu. Từ nay đến năm 2025, Trung Quốc sẽ phải nhập khẩu một lượng lớn nhiên liệu từ Trung Đông và châu Phi. Các chính sách địa-chiến lược hàng hải của Mỹ và Nhật Bản chỉ nhằm triệt hạ duy nhất tuyến đường hàng hải của Trung Quốc, từ biển Trung Quốc đến các nhánh dọc eo biển Malacca trong trường hợp xẩy ra xung đột. 80% các chuyến tàu vận chuyển dầu sử dụng tuyến đường biển huyết mạch trên.
Chiến lược "Vòng ngọc trai" của Trung Quốc
Để bảo đảm an toàn các tuyến đường biển vận chuyển năng lượng, Trung Quốc sẽ phải tránh Mỹ và Nhật Bản ở phía Đông. Nga tập trung sức mạnh hải quân ở phía Bắc. Ấn Độ kiểm soát mạn Nam Ấn Độ Dương. Chính vì vậy, Trung Quốc sẽ phải tăng cường khả năng độc lập và sức mạnh hải quân, đặc biệt tại Ấn Độ Dương. Chiến lược hải quân của Trung Quốc gồm hai mặt: thứ nhất, chống lại sự hiện diện của Mỹ tại eo biển Đài Loan; thứ hai, trong tương lai, Trung Quốc sẽ bành trướng hải quân ra Ấn Độ Dương để bao vây Ấn Độ.
Để thực hiện chiến lược hải quân mới này, Trung Quốc đã trang bị các tàu ngầm lớp Kilo. Phần thứ hai trong chương trình hiện đại hóa hải quân Trung Quốc và thiết lập vòng vây chiến lược xung quanh Ấn Độ là cái mà người ta gọi là “chuỗi vòng ngọc trai các đảo”. Chuỗi vòng này nối các căn cứ hải quân của Trung Quốc tại Sanya ở phía Nam đảo Hải Nam đến tận Trung Đông. Chuỗi vòng thứ hai kéo dài đến tận Sri Lanka và Maldives, nối vịnh Bengale với cảng Gwadar tại biển Arập và tạo thành tam giác chiến lược xung quanh Ấn Độ.
Các căn cứ hải quân Trung Quốc hình thành "Chuỗi ngọc trai" (đường xanh) bao vây Ấn Độ và tiến ra tranh bá Ấn Độ Dương. (Đường đen là tuyến vận chuyển dầu từ Trung Đông)
Trung Quốc hiện nghi ngờ Mỹ và các đồng minh bao vây Trung Quốc và khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc. Chính vì vậy, Trung Quốc cần phải bảo đảm an toàn các tuyến đường vận tải mà hiện nay đang nằm trong ưu tiên chiến lược quân sự của Trung Quốc. Các chuỗi vòng của Trung Quốc, kéo dài từ Pakistan đến Bornéo, sẽ trở thành các hành lang chiến lược tại vùng biển nối châu Phi và Trung Đông. Để đa dạng hóa các tuyến đường vận chuyển và tránh những chỗ thắt trong chuỗi các đảo, các nguồn năng lượng sẽ có thể được vận chuyển từ Sittwe và Gwadar bằng đường bộ và đường sắt dọc theo biên giới giữa Trung Quốc với Myanmar và Pakistan để vào các tỉnh Vân Nam và Tân Cương. Một khi vị trí địa chiến lược của Trung Quốc được củng cố tại Ấn Độ Dương, chuỗi vòng ngọc tương lai sẽ có thể vươn tới tận đảo Seychelles để hướng chiến lược của Trung Quốc đến tận châu Phi. Không phải là điều ngẫu nhiên mà vào năm 2008 khi Trung Quốc thông báo ý định xây dựng một tàu sân bay nhằm đảm bảo an ninh các chuỗi đảo và tăng cường hiện diện chiến lược của hải quân Trung Quốc tại Ấn Độ Dương.
Chiến lược phá bao vây của Ấn Độ và Nga
Như Trung Quốc, Ấn Độ cũng rất phụ thuộc vào các tuyến mậu dịch hàng hải. 77% lượng dầu nhập khẩu của Ấn Độ đến từ Trung Đông và châu Phi. Giám đốc Viện United Service Institution của Ấn Độ ông Arun Sahgal coi chính sách địa chính trị của Trung Quốc là chiến lược bao vây. Phía Bắc Ấn Độ là nước láng giềng Trung Quốc; phía Tây là đối thủ khu vực Pakistan đang tăng cường quan hệ với Trung Quốc; phía Đông là Banglades thân Trung Quốc và chính quyền quân sự Myanmar, trong khi phía Nam là chuỗi vòng ngọc trai các đảo của Trung Quốc bao vây Ấn Độ như một con rắn biển địa chiến lược. Chỉ có một liên minh lớn gồm các nước ven biển đảo mới cho phép phá thế bao vây này của Trung Quốc. Chiến lược Ấn Độ-Mỹ gồm liên kết các nước châu Á ven biển: Ấn Độ ở phía Tây Nam Trung Quốc; Hàn Quốc ở phía Đông Bắc; Nhật Bản và Đài Loan ở phía Đông; Philippines và Guam ở phía Đông Nam, sẽ buộc Trung Quốc phải lựa chọn thế địa chiến lược phòng thủ.
Ấn Độ đã đề phòng mối đe dọa Pakistan và Trung Quốc tăng cường quan hệ nên đã bắt đầu thực hiện bước xâm nhập địa chiến lược tại Trung Á. Năm 2006, Ấn Độ đã mở rộng ảnh hưởng tại khu vực này của lục địa Á-Âu bằng cách mở sân bay đầu tiên của Ấn Độ tại Tadjikistan. Điều này tạo cho Ấn Độ một cầu nối tiền tiêu trong khu vực.
Ấn Độ đang tăng cường tiềm lực hải quân chiến lược tại Karwar, phía Tây Nam nước này cũng như một căn cứ hàng không-hàng hải mới tại Uchipuli ở phía Đông Nam và một căn cứ quan sát tại Madagascar cho phép tập trung chỉ huy hải quân tại các đảo Andaman. Ấn Độ cũng đã xâm nhập vùng Biển Đông khi cho tàu chiến thăm vịnh Cam Ranh của Việt Nam, nơi này mở ra cho Ấn Độ khả năng thực hiện một sự phối hợp địa chiến lược hải quân và không quân cho phép Ấn Độ phát động tấn công từ biển Arập, vịnh Bengale, dọc Ấn Độ Dương và phần Tây Thái Bình Dương.
Ấn Độ tăng cường sức mạnh hải quân bảo vệ quyền bá chủ Ấn Độ Dương và thâm nhập Biển Đông
Về phía Moscow, ý thức được những mối đe dọa bao vây và chống bao vây từ trong lục địa Á-Âu đến các vùng ven biển thuộc châu Âu và châu Á, Nga đã tái triển khai chiến lược quân sự dọc ven biển lục địa Á-Âu và châu Phi. Điều này giải thích việc Nga quyết định mở các căn cứ hải quân tại Syria, Lybia và Yemen. Các quyết định trên đi kèm với một chương trình hiện đại hóa hải quân quy mô, thông qua các dự án chế tạo máy bay tiêm kích thế hệ mới và việc tăng cường khả năng công nghệ và hậu cần.
Cuộc chơi Trung-Mỹ và chiến lược liên kết tại Biển Đông
Là điểm giao thoa giữa Biển Đông, Đông Nam Á và Đông Á, biển Philippines mở ra các cơ hội rõ nét cho quân đội Mỹ để bảo đảm kiểm soát hoàn toàn khu vực chiến lược trên. Nhưng Trung Quốc là cường quốc khu vực không thể tranh cãi. Trung Quốc là mối đe dọa do can dự vào mọi cuộc xung đột, gia tăng yêu sách lãnh thổ và do dự giải quyết đa phương. Thực tế, Trung Quốc đang tìm cách mở rộng khu vực đặc quyền kinh tế, đặc biệt tại các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Đông Sa và Trung Sa. Tổng thể, từ những năm 1990, Trung Quốc đã mở rộng lợi ích tại vùng biển này. Nhưng điều này không thể so với lợi ích mà Trung Quốc đặt vào Đài Loan.
Về mặt quân sự, vị trí ưu thế tại châu Á trong 50 năm qua đã cho phép Mỹ bố trí lực lượng ăn khớp tại biển Philippines. Tại châu Á, Mỹ vẫn đóng vai trò là nước mạnh nhất về chính trị, kinh tế và quân sự. Sự hiện diện quan trọng nhất của Mỹ hiện nay vẫn là nhằm đe dọa Bắc Triều Tiên tại bán đảo Triều Tiên và trông chừng Trung Quốc.
Trung Quốc đang tìm cách sử dụng sức mạnh hải quân gia tăng để kiểm soát không chỉ các nguồn tài nguyên dầu khí ngoài khơi mà còn kiểm soát các tuyến đường biển, trong đó họ có nhu cầu nhất trên thế giới. Để chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc tại Hồng Hải và Biển Đông, Mỹ có tham vọng tái triển khai một vòng vây hải quân xung quanh Trung Quốc bằng cách thực hiện các cuộc diễn tập hải quân với Hàn Quốc ngoài khơi sườn phía Đông bán đảo Triều Tiên.
Biển Đông từ nay thuộc các “lợi ích sống còn” của Trung Quốc, ngang hàng với Tây Tạng và Đài Loan mặc dù chưa có một tuyên bố chính thức về quan điểm này. Một phần các nước Đông Nam Á dựa vào sự hiện diện của Mỹ để đối trọng lại với chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc. Đối với chính sách đối ngoại Trung Quốc, sẽ không gì bất lợi hơn một sự liên kết của các nước ủng hộ tuyên bố của Mỹ bởi Trung Quốc không có lợi ích khi quốc tế hóa các tranh chấp liên quan lãnh hải. Vì vậy, mối liên kết giữa Biển Đông và Thái Bình Dương nằm trong lợi ích an ninh của Trung Quốc.
Thách thức chiến lược của Biển Philippines
Tại Đông Nam Á, Mỹ không còn hiện diện thường trực, nhất là từ khi phải di dời hai căn cứ quân sự khỏi Philippines tháng 11/1992. Tuy nhiên, trong toàn khu vực, trừ Trung Quốc, nhìn chung các nước vẫn công nhận Mỹ là nhân tố quan trọng nhất có khả năng bảo đảm cân bằng chiến lược. Mỹ cũng đang tham gia rộng rãi vào việc duy trì hòa bình tại khu vực này. Bộ chỉ huy quân đội Mỹ tại Thái Bình Dương có trụ sở đặt tại Hawai phụ trách toàn bộ các lực lượng Mỹ đóng tại vùng biển phía Tây nước Mỹ và biển Philippines. Việc kiểm soát biển Philippines cho phép quân đội Mỹ đảm bảo hỗ trợ hậu cần cho các lực lượng của họ bố trí rải rác tại khu vực châu Á và đảm bảo cho các tàu chiến của họ hoạt động tự do khi được triển khai tại biển Philippines.
Trong mắt Mỹ, một lần nữa được thiết lập căn cứ tại Philippines sẽ mang lại lợi ích gấp hai. Lợi ích đầu tiên là điểm trung chuyển giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nơi mà hiện nay Mỹ có khoảng 1000 quân tại Singapore có nhiệm vụ tiếp liệu, bảo trì tàu chiến và máy bay. Nhưng Singapore chỉ là một hòn đảo nhỏ có khả năng hạn chế và ở lối vào eo biển Malacca. Mỹ đang dòm ngó khu liên hợp sân bay-bến cảng tại Général Santos mà tại đây có thể quan sát một vịnh, trong đó có đảo Mindanao. Général Santos ở cách xa Vịnh Subic ở Biển Đông, vùng biển đang bị các nước Trung Quốc, Việt Nam, Philippines tranh cãi và Mỹ không muốn tham gia vào.
Lợi ích thứ hai là bố trí tại Đông Á một điểm hỗ trợ vững chắc từ bên ngoài cho Nhật Bản và Hàn Quốc trong trường hợp xảy ra xung đột tại Viễn Đông. Khu liên hợp Subic và Clark có thể đảm bảo nhiệm vụ này. Philippines một lần nữa có thể đáp ứng Mỹ nếu cứ tiếp tục tiến hành các cuộc tập trận như hiện nay. Điều này có thể mất từ 6 tháng đến 1 năm để có được cam kết dài hạn. Không loại trừ khả năng người Mỹ tiếp tục gây sức ép lên Philippines để bình thường hóa quan hệ quân sự, bị ngắt quãng từ năm 1991. Biển Philippines có vị trí quan trọng chiến lược về mặt quân sự đối với các cường quốc khu vực, như châu Mỹ đối với nước Mỹ.
Quan hệ quân sự giữa Mỹ và đơn vị tinh nhuệ của lực lượng vũ trang Indonesia nằm trong khung cảnh chiến lược hải quân mới của Mỹ.
Khu vực thứ hai nằm trong chiến lược bao vây Trung Quốc của Mỹ là Hồng Hải, nằm trong vùng lãnh hải quốc tế rất gần Trung Quốc. Điều này một lần nữa chứng minh cam kết của Mỹ cho tự do tại các vùng biển châu Á. Tiếp theo đó là chuyến thăm Việt Nam của một tàu sân bay Mỹ, lần đầu tiên cách đây 35 năm.
Biển Đông là một trong những khu vực địa chính trị ồn ào nhất thế giới hiện tại. Nơi đây đồng thời diễn ra các hoạt động khẳng định tầm ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc và vai trò mang tính bảo vệ khu vực ảnh hưởng của Mỹ.