Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2011

30. Tài nguyên vị thế của hệ thống Vũng vịnh ven bờ Việt Nam

Hệ thống vũng vịnh ven bờ là một hợp phần của tài nguyên vị thế biển Việt Nam, có tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng, chủ quyền lãnh hải và lợi ích quốc gia trên biển. Sử dụng hiệu quả tài nguyên này chính là việc tổ chức tốt không gian và quy hoạch hợp lý phát triển kinh tế.
Vị thế gần đây được thừa nhận là một dạng tài nguyên, dù rằng cơ sở khoa học của nó còn đang được hoàn thiện. Hệ thống vũng vịnh ven bờ là một hợp phần của tài nguyên vị thế biển Việt Nam, có tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng, chủ quyền lãnh hải và lợi ích quốc gia trên biển. Tài nguyên vị thế vũng vịnh bao gồm các giá trị nội tại và các giá trị có được từ mối quan hệ với các trung tâm, đầu mối kinh tế và chính trị khu vực... Đặc biệt, đây là nguồn lực thúc đẩy kinh tế dịch vụ như: Hàng hải, hậu cần nghề cá, viễn thông, các khu trung chuyển, khu mậu dịch tự do và các hoạt động liên kết vùng miền, lãnh thổ, lãnh hải thông qua các tuyến vành đai và hành lang kinh  tế.
Tài nguyên vị thế
Tài nguyên vị thế là những giá trị và lợi ích có được từ vị trí địa lý và các thuộc tính về cấu trúc, hình thể sơn văn và cảnh quan, sinh thái của một không gian, có thể sử dụng cho các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Theo nguồn gốc thì tài nguyên thiên nhiên gồm có ba nhóm cơ bản: Sinh vật, phi sinh vật và vị thế (không gian). Cộng đồng châu âu (2002) chia tài nguyên thiên nhiên thành 5 dạng: Tái tạo không tiêu hao; tái tạo có tiêu hao; không tái tạo - không tiêu hao; không tái tạo - tiêu hao; tài nguyên không gian (vị thế).
ở Việt Nam, tài nguyên vị thế mang hàm ý rộng hơn tài nguyên không gian (space) và được đánh giá theo 3 tiêu chí. Giá trị về vị thế (địa) tự nhiên là các lợi ích có được từ vị trí không gian; tổng thể các yếu tố hình thể và cấu trúc không gian của một khu vực nào đó, tính ổn định của các quá trình tự nhiên và khả năng ít chịu tác động của thiên tai. Giá trị vị thế (địa) kinh tế là các lợi ích có được từ các đặc điểm địa lý ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế của một vùng, một quốc gia, thậm chí một khu vực. Giá trị địa kinh tế  gắn với vai trò đầu mối trong tổ chức lãnh thổ và lãnh hải, từ giao lưu và quan hệ  kinh tế, sức hấp dẫn và không gian ảnh hưởng. Giá  trị vị thế (địa) chính trị là lợi ích kết hợp của lợi thế về địa lý tự nhiên và nhân văn, với một bối cảnh chính trị và kinh tế nhất định. Vị thế tự nhiên có tính ổn định khá cao, trong khi vị thế kinh tế có tính ổn định tương đối và vị thế chính trị có tính ổn định thấp, có khả năng tạo cơ hội lớn hoặc thách thức lớn đối với phát triển kinh tế. Vị thế địa tự nhiên có giá trị tiềm năng, vị thế địa kinh tế có giá trị khả kiến và vị thế địa chính trị là giá trị hỗ trơù. Việc phối hợp và sử dụng phát huy tốt cả ba tiêu chí giá trị này sẽ tạo nên giá trị hiện thực của một thực thể tài nguyên vị thế.
Tài nguyên vị thế biển là không gian biển và ven bờ, nổi và ngầm, gồm: Luồng lạch, bến bãi, đất đai ven bờ, bán đảo và hải đảo, bãi cát biển, thềm đá, hang động... Một vịnh nước sâu và kín, không có tài nguyên truyền thống phong phú, nhưng có thể sử dụng thành một cảng biển, mang lại những lợi ích kinh tế to lớn nhờ sử dụng tài nguyên vị thế. Nhiều quốc gia đảo coi tài nguyên vị thế biển là tiềm năng lớn nhất để phát triển kinh tế dịch vụ và du lịch, mà thành công nhất là Singapore. Từ một vùng nghèo tách ra khỏi Malaysia vào những năm 60 của thế kỷ XX, đất nước này đã vươn lên nhờ biết tận dụng vị thế của một đảo nằm sát eo Mallacca - cửa ngõ nối ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Việt Nam có vị thế đặc biệt quan trọng ở Đông Nam á, nhờ có lãnh thổ trải dài trên 3.200 km ở rìa tây Biển Đông và một vùng lãnh hải rộng trên 1 triệu km2. Biển Việt Nam có vị thế quan trọng trong Biển Đông, vùng chuyển tiếp giữa ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là sự phát triển của nền kinh tế thị trường dựa trên nền kinh tế dịch vụ đòi hỏi phải phát huy được tiềm năng to lớn của vị thế biển. Tài nguyên vị thế biển Việt Nam bao gồm hệ thống thuỷ hệ hoặc địa hệ với cả ba hợp phần nền đất (hoặc đáy), nước và không khí, nằm trong phạm vi chủ quyền quốc gia và được phân cấp như sau: Cấp 1-  biển Việt  Nam; cấp 2- các vùng của biển Việt Nam; cấp 3- các thuỷ hệ - địa hệ nằm trong các vùng biển, tạo thành các hệ thống riêng như hải đảo, đầm phá, cửa sông và vũng vịnh.
Tài nguyên vị thế vũng vịnh ven bờ Việt Nam
Hệ thống vũng vịnh ven bờ được chia thành 3 cấp: Cấp 1- vịnh biển (Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan); cấp 2 - vịnh ven bờ (Vịnh Hạ Long, Vịnh Đà Nẵng...); cấp 3 - vũng ven bờ (Vũng Rô, Vũng Xuân Đài...). Các vũng vịnh ven bờ có độ sâu không quá 30 m, các vũng có diện tích dưới 50 km2 và các vịnh ven bờ có diện tích từ 50 km2 trở lên. Việt Nam có tổng số 48 vũng vịnh ven bờ, tổng diện tích khoảng 4.000 km2, được phân bố theo 4 vùng địa lý: Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ, có tiềm năng lớn để phát triển giao thông - cảng, du lịch - dịch vụ, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản và phòng thủ. Các cảng quan trọng như Cam Ranh, Vân Phong, Đà Nẵng, Cái Lân... nằm trong các vũng vịnh. Nhiều vịnh có cảnh quan đẹp được xếp vào hàng di sản, kỳ quan thiên nhiên thế giới, có giá trị lớn cho phát triển du lịch (Vịnh Hạ Long hai lần được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, Vịnh Nha Trang được bình chọn vào danh sách 29 vịnh đẹp nhất thế giới).
Vị  thế tự nhiên
Vũng vịnh có mặt trên cả bốn vùng bờ: Ven bờ tây vịnh Bắc Bộ có 19 vũng vịnh; ven bờ Trung Bộ có 27 vũng vịnh; ven bờ Đông Nam Bộ có 7 vũng vịnh và ven bờ Tây Nam Bộ có 2 vũng vịnh. Nằm ở tận cùng phía Bắc là Vịnh Tiên Yên - Hà Cối; phía Nam là Vũng Côn Sơn; phía Tây là Vũng Đầm (Phú Quốc) và phía Đông là Vũng Rô và Vịnh Vân Phong. Chúng được sử dụng cho các hoạt động kinh tế - xã hội trên các vùng biển và đất liền, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với vùng biển Đông Bắc, Nam Trung Bộ và biển Tây Nam Bộ.
 Các yếu tố hình thể và cấu trúc có giá trị vị thế cơ bản của vũng vịnh gồm: Diện tích mặt nước, tính đẳng thước (tương quan chiều dài và rộng), độ sâu và đặc biệt là mức độ đóng kín vực nước. Mặt bằng bờ vũng vịnh có ý nghĩa lớn đối với xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng khai thác không gian. Các vịnh  Bái Tử Long, Tiên Yên - Hà Cối, Hạ Long, Đà Nẵng và Vân Phong có khá đầy đủ các tiêu chí, đáp ứng sự phát triển của các tỉnh/thành phố Quảng Ninh, Đà Nẵng và Khánh Hoà.
Vũng vịnh ven bờ ổn định hơn về hình thể, các quá trình tự nhiên và khả năng ít bị tác động của thiên tai so với cửa sông và đầm phá. Cảng biển được xây dựng ở cả vũng vịnh, vùng cửa sông và đầm phá. Nhóm cảng cửa sông và đầm phá thường bị bồi luồng hay lấp cửa, trong khi sa bồi ở nhóm cảng vịnh, vấn đề này không lớn. Nhờ tính ổn định về vị thế tự nhiên, suốt cả ngàn năm từ thời Lý - Trần, Vịnh Bái Tử Long luôn có tầm quan trọng đặc biệt đối với kinh tế thương mại, hàng hải và phòng thủ. Trong khi thương cảng Hội An một thời thịnh vượng đã bị suy tàn do bồi lấp Cửa Đại. Việc phát triển kinh tế, kết cấu hạ tầng và đô thị hoá ở nhiều vũng vịnh ven bờ cũng thuận lợi do ít bị thiên tai ngập lụt, có khả năng neo trú, tránh sóng bão, thậm chí tránh sóng thần rất tốt như ở các vịnh Cam Ranh, Tiên Yên - Hà Cối, Cửa Lục... ở một số vũng vịnh, phải có các biện pháp xây kè chắn sóng để tăng hiệu quả của cảng biển (Dung Quất, Chân Mây...) hay tạo lập mặt bằng xây dựng kết cấu hạ tầng ven vịnh (Cửa Lục, Hạ Long...).
Vị thế địa kinh tế
Vũng vịnh ven bờ có vai trò hậu cứ, làm tăng vị thế kinh tế của biển. Nhiều vũng vịnh có tiềm năng lớn để phát triển giao thông - cảng, du lịch và dịch vụ, nghề cá biển, phát triển công nghiệp, cơ sở hạ tầng và đô thị hóa như Bái Tử Long, Nghi Sơn, Vũng áng, Chân Mây, Dung Quất, Vân Phong, Vũng Đầm...
Vũng vịnh có vị trí quan trọng đối với tổ chức không gian và phát triển kinh tế địa  phương. Trong 28 tỉnh/thành phố ven biển, thì 16 tỉnh/thành phố có vũng vịnh như: Khánh Hoà 9; Quảng Ninh 6; Phú Yên 6; Bình Định 5; Quảng Ngãi 4; Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu 3... Do yêu cầu tổ chức lãnh thổ - lãnh hải và quy hoạch vùng, do khả năng tạo vùng hấp dẫn và giao lưu với các vùng trong nước..., nhiều địa phương có vũng vịnh đã phát triển các cảng bến, tạo đà cho phát triển kinh tế. Thành phố Đà Nẵng phát triển khá nhanh và năng động gắn với vị thế địa kinh tế của vịnh. Một số tỉnh đang đẩy mạnh phát triển kinh tế biển dựa vào vũng vịnh như Quảng Ninh, Khánh Hoà, Bình Thuận, Ninh Thuận... Một số tỉnh khác đang tạo đà phát triển kinh tế biển gắn với cảng vịnh như Thanh Hoá, Quảng Ngãi và Thừa Thiên - Huế. Vũng vịnh ven bờ còn là nơi neo trú cho tàu thuyền tránh bão, giông lốc và gió mùa mạnh. Theo quy hoạch các khu trú tránh bão cho tàu cá đến năm 2010 (Quyết định số 135/2001/QĐ-TTg), trong số 58 khu, có 10 khu nằm ở vũng vịnh, trong đó Nam Trung Bộ có 7 khu là Vịnh Đà Nẵng, Vũng An Hoà, Vũng Rô, Vịnh Xuân Đài, Vịnh Vân Phong, Vịnh Nha Trang, Vịnh Cam Ranh; Bắc Bộ có 3 khu là Vịnh Tiên Yên, Vịnh Bái Tử Long và Vũng Cát Bà.      
Vũng vịnh có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế quy mô quốc gia và quốc tế. Kinh tế phát triển tạo ra nhu cầu liên kết các địa phương trong nước và các nước trong khu vực. Nằm kề trục lộ xương sống của kinh tế khu vực, ở vị trí bản lề giữa biển và đất liền và ở tâm hình học của Đông Nam á, Việt Nam sẽ phồn thịnh nếu phát huy mạnh mẽ được thế mạnh của biển và vũng vịnh ven bờ. Vị thế kinh tế của vũng vịnh được phát huy theo ba hướng: Làm cửa ngõ ra biển của nội địa châu á (Vũng áng, Vịnh Vân Phong), làm trụ nối cho các tuyến và hành lang kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ (Vịnh Bái Tử Long - Hạ Long) và làm cầu nối trên hàng hải quốc tế (Vũng Côn Sơn và Vũng Đầm).
Theo Đề án “Quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển Việt Nam đến năm 2020” (Quyết định số 1353/QĐ-TTg), trong hệ thống 15 khu kinh tế ven biển có 8 khu gắn kết với vũng vịnh và 4 khu được tập trung đầu tư liên kết mạnh với bên ngoài liên quan đến các Vịnh Bái Tử Long, Vũng áng, Vịnh Vân Phong và Vũng Đầm. Khu kinh tế Vân Đồn tại Vịnh Bái Tử Long (Quảng Ninh) được phát triển theo hướng hội nhập kinh tế khu vực Đông Bắc á, trong sự hợp tác hai hành lang - một vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ. Vũng áng (Hà Tĩnh) và Vân Phong (Khánh Hòa) được xây dựng thành cửa mở hướng ra biển theo hướng hợp tác hành lang kinh tế Đông - Tây. Đảo Phú Quốc (Kiên Giang) được xây dựng thành cửa mở hướng ra biển, hội nhập kinh tế khu vực ASEAN. Vũng Đầm ở phía Nam đảo Phú Quốc có diện tích nhỏ, nhưng sẽ là cửa ngõ mở ra biển, sát đường hàng hải quốc tế thông thương ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Vị thế địa chính trị
Hệ thống vũng vịnh ven bờ có vai trò trọng yếu đối vị thế địa chính trị của biển vì có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đảm bảo an ninh - quốc phòng và chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển, tạo lập mối quan hệ giữa các trung tâm chính trị trong nước và với khu vực. Đó chính là tài nguyên quân sự, được khai thác và sử dụng triệt để trong chiến tranh chống ngoại xâm. Việc bố trí phòng thủ và lập các phương án tác chiến phần nhiều dựa vào các yếu tố vị thế của vũng vịnh ven bờ.
Miền Trung như là một bao lơn hướng ra Biển Đông, được “chạm trổ” bởi nhiều cửa mở là vũng vịnh, mà một số có vị trí đặc biệt quan trọng về mặt an ninh, chính trị như Cam Ranh và Đà Nẵng. Cam Ranh là một căn cứ hải quân lớn, tàu ngầm có thể ra vào. Từ đây, có thể thực hiện hiệu quả các hoạt động bảo vệ chủ quyền lãnh hải và kiểm soát một vùng rộng lớn trên Biển Đông, ở tầm gần nhất từ bờ ra quần đảo Trường Sa. Vịnh Đà Nẵng rất gần quần đảo Hoàng Sa và là một vị trí chiến lược quan trọng.
Các vịnh Hạ Long, Bái Tử Long và Tiên Yên - Hà Cối ở phía Bắc có độ nhạy cảm cao về chính trị, có thể là tiền đồn hoặc là hậu cứ tuỳ từng giai đoạn lịch sử. Vào thời Lý - Trần, Vân Đồn là một thương cảng thịnh vượng, một trung tâm kinh tế thương mại giao lưu với thế giới. Cuối thời nhà Nguyễn, khi vận nước đang suy, nơi đây đầy loạn lạc, giặc giã và cướp biển. Trong chiến tranh chống Mỹ, đây là một khu hậu cứ hải quân quan trọng, là một nơi xuất phát của đường Hồ Chí Minh trên biển. Ngày nay, các vịnh này nằm trên vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ, có cơ hội phát triển kinh tế to lớn, nhưng vẫn giữ vai trò trọng yếu đối với phòng thủ đất nước trong một thời đại đầy biến động.
Tóm lại, vũng vịnh ven bờ biển Việt Nam có tiềm năng vị thế hết sức to lớn. Sử dụng hiệu quả tài nguyên này chính là việc tổ chức tốt không gian và quy hoạch hợp lý phát triển kinh tế. Việc phát huy tiềm năng tài nguyên vị thế vũng vịnh ven bờ biển sẽ đáp ứng được nhu cầu lâu dài cho phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần đảm bảo an ninh - quốc phòng và chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển; lồng ghép sử dụng hợp lý không gian biển mà kinh tế cảng, dịch vụ là trọng tâm với bảo vệ môi  trường, bảo tồn tự nhiên và phát huy các giá trị văn hoá, khoa học và giáo dục.
http://www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=3272