Thứ Ba, 2 tháng 8, 2011

5. Năm 2008: Sự hình thành của thế giới đa cực?

TCCS-Năm nào cũng vậy, để tiếp tục tồn tại và phát triển, thế giới phải vượt qua 3 thách thức lớn: thiên tai, kinh tế và các vấn đề an ninh và chính trị. Đặc điểm của năm 2008 là cả ba thách thức này đã nổ ra rất gay gắt và hầu như cùng một lúc. Trong bài này chỉ đề cập đến thách thức 2 và 3 là hai nhân tố quyết định chiều hướng phát triển của nền chính trị thế giới.
1. Cuộc khủng hoảng kinh tế được xem là có cội nguồn từ Mỹ mà toàn thế giới phải ra sức ứng cứu là cuộc suy thoái lớn nhất chỉ có thể so sánh với cuộc đại suy thoái của những năm 30 thế kỷ trước. Nó là sự cộng hưởng của ba “cú sốc” kinh tế: cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trăm năm/một lần đầy hiểm họa, như mô tả của ông Ba-rắc Ô-ba-ma, Tổng thống đắc cử thứ 44 của Hoa Kỳ, kèm theo cuộc khủng hoảng nhà đất ở Mỹ và cuộc khủng hoảng năng lượng trên toàn thế giới. Nếu xem xét nó một cách có hệ thống thì có thể rút ra những kết luận quan trọng trong việc tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Một là, khủng hoảng là bệnh mãn tính của chủ nghĩa tư bản. Đây là kết luận mà Các Mác đã đưa ra cách đây hơn 150 năm khi ông viết bộ “Tư bản”. Đối với chúng ta, những người theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin thì không có gì mới. Nhưng sau khi Liên Xô tan rã, chủ nghĩa xã hội đi vào thoái trào thì nhiều người đã quên điều này. Điều nghịch lý là nhờ cuộc khủng hoảng lần này mà chính các học giả tư sản phương Tây nói chung và đặc biệt là ở Đức, Anh và nhất là ở I-ta-li-a lại tái phát hiện ra nó. Người ta đã đổ xô đi tìm đọc tác phẩm của C. Mác. Chỉ trong một thời gian ngắn, riêng nhà xuất bản Newton - Compton ở I-ta-li-a đã bán được 5.000 bộ “Tư bản” của C. Mác và đang tiếp tục ấn hành thêm.
Chính C. Mác đã dự đoán điều này từ giữa thế kỷ XIX khi ông viết: “khi các nhà tư bản trao đổi tiền để lấy tiền, chủ nghĩa tư bản sẽ thoái trào”. Liên hệ với cuộc khủng hoảng hiện nay, người ta thấy rằng không những C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra sự khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản nói chung mà còn tiên đoán về sự khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản tài chính (tức là chủ nghĩa tư bản ngày nay). Không những thế, C. Mác còn là người đầu tiên đề xuất cách thức tốt nhất để giảm sức nóng của những cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính là nhà nước phải ra tay cứu nền kinh tế. Chính Tổng thống Mỹ Ru-dơ-ven đã thực hiện điều này trong những năm 30 của thế kỷ trước và hiện nay chính quyền Mỹ, các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) và Nhật Bản đang làm điều tương tự khi dùng hàng trăm tỉ đô la Mỹ để giải cứu nền kinh tế bị suy thoái và ngăn chặn hàng loạt công ty tài chính khỏi bị phá sản.
Hai là, cần phải cải tổ hệ thống thể chế tài chính hiện hành. Hệ thống thể chế tài chính hiện nay với 2 định chế chính là Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) đã tỏ ra nhiều bất cập. Ra đời sau Hội nghị Bret-tơn út (Mỹ) tháng 7-1944, hai định chế tài chính lớn nhất thế giới này đã tồn tại hơn 60 năm trong lúc nền kinh tế tài chính đã có nhiều thay đổi lớn. Nhưng điều bất cập lớn nhất là trong quá trình tồn tại, hai định chế tài chính lớn nhất thế giới đã bị Mỹ thao túng và đi chệch sứ mệnh được giao ban đầu, nhất là trong việc thực hiện các dự án phát triển kinh tế dài hạn ở các nước đang phát triển và bảo đảm sự ổn định tài chính toàn cầu. Chúng đã bị chính trị hóa, trở thành công cụ của Mỹ và một số nước phương Tây nhằm can thiệp vào nội bộ các nước đang phát triển. Do đó, chúng đặt ra những điều kiện khắt khe trong việc giúp đỡ các nước này trong lúc lại tỏ ra rất dễ dãi và ưu ái đối với các quốc gia phát triển. Vì vậy, sẽ không phải là oan ức khi người ta kết luận rằng, nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế hiện nay có phần lỗi lớn từ những sai lầm và lệch lạc mục tiêu của IMF và WB. Do đi lạc mục tiêu nên IMF không kiểm soát được tình hình hoạt động của hệ thống tài chính toàn cầu, và như vậy đã không phát hiện được những dấu hiệu nguy hiểm của nó, đương nhiên không có khả năng đưa ra những cảnh báo trước về nguy cơ khủng hoảng. Và khi khủng hoảng xảy ra thì hai định chế này cũng không có sáng kiến riêng nào để giúp nền tài chính thế giới ra khỏi khủng hoảng. Hội nghị G20 tại Oa-sinh-tơn trong 2 ngày 15 và 16-11-2008 đã nhận ra điều này khi nhất trí cho rằng: cần áp dụng các biện pháp để cải tổ lại hệ thống tài chính thế giới.
Ba là, cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế hiện nay đã báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa đơn phương trong lĩnh vực tài chính - kinh tế. Điều trớ trêu là chính G.W.Bu-sơ, cha đẻ của học thuyết đơn phương, trong những ngày cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống của mình lại là người đứng ra làm việc này khi chủ trì cuộc họp của lãnh đạo G20 gồm 8 nước kinh tế phát triển và 11 nước kinh tế lớn nhất mới nổi và EU ra tuyên bố kêu gọi tất cả các nước trước hết là G20 đoàn kết, hợp lực để cùng giải cứu nền kinh tế thế giới qua cơn hoạn nạn.
2. Trong lúc toàn thế giới đang phải tập trung mọi sức lực để giải cứu cuộc khủng hoảng tài chính và nguy cơ của một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu thì bầu không khí chính trị và an ninh thế giới lại nóng lên bởi quan hệ giữa Nga với Mỹ và NATO xấu đi nghiêm trọng do cuộc chiến tranh 5 ngày giữa Nga và Gru-di-a ở vùng Cáp-ca-dơ.
Đây là sự bùng nổ tất yếu của những mâu thuẫn giữa Nga với Mỹ và phương Tây tích tụ trong suốt 20 năm qua. Trực tiếp châm ngòi cho cuộc khủng hoảng này là quyết định của Xa-a-ka-xvi-li, Tổng thống Gru-di-a khi bất ngờ mở cuộc tấn công hủy diệt vào khu vực ly khai Nam Ô-xê-ti-a, để thiết lập lại quyền kiểm soát của Gru-di-a ở vùng đất này và tiếp đó là khu vực Áp-kha-di-a nhằm đặt Nga trước sự đã rồi. Ngoại trưởng C. Rai-xơ và Phó Tổng thống Đ. Che-ny của Mỹ đã đến Gru-di-a và đã hết lời công kích Nga, xem Nga là “nước xấu xa”, là “đế quốc” đồng thời cam kết sẽ cho Gru-di-a gia nhập NATO trong năm 2008. Phương Tây đã rót tiền ồ ạt cho Gru-di-a để hàn gắn vết thương chiến tranh. Thế giới thật sự đứng trước nguy cơ của một cuộc “chiến tranh lạnh” mới. Tuy nhiên, xem xét kỹ thì thấy phản ứng của Mỹ và NATO cũng có giới hạn. Mỹ và NATO không ngăn cản hoạt động trung gian hòa giải của EU do Tổng thống Pháp N.Xác-cô-di, đương kim Chủ tịch luân phiên của EU tiến hành. Các nước NATO họp khẩn cấp tất nhiên là để bày tỏ sự ủng hộ đối với Gru-di-a và lên án Nga nhưng lại không cam kết sẽ kết nạp U-crai-na và Gru-di-a vào NATO. Tổng thống mới đắc cử của Mỹ cũng không còn sốt sắng thúc ép kết nạp 2 nước này vào NATO. EU và NATO cũng nói thẳng là việc trừng phạt Nga sẽ chẳng có lợi ích gì.
Tuy nhiên, tình hình căng thẳng giữa Nga với Mỹ và NATO qua cuộc chiến tranh ngắn ngày Nga - Gru-di-a đã đưa quan hệ Nga - Mỹ sang một thời kỳ mới, trong đó Nga cương quyết phục hồi vị trí bình đẳng của mình trong câu lạc bộ các nước lớn bằng một chính sách cứng rắn đối với các vấn đề liên quan đến lợi ích chiến lược của mình. Do đó có thể thấy, quan hệ Nga - Mỹ còn căng thẳng lâu dài chừng nào giới cầm quyền Mỹ chưa từ bỏ tham vọng làm bá chủ thế giới. Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế hiện nay và những xu thế chính của thời đại toàn cầu hóa, cùng phụ thuộc lẫn nhau khiến ít có khả năng thế giới trở lại thời kỳ “chiến tranh lạnh”. Các nước phương Tây bị chia rẽ trong quan hệ đối với Nga. 26 trong tổng số 27 nước thành viên EU (trừ Lit-va) đã nhất trí nối lại đàm phán với Nga về việc thiết lập quan hệ hợp tác và đối tác chiến lược giữa hai bên. Liên hợp quốc, Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu, EU và cả Gru-di-a đã đồng ý với đề nghị của Nga tổ chức hội nghị bàn về vấn đề an ninh Cáp-ca-dơ tại Giơ-ne-vơ có sự tham dự chính thức của đại diện từ Nam Ô-xê-ti-a và Áp-kha-di-a. Ngoại trưởng Mỹ C.Rai-xơ đã gặp Ngoại trưởng Nga X. La-vơ-rốp và Mỹ - Nga đã nối lại đàm phán về START (Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược). Tổng thống Nga Đ. Mét-vê-đép đã chính thức đề nghị Mỹ cùng Nga xây dựng quan hệ đối tác chiến lược. Trong lúc đó, Tổng thống đắc cử B.Ô-ba-ma chưa đưa ra một cam kết gì về việc xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD) ở châu Âu. Tất nhiên, cuộc mặc cả còn dài, quan hệ hai bên còn nhiều gay cấn, nhưng dù sao cũng có thể thấy cả Nga và Mỹ đều không muốn có một cuộc “chiến tranh lạnh” mới.
3. Sự kiện thứ hai là sự nổi lên của các quốc gia do các lực lượng phái tả lãnh đạo ở ngay khu vực “sân sau” của Mỹ. Chính sách bá quyền và can thiệp của Mỹ đã làm xuất hiện những nhà chính trị có đầu óc dân tộc đi theo đường lối độc lập, tự chủ. Tháng 4-2002 đã diễn ra cuộc đảo chính ở Vê-nê-xu-ê-la đưa U-gô Cha-vét, một người theo chủ nghĩa dân tộc lên nắm chính quyền. Bị thất bại ở Vê-nê-xu-ê-la, Mỹ tăng cường can thiệp, dùng Cơ quan viện trợ phát triển quốc tế của Mỹ (USAID) và CIA tài trợ cho các lực lượng thân Mỹ, đặc biệt là ở Bô-li-vi-a, tiến hành biểu tình nhằm lật đổ Tổng thống E-vo Mô-ra-lét nhằm ngăn cản ông tiến hành các cuộc cải cách dân chủ không có lợi cho các tập đoàn tư bản Mỹ. Trước tình hình đó, lãnh đạo Liên minh các nước Nam Mỹ (UNASUR) đã họp hội nghị bất thường ngày 15-9-2008 tại Xan-ti-a-go (Chi-lê) để bàn bạc kế hoạch ngăn chặn cuộc đảo chính chống Tổng thống E-vo Mô-ra-lét. Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la U. Cha-vét tuyên bố sẽ hỗ trợ Tổng thống E. Mô-ra-lét trong trường hợp có đảo chính. Bô-li-vi-a đã trục xuất đại sứ Mỹ và triệu hồi đại sứ của mình ở Oa-sinh-tơn về nước. Vê-nê-xu-ê-la cũng làm như vậy để ủng hộ Bô-li-vi-a và tuyên bố đại sứ của họ chỉ trở lại Oa-sinh-tơn khi Mỹ có tổng thống mới. Để phối hợp với cuộc đấu tranh chống Mỹ của Bô-li-vi-a và Vê-nê-xu-ê-la, ngày 13-9-2008 Tổng thống Hôn-đu-rát đã quyết định hoãn vô thời hạn việc nhận ủy nhiệm thư của đại sứ Mỹ, còn Tổng thống Đa-ni-en Oóc-tê-ga đã từ chối lời mời gặp G. Bu-sơ tại Đại hội đồng Liên hợp quốc và hoàn toàn ủng hộ Nga trong vấn đề Nam Ô-xê-ti-a và Áp-kha-di-a. ở Ê-cu-a-đo, Tổng thống Ra-pha-en Cô-rê-a không gia hạn việc Mỹ sử dụng căn cứ quân sự Man-ta và yêu cầu quân đội Mỹ đóng ở đây phải rút khỏi Ê-cu-a-đo trong năm 2009. Cộng hòa Đô-mi-ni-ca cũng tỏ thái độ xa lánh và chỉ trích Mỹ.
Như vậy là ngay tại “sân sau” của Mỹ đã xuất hiện một tập hợp các quốc gia chống Mỹ, ủng hộ và liên kết với Nga bằng các hiệp định hợp tác năng lượng và quân sự. Cả Nga và các nước Mỹ La-tinh đều rất coi trọng sự liên kết chiến lược này. Thủ tướng Nga V.Pu-tin đã khẳng định: Mỹ La-tinh đang trở thành bộ phận đáng chú ý trong chuỗi mắt xích của thế giới đa cực. Nga sẽ quan tâm nhiều hơn nữa tới khía cạnh này trong chính sách kinh tế và đối ngoại của mình. Còn Tổng thống U. Cha-vét của Vê-nê-xu-ê-la thì tuyên bố “hợp tác với Nga sẽ là điều tất yếu đối với Mỹ La-tinh “không chỉ Vê-nê-xu-ê-la cần Nga mà cả Mỹ La-tinh đều cần Nga”. Tiếp theo Nga, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước Nam Mỹ - Ca-ri-bê cũng có bước phát triển mới, nhất là sau chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đến khu vực này vào cuối năm 2008 và chuyến thăm của Tổng thống Mô-ra-lét thăm Trung Quốc trước đó.
Tuy nhiên cũng cần thấy rõ, sự liên kết này giữa Nga và Trung Quốc với các nước Mỹ La-tinh không phải để tạo ra một khối đối đầu với Mỹ mà chỉ nhằm làm cho Mỹ thấy rằng, thế giới đơn cực của Mỹ đã vĩnh viễn chấm dứt và thay vào đó là một thế giới đa cực trong đó các nước lớn nhỏ cần tồn tại hòa bình để cùng phát triển trong thời đại toàn cầu hóa và cùng phụ thuộc lẫn nhau.
4. Sự kiện thứ 3 thu hút sự chú ý của dư luận thế giới trong năm 2008 là cuộc bầu cử Tổng thống ở Mỹ và bản tổng kết những thành tựu của G. W.Bu-sơ sau 8 năm cầm quyền. Việc B.Ô-ba-ma, một thượng nghị sĩ trẻ tuổi, da màu trúng cử tổng thống cho thấy, nhân dân Mỹ muốn có một sự thay đổi thật sự, và bản thân nước Mỹ cũng đã thay đổi và trở thành một quốc gia đa sắc tộc đúng với cái tên gọi “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ” mà những nhà sáng lập ra nước Mỹ cách đây 232 năm mong muốn. Thắng lợi của B. Ô-ba-ma cho thấy, nhân dân Mỹ đã quá chán ghét chính sách hiếu chiến, cực hữu của G.W.Bu-sơ. Có thể nói thất bại của G. Mắc Kên - ứng cử viên của Đảng Cộng hòa - gắn liền với thất bại của G. W. Bu-sơ cả trong chính sách đối nội lẫn đối ngoại.
Cuộc chiến chống khủng bố quốc tế do G. W. Bu-sơ phát động trong 8 năm qua về cơ bản là một thất bại. Mỹ vẫn bị sa lầy ở I-rắc và Áp-ga-ni-xtan... Mặt khác, cuộc chiến đang có nguy cơ lan sang Pa-ki-xtan khiến cho quan hệ Mỹ với Pa-ki-xtan vốn được Mỹ xem là đồng minh thân cận chống khủng bố trở nên căng thẳng. Hơn nữa, chủ nghĩa khủng bố của các lực lượng Hồi giáo cực đoan đã tìm được nhiều địa bàn màu mỡ khác để hoạt động, nhất là ở vùng sừng châu Phi khiến Mỹ phải huy động cả hạm đội hải quân đến đối phó. Tuy trong nhiệm kỳ của mình, G. W. Bu-sơ cũng đã đích thân thăm một số nước châu Phi nhằm tranh thủ họ, nhưng cuối cùng chính quyền G. W. Bu-sơ cũng không làm được gì để ngăn cản các hiểm họa nhân đạo đang đe dọa nhiều khu vực ở châu Phi như Công-gô, Ru-an-đa, Xô-ma-li v.v..
Bản thân G. W. Bu-sơ đầu tư rất lớn cho việc giải quyết cuộc xung đột giữa I-xra-en và Pa-le-xtin, bỏ ra nhiều công sức và tiền của vào khu vực Trung Đông; nhưng cho đến nay, tình hình vẫn hoàn toàn bế tắc. Kế hoạch Đại Trung Đông của G. W. Bu-sơ không đi đến đâu trong lúc tâm lý chống Mỹ ở Trung Đông lại gia tăng. Mỹ cũng đã thất bại mặc dù phải tìm sự hợp tác của Nga trong việc giải quyết vấn đề hạt nhân của I-ran. Quá trình phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên theo kế hoạch của Mỹ lại đang dẫm chân tại chỗ. Thành tích duy nhất về đối ngoại của G. W. Bu-sơ là việc ký với Ấn Độ Hiệp định hợp tác hạt nhân dân sự; nhưng chính nó lại làm sâu sắc thêm mâu thuẫn trong quan hệ giữa Mỹ và Pa-ki-xtan, và đẩy Pa-ki-xtan tăng cường quan hệ với Trung Quốc, đặc biệt là trong vấn đề hạt nhân.
5. Là châu lục có nền kinh tế năng động nhất thế giới nhưng trong thời đại toàn cầu hóa, châu Á cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đặc biệt đối với các nước đồng minh của Mỹ có mối liên kết về kinh tế sâu sắc với nền kinh tế Mỹ như Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, Xin-ga-po v.v.. Riêng các nước có nền kinh tế đang phát triển lớn nhất như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga tuy cũng bị ảnh hưởng, nhưng tự họ có thể giải quyết được và GDP vẫn tăng mạnh. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế, GDP của toàn thế giới trong năm 2008 chỉ tăng khoảng 3% trong khi GDP của Mỹ và EU chỉ âm thì GDP của Trung Quốc vẫn đạt mức 7% - 8%, Ấn Độ 6%, Nga 5% - 6% và toàn châu lục là trên 5%. Việc Trung Quốc bỏ ra 568 tỉ USD để kích thích nền kinh tế Trung Quốc và thế giới đã được Mỹ và các nước EU đánh giá cao.
Tuy nhiên, nét đáng chú ý trong sự vận động của quan hệ địa - chính trị chiến lược ở châu Á - Thái Bình Dương trong năm 2008 là sự hình thành các cuộc tập hợp lực lượng mới dưới hình thức các câu lạc bộ gắn kết các nền kinh tế lớn đang phát triển theo một tư duy mới. Các câu lạc bộ này nhằm mục đích duy nhất là xây dựng trật tự thế giới đa cực bắt đầu từ kinh tế và tiếp theo đó là chính trị - an ninh để cùng phát triển. Điều cần nói ở đây là, các nước tham gia các quan hệ đối tác chiến lược này không có ý định xây dựng thành những khối mới nhằm đối đầu với các nhóm hoặc khối kinh tế, chính trị an ninh tồn tại lâu nay trên thế giới. Tư duy mới ở đây là, các nước tham gia các cuộc tập hợp lực lượng mới ở châu Á - Thái Bình Dương không liên kết với nhau theo kiểu đồng minh, cả về chiến lược lẫn sách lược và không gắn kết với nhau theo một ý thức hệ nào. Đó là một tập hợp hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng vì lợi ích riêng của mỗi nước và không nằm dưới sự lãnh đạo của bất cứ nước nào hoặc nhóm nước nào mặc dù về khách quan, sự tập hợp lực lượng mới này là kết quả tự nhiên của việc phục hồi của Nga trên bàn cờ các nước lớn và sự trỗi dậy của Trung Quốc và các nước khác. Riêng trong năm 2008 đã có 3 nước châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ) tham gia câu lạc bộ các nước chinh phục vũ trụ.
Những phát triển mới này ở châu Á - Thái Bình Dương cũng đã được Tổng thống Pháp N. Xác-cô-di xem là cần thiết khi ông nói: “Sự trỗi dậy của Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin cũng như sự trở lại của Nga đã tạo điều kiện khách quan cho một hiệp đồng mới của các cường quốc lớn. Với một tình hình mới: không một nước nào có khả năng áp đặt quan điểm riêng của họ. Để xử lý các vấn đề thế giới, sự hợp tác là cần thiết”(1).
Các cuộc hiệp đồng mới này có thể là đa phương như Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), Câu lạc bộ BRIC (Bra-xin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc) hoặc RIC (Nga, Ấn Độ và Trung Quốc), hoặc chỉ có tính chất song phương như giữa Nga và Vê-nê-xu-ê-la, Nga với Hàn Quốc, Nga với Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên v.v.. Sự hiệp đồng này có thể chỉ trong một lĩnh vực nhất định nhưng rất quan trọng như Hiệp định hợp tác năng lượng giữa Nga với Hàn Quốc trị giá 90 tỉ USD hoặc hợp tác hơi đốt giữa Nga, I-ran và Ca-ta mà cũng có thể bao gồm cả hợp tác trên lĩnh vực an ninh và quốc phòng giữa Nga và Vê-nê-xu-ê-la, Nga - Xi-ri, Nga - Li-bi...
Những phát triển mới ở châu Á - Thái Bình Dương làm cho dự báo và sự chuyển hướng quyền lực từ Đại Tây Dương sang châu Á - Thái Bình Dương trong thế kỷ này là điều không thể tránh khỏi và là một điểm sáng trong việc hình thành một trật tự đa cực hay nói chính xác hơn là một trật tự đa trung tâm trên thế giới.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng tình hình ở khu vực này còn hết sức phức tạp. ở Nam Á, ngoài Áp-ga-ni-xtan thì tình hình Pa-ki-xtan chứa đầy nguy cơ bùng nổ. Một mặt, chính sách thân Mỹ của các giới cầm quyền khiến cho họ trở thành mục tiêu của các vụ ám sát của các phần tử Hồi giáo cực đoan có liên hệ với Ta-li-ban và An Kê-đa; mặt khác, Mỹ cho rằng biên giới hàng ngàn cây số giữa Pa-ki-xtan và Áp-ga-ni-xtan là đất thánh của Bin La-đen được tình báo Pa-ki-xtan che chở cho nên quân Mỹ ở Áp-ga-ni-xtan đã tiến hành các cuộc càn quét sâu vào lãnh thổ Pa-ki-xtan mà không được phép của chính quyền Pa-ki-xtan và đã gây ra những phản ứng gay gắt của nhân dân, kể cả những người cầm quyền chống lại Mỹ. Quan hệ giữa Pa-ki-xtan và Ấn Độ do đó cũng xấu đi, nhất là khi các lực lượng khủng bố đã đánh bom Sứ quán Ấn Độ ở Ca-bun gây ra cái chết của nhiều người. Và đặc biệt nghiêm trọng là cuộc tấn công khủng bố thành phố Mum-bai giết chết gần 200 người và làm bị thương hơn 300 người hồi cuối tháng 11-2008 mà Ấn Độ cho rằng có sự tham gia của các phần tử khủng bố có căn cứ ở Pa-ki-xtan. Ngoài ra, mâu thuẫn giữa Pa-ki-xtan và Ấn Độ về vấn đề Ca-sơ-mia hầu như vẫn còn nguyên vẹn.
Tình hình Đông - Nam Á trong năm qua có tốt hơn do các nước ASEAN đã lần lượt phê chuẩn Hiến chương mới của ASEAN và nhiều nước đối tác đã phê chuẩn Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông - Nam Á (TAC) và cử đại sứ thường trực bên cạnh Văn phòng thường trực ASEAN. Tuy nhiên, tình hình nội bộ một số nước ASEAN không ổn định, đặc biệt là ở Mi-an-ma và Thái Lan đã làm cho ASEAN chưa phát huy hết vai trò khu vực và quốc tế của mình. Tranh chấp lãnh thổ giữa một số nước ASEAN với nhau và giữa một số nước ASEAN với một số nước ngoài khu vực tất nhiên sẽ làm cho nền hòa bình và an ninh ở Đông - Nam Á còn nhiều biến cố phức tạp.
Tóm lại, trên cơ sở của sự phát triển của các sự kiện trên thế giới cuối năm 2008, có thể thấy rằng: bước sang năm mới, nền kinh tế thế giới chưa có gì sáng sủa. Theo dự báo của IMF ngày 6-11-2008, kinh tế các nước phát triển trong năm 2009 vẫn tăng âm và kinh tế châu Á tiếp tục tăng chậm. Điểm tích cực đáng ghi nhận là đã có sự phối hợp và hợp tác toàn cầu trong đó nổi lên là vai trò xây dựng của các nền kinh tế lớn mới nổi trong việc giải quyết những khó khăn chung của thế giới.
Trong lúc đó, bầu không khí chính trị và an ninh của thế giới có triển vọng sẽ được cải thiện hơn: chủ nghĩa đơn phương của G.W.Bu-sơ đã bị đẩy lùi. NATO khó lòng kết nạp U-crai-na và Gru-di-a; Pháp, Đức và I-ta-li-a không tán thành việc Mỹ thiết lập các căn cứ triển khai NMD ở Ba Lan và Cộng hòa Séc. EU tiếp tục đàm phán với Nga về quan hệ hợp tác và đối tác chiến lược cũng như việc Nga đề nghị đàm phán với Mỹ về quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước và chính sách đối ngoại ôn hòa hơn của chính quyền B. Ô-ba-ma chắc chắn sẽ có ảnh hưởng tích cực đến tình hình an ninh chính trị của thế giới trong năm mới.
Tất nhiên đây là một quá trình phức tạp, lâu dài và còn nhiều bất trắc. Song, nhân dân thế giới có cơ sở để lạc quan về hòa bình, phát triển và hợp tác cùng có lợi tiếp tục là xu thế chính của thời đại./.  
(1) Theo Tạp chí Pháp Politique Internationale, số tháng 10-2008
Phan Doãn Nam