Kỷ niệm thành lập Thủ đô Hà Nội sẽ nói lên nước ta lập quốc từ lâu, có
một nền văn hóa lâu đời mà thủ đô là tiêu biểu.
Kỷ niệm thành lập Thủ đô Hà Nội còn nói lên truyền thống anh dũng của
dân tộc ta mà thủ đô là một biểu hiện rõ rệt nhất.
Đặc biệt là kỷ niệm thành lập Thủ đô Hà Nội càng nói lên một cách hùng
hồn đất nước ta là một, nền thống nhất của Tổ quốc đã được xây dựng từ
lâu mà thủ đô là tượng trưng của nó. Thật thế, Thủ đô Hà Nội yêu quý của
chúng ta là tiêu biểu của cả nước, đã thấm sâu vào tình cảm của dân tộc
ta. Trước kia cũng như ngày nay, nghìn năm văn vật đất Thăng Long
luôn luôn ấp ủ trong lòng người dân Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau, dù
đương ở chỗ nào, đương sống trong hoàn cảnh nào cũng đều hướng về nơi
trung tâm của đất nước, tự hào về lịch sử văn hiến của dân tộc với thủ
đô Thăng Long ngày trước tức Thủ đô Hà Nội bây giờ. Hiện nay, mặc dầu
đất nước còn bị chia cắt, nhưng đồng bào chúng ta từ Nam chí Bắc ai mà
không nhận thấy Tổ quốc ta là một, lịch sử ta là một, văn hóa ta là một,
thủ đô ta là một; ở đó có Hồ Chủ tịch, có Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam, có Quốc hội và có Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Như vậy, kỷ niệm thành lập Thủ đô Hà Nội chẳng những có một ý nghĩa sâu
sắc về lịch sử, mà còn có một ý nghĩa to lớn về chính trị.
*
* *
ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP THỦ ĐÔ CỦA MỘT NƯỚC
VÀ VIỆC ĐỊNH ĐÔ Ở THĂNG LONG CỦA NƯỚC TA
Một vấn đề đề ra là: thế nào là thủ đô của một nước và thủ đô của một
nước khác với thủ phủ của một địa phương thế nào để đi đến việc định đô ở
Thăng Long, thủ đô của nước ta? Trước hết, chúng ta phải nhận điều kiện
thành lập một thủ đô quan hệ với sự hình thành một nhà nước, một quốc
gia. Thủ đô của một nước chỉ có thể dựng nên khi mà tình trạng cát cứ đã
không còn, nhà nước trung ương tập quyền đã thành lập và thủ đô trở lên
là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, đặc biệt là chính trị của
một nước. Do đó, một vấn đề nữa đặt ra: với điều kiện kể trên, Thăng
Long trước kia tức Hà Nội ngày nay có phải là thủ đô đầu tiên của nước
ta không và nó đã được thành lập trong điều kiện lịch sử nào?. Chúng tôi
trả lời ngay rằng thủ đô Thăng Long chính là thủ đô đầu tiên của nước
ta và nó đã được dựng nên vào lúc nhà nước trung ương tập quyền bắt đầu
thành lập: đầu triều Lý. Về thuyết này, có người cho rằng nhà nước trung
ương tập quyền của ta có thể bắt đầu từ Ngô Quyền (939 - 944), mà nếu
kể từ hồi Ngô Quyền thì thủ đô đầu tiên của nước ta không phải Thăng
Long, mà là Cổ Loa. Nhưng theo chỗ nghiên cứu của chúng tôi, thì Ngô
Quyền sau khi phá quân xâm lược Nam Hán, sự thực là vẫn chưa thống nhất
được lãnh thổ. Cho tới khi Đinh Tiên Hoàng dẹp xong mười hai sứ quân,
nạn cát cứ được thủ tiêu, đóng đô tại Hoa Lư, nhưng chính quyền vẫn chưa
thật ổn định, Hoa Lư chưa phải là thủ đô của nhà nước trung ương tập
quyền. Do đó, việc Lý Thái tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long chẳng phải
chỉ vì thấy địa thế Hoa Lư chật hẹp, mà còn chính vì nhà nước trung uơng
tập quyền đòi hỏi phải có một thủ đô “…ở giữa bờ cõi…, nơi hội họp then chốt của bốn phương chầu về”[2].
Cố nhiên nói đến lịch sử thủ đô Thằng Long ngày trước, tức là Thủ đô Hà
Nội ngày nay, chúng ta không cần nhắc đến thành Đại La của Cao Biền,
một tên tướng xâm lược của phong kiến nhà Đường, xuất hiện từ năm 875
trước đó.
Như vậy, nói việc thành lập thủ đô Thăng Long, chúng ta còn phải gắn nó
với việc thành lập nhà nước trung uơng tập quyền và Thăng Long là một
thủ đô chính thức đầu tiên của nước ta.
Tài liệu lịch sử chép rằng: tháng 7 năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Thiên
(1010), Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ khởi sự dời đô từ Hoa Lư về La
thành. Vì… “La thành ở giữa bờ cõi, có thế rồng quần hổ chầu, chính
được vị trí bốn phương. Vùng đất rộng rãi và bằng phẳng, mặt đất cao ráo
và sáng sủa. Dân cư không sợ ngập lụt, muôn vật lại rất thịnh giầu.
Nhìn khắp đất Việt chỉ có nơi đó là đất đẹp, thực là nơi hội họp then
chốt của bốn phương chầu lại”[3].
Chuyện “rồng vàng hiện lên” đối với chúng ta, không có nghĩa mê tín, mà
chỉ có nghĩa là một nơi phồn thịnh với khí thế đương lên của nó. Cái
tên Thăng Long tốt đẹp này đã truyền đi hơn tám thế kỷ, tượng trưng cho
dân tộc ta không ngừng phát triển từ hàng nghìn năm.
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA THỦ ĐÔ THĂNG LONG
TỨC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
1. Thủ đô Thăng Long là một trong những thủ đô vào hạng cổ nhất thế giới
Từ
1010 đến 1960, Thủ đô của chúng ta đã có 950 năm lịch sử, vào hạng thủ
đô lâu đời nhất trên thế giới. Nếu so với thủ đô của một số nước Đông
Nam Á thì thủ đô của ta đã xuất hiện rất sớm. Từ năm 1010 tới năm 1945,
mặc dầu có những lúc gián đoạn như Hồ Quý Ly tạm dời đô về Thanh hóa,
Nguyễn Huệ không đóng đô ở Thăng Long và triều Nguyễn đã hạ thấp thủ đô
Thăng Long thành một tỉnh thường lấy tên là Hà Nội, Thăng Long đã là cố
đô của nhiều triều đại và ngày nay, Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Lịch sử lâu dài của Thủ đô chứng minh sự phát triển
rất sớm và sự trường tồn mạnh mẽ của dân tộc ta.
2.
Thủ đô Thăng Long là nơi trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất
nước ta suốt trong thời kỳ độc lập dưới chế độ phong kiến
Chưa
nói từ năm 1945 tới giờ, Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Suốt trong thời kỳ độc lập của phong kiến, Thăng Long tức Hà
Nội vẫn là nơi trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của đất nước. Các
cơ quan đầu não của bộ máy nhà nước đều tập trung ở đấy. Những biến cố
chính trị đều diễn ra ở Thăng Long là vũ đài chính của nó. Nếu lịch sử
Thủ đô có những thời gian gián đoạn vì những động cơ nhất thời như đã
nói ở trên thì Thăng Long vẫn không lúc nào mất địa vị trung tâm chính
trị của đất nước. Như chúng ta đã biết, việc Hồ Quý Ly đắp thành Tây
Giai ở Thanh Hóa là nằm trong kế hoạch quân sự đối phó với giặc Minh.
Nhưng Thăng Long, tức Đông Đô, vẫn giữ vai trò thủ đô của đất nước.
Nguyễn Huệ xưng đế nhưng không ra ở Thăng Long vì còn phải ở Phú Xuân để
đối phó với tập đoàn Nguyễn Phúc Ánh ở miền Nam. Sau khi Nguyễn Huệ
chết, con là Nguyễn Quang Toản tức vua Cảnh Thịnh đã dời đô ra Thăng
Long. Còn triều Nguyễn, Gia Long sau khi đã bình định được toàn quốc
rồi, vẫn không nghe lời Đặng Trần Thường và Nguyễn Văn Thành để đóng đô ở
Thăng Long vì chúng vẫn không thu phục được một số đông nhân sĩ Bắc Hà
và không tiêu diệt được những cuộc khởi nghĩa nông dân vẫn kế tiếp nổi
dậy. Rồi đó, trong âm mưu chia cắt đất nước thành Bắc thành và Gia Định
thành, triều Nguyễn đã tìm đủ cách hạ thấp thủ đô tiêu biểu của đất
nước. Chúng đã e ngại cả cái tên Thăng Long với ý nghĩa rồng bay bổng để
đổi chữ “long” (龍) con rồng ra “long” (隆) là thịnh.
Chúng đã phá hết những dấu vết cũ của Tây Sơn (1804) bằng việc phá
thành cũ, dựng thành mới theo kiểu Vô - băng (Vauban) của Pháp. Cho đến
năm 1831, Minh Mạng lại đổi Bắc thành (tức Thăng Long) làm một tỉnh
thường, lấy tên là Hà Nội (bên trong sông Hồng) và bắt hàng ngàn dân phu
vận chuyển những vật liệu kiến trúc bằng gỗ đáo có giá trị mỹ thuật đưa
vào Huế. Mặc dầu Thăng Long đã bị đổi tên, bị phá hủy triệt để, Hà Nội,
tức Thăng Long, vẫn ngang nhiên là tiêu biểu của đất nước, đến nỗi bọn
phong kiến nhà Thanh khi phong sắc cho Minh Mạng và Thiệu Trị vẫn chỉ
đến Hà Nội rồi buộc bọn này ra Hà Nội nhận sắc. Tới khi thực dân Pháp
đánh chiếm nước ta, chúng đã lấy Hà Nội làm thủ phủ cho 5 xứ ở Đông
Dương.
Về
văn hóa và kinh tế, Thăng Long hay Hà Nội, dưới thời phong kiến, là nơi
tập trung những cơ quan văn hóa như Quốc Tử Giám, nhà Thái học, quán
Chiêu Văn, cục Tú Lâm… và những kỳ thi cao cấp như thi Hội, thi Đình đều
mở ở đây. Thăng Long còn là nơi tập trung những sĩ phu trí thức, đã
xuất hiện nhiều sách vở, thơ văn nổi tiếng ở các thời đại. Ấy là chưa
nói đến những danh lam thắng cảnh của Thủ đô đã là đề tài ngâm vịnh của
nhiều danh sĩ qua các thời đại và nhiều câu ca dao tuyệt đẹp trong dân
gian.
Năm 1877, khi thực dân Pháp đã đánh chiếm Nam Bộ, tên quan cai trị người Pháp là De La Liraye còn viết về Hà Nội như sau: “Mặc
dù Kẻ Chợ (tức Hà Nội) không phải là nơi vua ở nữa, nhưng Kẻ Chợ vẫn là
một thành phố đứng đầu trong cả nước về mặt nghệ thuật, công nghiệp,
thương nghiệp, về sự giầu có, về dân cư, về sự lịch thiệp và văn hóa.
Phải nói rằng trong cả nước không ở đâu công nghiệp bằng Kẻ Chợ và cả
miền Bắc lẫn miền Nam không đâu hơn Kẻ Chợ. Chính đây là nơi tập hợp
những người trí thức, những người thợ giỏi và những nhà buôn lớn. Những
đồ vật cần dùng hàng ngày và những mỹ nghệ phẩm xa hoa cũng đều ở đấy mà
ra. Nói tóm lại, Kẻ Chợ chính là trái tim của dân tộc Việt Nam”.
Những nhận xét kể trên của một tên thực dân, về phương diện khách quan
cũng đã nói lên địa vị ưu việt về kinh tế và văn hóa của Hà Nội.
3. Thủ đô Thăng Long là một thành phố đông, vui, to, đẹp trong thời phong kiến
Chúng
ta chưa nói Thủ đô Hà Nội ngày nay với tương lai tươi đẹp của nó, hãy
nói thủ đô Thăng Long thời phong kiến. Theo tài liệu lịch sử, thì đầu
thế kỷ thứ XI, Thăng Long đã có một quy mô kiến trúc to lớn: “Hoàng
thành tráng lệ ở phía Bắc kinh thành; quan lại và quân đội ở phía Nam
kinh thành; Đông và Tây là nơi phố phường dân ở và buôn bán”. Cuối thế
kỷ XIII, đầu thế kỷ XIV, thành phố Thăng Long đã có “những phường phố
sầm uất, buôn bán cả đêm tối”. Một giai thoại đương thời nói chuyện “vua
Trần Anh Tôn đêm đêm thường đi kiệu cùng vài chục người dạo chơi kinh
thành đến gà gáy mới về cung”. Chúng ta cũng có thể đoán biết kinh thành
có đông vui thì mỗi đêm, ông vua mới đi chơi bê tha như thế. Cũng theo
tài liệu lịch sử, thì thế kỷ XI, XII, khách thương quốc tế, chủ yếu là
Trung Quốc, Giava, Thái Lan đã tập trung nhiều ở Thăng Long. Thế kỷ XV,
XVI, tàu buôn các nước ra vào Thăng Long như mắc cửi, không mấy ngày
không có. Trong số tàu thuyền qua lại, có các tàu thuyền của Trung Quốc,
Nhật Bản, Hà Lan, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Phi Luật Tân, Thái Lan,
Campuchia... Từ thế kỷ XIV, XV, đã từng có những phố Hoa Kiều buôn bán.
Đến thế kỷ XVII, XVIII đã có những cửa hàng người Hà Lan, người Anh. Họ
được phép thuê đất làm nhà buôn bán ở phía bờ sông. Để chứng rõ Thăng
Long đông vui, to, đẹp, chúng tôi chỉ cần trích dẫn những câu nói của
một số người Âu châu đã đến nước ta từ những thế kỷ XVI, XVII, XIX nói
về Thăng Long.
Cố đạo Ma ri ni, người Ý, đã ở Thăng Long vào đầu thế kỷ thứ XVII, viết: “Kẻ
Chợ chiếm một vùng đồng bằng rất đẹp và rất phì nhiêu, rộng hàng bao
nhiêu dặm. Thành phố có 72 phường, mỗi phường rộng bằng một thành phố
trung bình nước Ý. Nếu ta đi từ kinh thành tức là thị trấn mà vào triều
tức là nơi cung điện nhà vua thì không chỉ thấy một cung điện, mà là cả
một thị trấn rất đẹp và rộng. Số lính canh gác và các quan văn võ rất
đông, voi ngựa và khí giới đạn dược rất nhiều, lạ quá sức tưởng tượng
của mọi người. Tuy cung vua chỉ xây dựng bằng gỗ, nhưng ở đó có rất
nhiều đồ vàng, đồ thêu, chiếu, thảm, rất tốt và đủ các màu sắc để tô
điểm, thật không đâu sánh kịp”.
Nhà buôn Anh Samuel Baron ở Thăng Long vào nửa cuối thế kỷ 17 đã viết: “Về diện tích, Kẻ Chợ có thể so sánh với nhiều thành phố khác ở châu Á, về dân số thì đông hơn nhiều”.
Cố đạo Ri sa (Richard) cũng nói về Thăng Long ở thế kỷ XVIII: “Phố
sá Kẻ Chợ rộng và đẹp, lát gạch từng quãng, hoặc lát từng hàng dài, để
chừa những lối đi không lát cho ngựa, voi, xe của nhà vua và các súc vật
khác”, “Số lượng thuyền bè rất lớn đến nỗi khó mà lội được xuống bờ
sông. Những sông bến buôn bán sầm uất nhất của chúng ta (châu Âu) kể cả
Vơ ni dơ (Vennise) với tất cả những thuyền lớn nhỏ của nó cũng không thể
làm người ta hình dung được đúng sự hoạt động buôn bán và dân cư đông
đúc trên sông Kẻ Chợ”.
Cho đến đầu thế kỷ XIX, Se-nhô (Chaigneau), một võ quan Pháp giúp việc cho Gia Long đã nói về Thăng Long năm 1820: “Trước khi bị chiến tranh tàn phá, Thăng Long như người ta nói, là một trong những công trình xây dựng đẹp nhất châu Á”.
Có
lẽ chúng tôi không cần chứng dẫn nhiều hơn nữa vì những lời nhận xét
của người ngoại quốc kể trên đã hình dung được cảnh to, đẹp, đông vui
của Thăng Long trước kia. Và, nếu các bạn có thì giờ hãy đọc lại bài
phú: “Tụng Tây hồ” của Nguyễn Huy Lượng để tưởng tượng lại Thăng Long
văn vật cuối thế kỷ XVIII.
Đây là cảnh sản xuất đông vui và buôn bán sầm uất của Thăng Long:
- Chày Yên Thái nện trong sương chềnh choàng?
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co
- Rập rình cuối bãi đuôi nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm;
Thanh lánh đầu hồ Cổ Ngựa, tháp cao tăng còn ghi cửa tò vò.
- Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh nọ ghẹo hai phường dệt gấm;
Sen vàng nọ nảy tiền xanh lác đác, lừa đóm ghen Năm xã gây lò.
Này đây là cảnh đẹp đầy thi vị của Thăng Long:
- Gió đìu hiu dòng Nhị thủy đưa lên, lồng hơi mát tới chùm hoa khóm trúc;
Trăng vằng vặc mái Tam Sơn rọi xuống, đớp bóng trăng từ lũ cá đàn cò.
- Gò Châu Long khi ngọn gió đưa quanh, hồi thú cổ thẳng kề bên mái Trúc (- Bạch);
Non Phục Tượng (Voi Phục) lúc vắng trăng hé mở, tiếng hàn châm nghe cách dải sông Tô (-Lịch).
4. Thủ đô Thăng Long đã nổi bật lên trong những cuộc chống ngoại xâm và vận động cách mạng
Thủ
đô Thăng Long chẳng những là một thành phố to, đẹp, đông vui như trên
đã nói, mà còn nổi bật lên trong những cuộc chống ngoại xâm và vận động
cách mạng.
Là
thủ đô lâu năm của một nước, là trung tâm điểm chính trị, Thăng Long đã
sống rất nhiều với những biến cố lịch sử. Trong những năm về phần cuối
thế kỷ thứ XIII, quân Mông Cổ ồ ạt kéo vào ba lần đánh chiếm Thăng Long,
nhưng rồi ba lần vua tôi nhà Trần, dựa vào sức ủng hộ to lớn của nhân
dân lại thắng trận trở về Thăng Long với câu thơ:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã;
Sơn hà tự cổ điện kim âu.
(Xã tắc hai phen bon ngựa đá,
Non sông muôn thủa vững âu vàng).
Nhiều
cuộc khởi nghĩa của nông dân đã làm rung động kinh thành Thăng Long; có
những lần quân khởi nghĩa đã làm chủ kinh thành trong một thời gian
ngắn như cuộc khởi nghĩa của Phạm Sư Ôn ở cuối thể kỷ XIV, của Trần Cao
đầu thế kỷ XVI. Thế kỷ XV, sau mười năm chiến đấu anh dũng và gian khổ,
Lê Lợi thu phục Đông Quan (tức Thủ đô Thăng Long) ghi trận thắng lợi
cuối cùng với bài “Bình Ngô đại cáo”. Trong hai thế kỷ XVII và XVIII,
lính Tam phủ, những người nông dân mặc áo lính, đã bốn lần gây chính
biến ở Thăng Long, làm đảo lộn cả trật tự của vua Lê chúa Trịnh. Khoái
chá nhất là trận Đống Đa ngày mồng 5 tháng Giêng năm Mậu Thân (1789) của
người hùng áo vải là Nguyễn Huệ, đã diệt 20 vạn quân ngoại xâm, chấm
dứt cuộc xâm lược của triều đình Mãn Thanh và cũng chấm dứt luôn cả cuộc
xâm lược của phong kiến Trung Quốc. Thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam,
Hà Nội hai lần bị thất thủ (1873 và 1882), nhưng quân dân Hà Nội đã anh
dũng chống giặc và qua những bài Chính khí ca và Hà Thành thất thủ ca,
chúng ta thấy rõ sự tham gia chiến đấu hay ủng hộ chiến đấu của nhân
dân Hà Nội bấy giờ. Đầu thế kỷ thứ XX, Đông Kinh nghĩa thục (1907) của
các sĩ phu yêu nước đã được lập ra ở Hà Nội và tỏa đi các nơi, gây thành
một phong trào cách mạng về văn hóa. Cuộc bỏ thuốc độc cho sĩ quan Pháp
và chuẩn bị khởi nghĩa của binh lính người Việt đã nổ ra ở Hà Nội năm
1908. Việc ném bom giết hai sĩ quan Pháp tại khách sạn Hà Nội do các
đảng viên Việt Nam Quang phục hội chủ trương đã nổ ra năm 1913. Cho đến
những tiếng bom của nhóm học sinh trường Kỹ nghệ Hà Nội hưởng ứng cuộc
khởi nghĩa Yên Bái đã nổ ra đêm 10 - 2 - 1930.
Bắt
đầu từ năm 1930, cách mạng Việt Nam do giai cấp công nhân lãnh đạo bước
sang một giai đoạn mới thì Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên đã được thành
lập giữa những người lãnh đạo Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội
tại Hà Nội. Chính tại Hà Nội đã xuất hiện Ban Chấp hành Trung ương lâm
thời của Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong những năm 1936 - 39, phong trào
Mặt trận Dân chủ dâng lên, Hà Nội là nơi trung tâm với nhóm Cộng sản
công khai là nhóm Tin tức, đã xuất hiện những tờ báo của Đảng, của Mặt
trận và những cuộc biểu tình khổng lồ, đình công, bãi thị của đông đảo
công nhân, nông dân, tiểu thương, học sinh... đã liên tiếp nổ ra ở Hà
Nội.
Cho
đến ngày 19 - 8 -1945, ngày đoạt chính quyền ở Hà Nội mở đầu cho cuộc
Tổng khởi nghĩa toàn quốc, đưa đến Cách mạng tháng Tám thành công.
Ngày 2-9-1945, bản Tuyên ngôn Độc lập
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ lâm thời đọc tại quảng
trường Ba Đình đã khai sinh cho nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa mà thủ đô
là Hà Nội. Thế là sau một thời gian 143 năm, kể từ khi Gia Long đóng đô
ở Thuận Hóa, thủ đô của đất nước ta lại trở về với chốn nghìn năm văn
vật.
Từ
đó, dân tộc ta chuyển mình trong những ngày vinh quang nhất, Thủ đô Hà
Nội với Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ là nơi tỏa ra những hào
quang chiếu dọi khắp nước. Rồi, ngày 19-12-1946, tiếng súng giết giặc nổ
ra ở Thủ đô báo hiệu một cuộc toàn quốc kháng chiến.
Ngày
10-10-1954, quân đội vinh quang của ta trở về Thủ đô cũng báo hiệu cuộc
kháng chiến kết thúc thắng lợi và một lần nữa, nhân dân Thủ đô cũng như
nhân dân toàn quốc sang một giai đoạn mới của lịch sử.
*
* *
Trở
lên trên, chúng tôi đã trình bày bày về Thủ đô Thăng Long tức Thủ đô Hà
Nội qua các triều đại với những đặc điểm của nó. Thủ đô của chúng ta
với 950 năm từ ngày thành lập đã qua 848 năm dưới chế độ phong kiến, 87
năm dưới chế độ thực dân nửa phong kiến và từ năm 1945 tới nay, Thủ đô
hoàn toàn giải phóng dưới chính quyền Dân chủ Nhân dân và đương xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Nhắc đến Thủ đô Hà Nội và kỷ niệm 950 năm thành lập
Thủ đô Hà Nội, chúng ta không đượm màu hoài cổ, nhớ tiếc những cái dĩ
vãng đã lỗi thời để ngâm lại những câu:
Nghìn xưa cung cũ, đường vùi dấu
Một khúc thành nay, điện mất tăm
(Nguyễn Du).
Hay:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nếp cũ lâu đài bóng tịch dương
(Bà Huyện Thanh Quan).
Chúng
ta rất phấn khởi tự hào cho dân tộc có một thủ đô lâu năm, nhưng chúng
ta càng phấn khởi thấy Thủ đô mới dẫn đầu đất nước tiến lên giai đoạn
mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực
hiện thống nhất đất nước. Chúng ta không thương cảm cái đã mất, cái lạc
hậu mà hăng hái xây dựng những cái mới để làm cho Thủ đô non một nghìn
năm của chúng ta vẫn trẻ và ngày càng tươi trẻ, xứng đáng là Thủ đô của
nước Việt Nam thống nhất và Xã hội chủ nghĩa.
(Diễn
văn của đồng chí Trần Huy Liệu, Viện trưởng Viện Sử học, đọc tại buổi
lễ kỷ niệm 950 năm thành lập Thủ đô và 6 năm giải phóng Thủ đô do Uỷ ban
Hành chính và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội tổ chức ngày 10
tháng 10 năm 1960. Bài in trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 20
(11/1960), tr.74-78)