TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
I. MỤC TIÊU,
CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO
1. Mục tiêu
hoạt động và chức năng của WTO
WTO với tư
cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, thực hiện
những mục tiêu đã được nêu trong Lời nói đầu của Hiệp định GATT 1947 là nâng cao
mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc làm và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế
giới. Cụ thể WTO có 3 mục tiêu sau:
Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới
phục vụ cho sự phát triển, ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường;
Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất
đồng và tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ
thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc
tế, bảo đảm cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển
nhất được thụ hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc
tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các
nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới;
Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước
thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
WTO thực hiện
5 chức năng sau:
Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thỏa thuận
thương mại đa phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ
thuật cho các nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa
phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên
quan đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại
đa phương và nhiều bên.
Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành
viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các
quy định của WTO, Hiệp định thành lập WTO (Phụ lục 3) đã quy định một cơ chế
kiểm điểm chính sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên.
Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như
Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới trong việc hoạch định những chính sách
và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
2. Các nguyên tắc
pháp lý của WTO
Về phương
diện pháp lý, Ðịnh ước cuối cùng của vòng đàm phán Uruguay ký ngày 15-4-1999 tại
Marrakesh là một văn kiện pháp lý có phạm vi điều chỉnh rộng lớn nhất và có tính
chất kỹ thuật pháp lý phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao và luật pháp quốc
tế. Về dung lượng, các hiệp định được ký tại Marrakesh và các phụ lục kèm theo
bao gồm 50.000 trang, trong đó riêng 500 trang quy định về các nguyên tắc và
nghĩa vụ pháp lý chung của các nước thành viên như sau:
Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới;
20 hiệp định đa phương về thương mại hàng hoá;
- 4
hiệp định đa phương về thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh
chấp, kiểm điểm chính sách thương mại;
- 4
hiệp định nhiều bên về Hàng không dân dụng, mua sắm của chính phủ, sản phẩm sữa
và sản phẩm thịt bò;
- 23
tuyên bố (declaration) và quyết định (decision) liên quan đến một số vấn đề chưa
đạt được thỏa thuận trong vòng đàm phán Uruguay.
Tổ chức
thương mại thế giới được xây dựng dựa trên bốn nguyên tắc pháp lý nền tảng là:
tối huệ quốc; đãi ngộ quốc gia; mở cửa thị trường và cạnh tranh công bằng.
Nguyên tắc
tối huệ quốc (MFN)
Tối huệ quốc,
viết tắt theo tiếng Anh là MFN (Most favoured nation), là nguyên tắc pháp lý
quan trọng nhất của WTO. Tầm quan trọng đặc biệt của MFN được thể hiện ngay tại
Ðiều I của Hiệp định GATT (mặc dù bản thân thuật ngữ ''tối huệ quốc'' không được
sử dụng trong điều này). Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một nước dành cho một
nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu
đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác. Thông thường nguyên tắc MFN được quy
định trong các hiệp định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN được áp dụng
đa phương đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đồng nghĩa với nguyên
tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ dành cho nhau sự
''đối xử ưu đãi nhất''. Nguyên tắc MFN trong WTO không có tính chất áp dụng
tuyệt đối. Hiệp định GATT 1947 quy định mỗi nước có quyền tuyên bố không áp dụng
tất cả các điều khoản trong Hiệp định đối với một nước thành viên khác (Trường
hợp không áp dụng MFN đối với Cuba mặc dù Cuba là thành viên sáng lập GATT- và
WTO).
Nếu như
nguyên tắc MFN trong GATT 1947 chỉ áp dụng đối với ''hàng hoá'' thì trong WTO,
nguyên tắc này đã được mở rộng sang thương mại dịch vụ (Ðiều 2 Hiệp định GATS),
và sở hữu trí tuệ (Ðiều 4 Hiệp định TRIPS).
Mặc dù được
coi là ''hòn đá tảng'' trong hệ thống thương mại đa phương, Hiệp định GATT 1947
và WTO vẫn quy định một số ngoại lệ (exception) và miễn trừ (waiver) quan trọng
đối với nguyên tắc MFN. Ví dụ như Ðiều XXIV của GATT quy định các nước thành
viên trong các hiệp định thương mại khu vực có thể dành cho nhau sự đối xử ưu
đãi hơn mang tính chất phân biệt đối xử với các nước thứ ba, trái với nguyên tắc
MFN. GATT 1947 cũng có hai miễn trừ về đối xử đặc biệt và ưu đãi hơn với các
nước đang phát triển. Miễn trừ thứ nhất là Quyết định ngày 25-6-1947 của Ðại hội
đồng GATT về việc thiết lập ''Hệ thống ưu đãi phổ cập'' (GSP) chỉ áp dụng cho
hàng hoá xuất xứ từ những nước đang phát triển và chậm phát triển. Trong khuôn
khổ GSP, các nước phát triển có thể thiết lập một số mức thuế ưu đãi hoặc miễn
thuế quan cho một số nhóm mặt hàng có xuất xứ từ các nước đang phát triển và
chậm phát triển và không có nghĩa vụ phải áp dụng những mức thuế quan ưu đãi đó
cho các nước phát triển khác theo nguyên tắc MFN. Miễn trừ thứ hai là Quyết định
ngày 26-11-1971của Ðại hội đồng GATT về ''Ðàm phán thương mại giữa các nước đang
phát triển'', cho phép các nước này có quyền đàm phán, ký kết những hiệp định
thương mại dành cho nhau những ưu đãi hơn về thuế quan và không có nghĩa vụ phải
áp dụng cho hàng hoá đến từ các nước phát triển, trên cơ sở Quyết định này, Hiệp
định về “Hệ thống ưu đãi thương mại toàn cầu giữa các nước đang phát triển
(Global System of Trade preferences among developing Countries- GSPT) đã được ký
năm 1989.
Mặc dù được
tất cả các nước trong GATT/WTO công nhận là nguyên tắc nền tảng nhưng thực tế
cho thấy các nước, phát triển cũng như đang phát triển, không phải lúc nào cũng
tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc MFN và đã có rất nhiều tranh chấp trong lịch sử
của GATT liên quan đến việc áp dụng nguyên tắc này. Thông thường thì vi phạm của
các nước đang phát triển dễ bị phát hiện và bị kiện nhiều hơn vi phạm của các
nước phát triển.
Năm 1981,
Braxin đã kiện Tây Ban Nha ra trước GATT về thuế suất đặc biệt đối với cà phê
chưa rang. Braxin cho rằng Nghị định 1764/79 của Tây Ban Nha quy định các mức
thuế quan khác nhau đối với năm loại cà phê chưa rang khác nhau (cà phê Arập
chưa rang, cà phê Robusta, cà phê Côlômbia, cà phê nhẹ và cà phê khác). Hai loại
cà phê đầu được nhập khẩu miễn thuế, ba loại cà phê còn lại chịu mức thuế giá
trị gia tăng là 7%. Sau khi xem xét nghị định nói trên, Nhóm chuyên gia của GATT
đã đi đến kết luận như sau: ''Hiệp định GATT không quy định nghĩa vụ cho các bên
ký kết phải tuân thủ một hệ thống phân loại hàng hoá đặc biệt nào. Tuy nhiên,
Điều I.1 của GATT quy định nghĩa vụ của các Bên ký kết phải dành một sự đối xử
như nhau cho những sản phẩm tương tự… Lập luận của Tây Ban Nha biện minh cho sự
cần thiết phải có sự đối xử khác nhau đối với từng loại cà phê khác nhau chủ yếu
dựa trên những yếu tố như địa lý, phương pháp trồng trọt, quá trình thu hoạch
hạt và giống. Những yếu tố này tuy có khác nhau nhưng không đủ để Tây Ban Nha có
thể áp dụng những thuế suất khác nhau đối với từng loại cà phê khác nhau. Ðối
với tất cả những người tiêu thụ cà phê trên thế giới thì cà phê chưa rang được
bán dưới dạng hạt cho dù thuộc nhiều loại khác nhau cũng chỉ là một sản phẩm
cùng loại, có tính năng sử dụng duy nhất là để uống mà không phân biệt độ cafein
mạnh hay nhẹ. Năm loại cà phê chưa rang nhập khẩu có tên trong danh mục thuế
quan của Tây Ban Nha đều là những sản phẩm cùng loại. Việc Tây Ban Nha áp dụng
một mức thuế quan cao hơn đối với hai loại cà phê Arập và Robusta, được nhập
khẩu từ Braxin mang tính chất phân biệt đối xử đối với những sản phẩm cùng loại
và như vậy trái với quy định của Ðiều I, khoản 1 hiệp định GATT.
Nguyên tắc đãi ngộ
quốc gia
Nguyên tắc
đãi ngộ quốc gia (National Treatment – NT), quy định tại Ðiều III Hiệp định
GATT, Ðiều 17 GATS và đều 3 TRIPS. Nguyên tắc NT được hiểu là hàng hoá nhập
khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém
thuận lợi hơn so với hàng hoá cùng loại trong nước. Trong khuôn khổ WTO, nguyên
tắc NT chỉ áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ chưa áp
dụng đối với cá nhân và pháp nhân. Phạm vi phạm áp dụng của nguyên tắc NT đối
với hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ có khác nhau. Ðối với hàng hoá và sở hữu
trí tuệ việc áp dụng nguyên tắc NT là một nghĩa vụ chung (general obligation),
có nghĩa là hàng hóa và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài sau khi đã đóng thuế
quan hoặc được đăng ký bảo vệ hợp pháp phải được đối xử bình đẳng như hàng hoá
và quyền sở hữu trí tuệ trong nước đối với thuế và lệ phí nội địa, các quy định
về mua, bán, phân phối, vận chuyển. Ðối với dịch vụ, nguyên tắc này chỉ áp dụng
đối với những lĩnh vực, ngành nghề đã được mỗi nước đưa vào trong danh mục cam
kết cụ thể của mình và mỗi nước có quyền đàm phán đưa ra những ngoại lệ
(exception).
Các nước, về
nguyên tắc, không được áp đụng những hạn chế số lượng nhập khẩu và xuất khẩu,
trừ những ngoại lệ được quy định rõ ràng trong các hiệp định của WTO, cụ thể đó
là các trường hợp mất cân đối cán cân thanh toán (Ðiều XII và XVIII.b); nhằm mục
đích bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ trong nước (Ðiều XVIII.c); bảo vệ ngành
sản xuất trong nước chống lại sự gia tăng đột ngột về nhập khẩu hoặc để đối
phó với sự khan hiếm một mặt hàng trên thị trường quốc gia do xuất khẩu quá
nhiều (Ðiều XIX); vì lý do sức khoẻ và vệ sinh (Ðiều XX) và vì lý do an ninh
quốc gia (Ðiều XXI).
Một trong
những ngoại lệ quan trọng đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là vấn đề trợ giá
cho sản xuất hoặc xuất hay nhập khẩu. Vấn đề này được quy định lần đầu tại điều
VI và Ðiều XVI Hiệp định GATT 1947 và sau này được điều chỉnh trong thỏa thuận
Vòng Tokyo 1979 và hiện nay trong Thỏa thuận Vòng đàm phán Uruguay về trợ cấp và
thuế đối kháng, viết tắt theo tiếng Anh là SCM. Thỏa thuận SCM có một điểm khác
biệt lớn so với GATT 1947 và Thỏa thuận Tokyo ở chỗ nó được áp dụng cho cả các
nước phát triển và đang phát triển. Hiệp định mới về trợ giá phân chia các loại
trợ giá làm 3 loại: loại ''xanh''; loại “vàng'' và loại ''đỏ'' theo nguyên tắc
''đèn hiệu giao thông'' (traffic lights).
Riêng về vấn
đề hạn chế số lượng đối với hàng dệt may được quy định trong Hiệp định Ða sợi
(MFA) và hiện nay được thay thế bởi Hiệp định về hàng dệt may của vòng đàm phán
Uruguay (ATC). Hiệp định ATC đã chấm dứt 30 năm các nước phát triển phân biệt
đối xử đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển. Các nước phát triển sẽ
có một thời gian chuyển tiếp là 10 năm để bãi bỏ chế độ hạn ngạch về số lượng
hiện hành. Ðiều 1 của Hiệp ATC cũng quy định điều khoản cứu xét đặc biệt đối với
một số nhóm nước; ví dụ như các nước cung cấp nhỏ, các nước mới bước vào thị
trường (new entrants), các nước phát triển nhất, các nước đã ký hiệp định MFA từ
1986 cũng như các nước xuất khẩu bông.
Việc áp dụng
quy chế đãi ngộ quốc gia trên thực tế gây ra rất nhiều tranh chấp giữa các bên
ký kết GATT/WTO Bởi một lý do dễ hiểu là nếu các nước dễ chấp nhận nguyên tắc
đối xử bình đẳng đối với các nước thứ ba thì nước nào cũng muốn dành một sự bảo
hộ nhất định đối với sản phẩm nội địa. Mục tiêu chính của nguyên tắc đãi ngộ
quốc gia là tạo ra những điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hoá nhập khẩu
và hàng hoá nội địa cùng loại trong vụ Vênêxuêla kiện Mỹ về thuế môi trường đối
với xăng dầu, bồi thẩm đoàn của GATT đã khẳng định lại Ðiều III 2 Hiệp định GATT
quy định nghĩa vụ của các bên ký kết tạo những điều kiện cạnh tranh bình đẳng
cho cả hàng hoá nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Trong vụ kiện khác mà Mỹ
liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, bồi thẩm đoàn của GATT
đã khẳng định lại nguyên tắc việc áp dụng thuế nội địa, luật và quy định về mua
bán vận chuyển phân phối và sử dụng hàng hoá không được mang tính chất bảo hộ
hàng hoá sản xuất trong nước.
Về vấn đề
''doanh nghiệp nhà nước độc quyền thương mại'', Hiệp định không cấm các bên ký
kết thành lập hoặc duy trì những doanh nghiệp nhà nước kiểu như vậy nhưng phải
bảo đảm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia vẫn được áp dụng đối với những doanh nghiệp
này. Trong vụ Mỹ kiện Thái lan về những hạn chế số lượng và tăng thuế tiêu thụ
đánh vào thuốc lá điếu nhập khẩu, Nhóm chuyên gia của GATT đã quyết định rằng
Chính phủ Thái Lan có quyền thành lập ''Thai Tobacco Monopoly” là công ty của
Nhà nước độc quyền trong lĩnh vực nhập khẩu và phân phối thuốc lá Thái Lan và có
quyền sử dụng công ty này để điều chỉnh giá cả và hệ thống bán lẻ thuốc lá. Tuy
nhiên, ngược lại Thái Lan cũng có nghĩa vụ theo đãi ngộ quốc gia không được đối
xử với thuốc lá nhập khẩu kém ưu đãi hơn so với thuốc lá sản xuất trong nước. Vì
vậy, việc Thái Lan hạn chế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thuốc lá ngoại và tăng
thuế tiêu thụ nội địa căn cứ vào tỷ lệ ''nội hoá'' trong thuốc lá là vi phạm
Ðiều III của GATT về đãi ngộ quốc gia. Bồi thẩm đoàn của GATT đồng thời cũng
bác bỏ lập luận của Thái Lan viện dẫn điều khoản cho phép hạn chế số lượng vì lý
do sức khoẻ vì cho rằng mục tiêu thực sự của Chính phủ Thái Lan không phải là để
hạn chế việc tiêu thụ thuốc lá nói chung (việc hạn chế nhập khẩu và tăng thuế
không áp dụng đối vớí sợi và giấy để sản xuất thuốc lá nội địa) mà thực chất là
nhằm bảo hộ ngành sản xuất thuốc lá của Thái Lan.
Nguyên tắc
đãi ngộ quốc gia cùng với MFN là hai nguyên tắc nền tảng quan trọng nhất của hệ
thương mại đa phương mà ý nghĩa thực sự là bảo đảm việc tuân thủ một cách nghiêm
túc những cam kết về mở cửa thị trường là tất cả các nước thành viên đã chấp
nhận khi chính thức trở thành thành viên của WTO.
Nguyên tắc mở
cửa thị trường
Nguyên tắc
''mở cửa thị trường'' hay còn gọi một cách hoa mỹ là tiếp cận thị trường (market
access) thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư nước
ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều
chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một
hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa.
Về mặt chính
trị, ''tiếp cận thị trường'' thể hiện nguyên tắc tự do hoá thương mại của WTO.
Về mặt pháp lý “tiếp cận thị trường” thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc
thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà nước này đã chấp thuận khi đàm
phán gia nhập WTO.
Nguyên tắc
cạnh tranh công bằng
Cạnh tranh
công bằng (fair competition) thể hiện nguyên tắc ''tự do cạnh tranh trong những
điều kiện bình đẳng như nhau'' và được công nhận trong án lệ của vụ Uruguay kiện
15 nước phát triển (1962) về việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau đối
với cùng một mặt hàng nhập khẩu. Do tính chất nghiêm trọng của vụ kiện, Ðại hội
đồng GATT đã phải thành lập một Nhóm Công tác (Working Group) để xem xét vụ này.
Nhóm Công tác đã cho kết luận rằng, về mặt pháp lý việc áp đụng các mức thuế
nhập khẩu khác nhau đối với cùng một mặt hàng không trái với các quy định của
GATT, nhưng việc áp đặt các mức thuế khác nhau này đã làm đảo lộn những “điều
kiện cạnh tranh công bằng'' mà Uruguay có quyền mong đợi từ phía những nước phát
triển và đã gây thiệt hại cho lợi ích thương mại của Uruguay. Trên cơ sở kết
luận của nhóm công tác, Ðại hội đồng thông qua khuyến nghị các nước phát triển
có liên quan “đàm phán” với Uruguay để thay đổi các cam kết, và nhân nhượng thuế
quan trước đó. Vụ kiện của Uruguay đã tạo ra một tiền lệ mới, nhìn chung có
lợi cho các nước đang phát triển từ nay các nước phát triển có thể bị kiện
ngay cả khi về mặt pháp lý không vi phạm bất kỳ điều khoản nào trong hiệp định
GATT nếu những nước này có những hành vi trái với nguyên tắc cạnh tranh công
bằng.
3. Cơ cấu tổ chức của WTO
WTO có một cơ
cấu gồm 3 cấp: 1. Các cơ quan lãnh đạo chính trị và có quyền ra quyết định
(decision-making power) bao gồm Hội nghị Bộ trưởng, Ðại hội đồng WTO, cơ quan
giải quyết tranh chấp và cơ quan kiểm điểm chính sách thương mại; 2. Các cơ quan
thừa hành và giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa phương, bao gồm
Hội đồng GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng TRIPS; 3. Cuối cùng là các cơ quan thực
hiện chức năng hành chính - thư ký là Tổng giám đốc và Ban Thư ký WTO.
3.1 Hội nghị
Bộ trưởng, Ðại hội đồng WTO, Cơ quan giải quyết tranh chấp và cơ quan kiểm điểm
chính sách thương mại
Hội nghị Bộ trưởng WTO: là cơ quan lãnh đạo chính trị cao nhất
của WTO, họp ít nhất hai năm một lần, thành viên là đại diện cấp Bộ trưởng của
tất cả các thành viên. Ðiều IV.1 Hiệp định thành lập WTO quy định Hội nghị Bộ
trưởng WTO thực hiện tất cả các chức năng của WTO và có quyền quyết định mọi
hành động cần thiết để thực hiện những chức năng đó. Hội nghị Bộ trưởng WTO cũng
có quyền quyết định về tất cả các vấn đề trong khuôn khổ bất kỳ một hiệp định đa
phương nào của WTO.
Ðại hội đồng WTO: trong thời gian giữa các khoá họp của Hội nghị
Bộ trưởng WTO, các chức năng của Hội nghị Bộ trưởng WTO do Ðại hội đồng
(General Council) đảm nhiệm. Ðại hội đồng WTO hoạt động trên cơ sở thường trực
tại trụ sở của WTO ở Geneva, Thụy Sĩ. Thành viên của Ðại hội đồng WTO là đại
diện ở cấp Ðại sứ của chính phủ tất cả các thành viên. Ða số các nước đang phát
triển thường cử luôn Ðại sứ, Trưởng đại diện bên cạnh Liên hợp quốc tại Geneva
làm đại sứ tại WTO; các nước phát triển, đặc biệt là các cường quốc thương mại
hàng đầu như Mỹ, EU đều cử Ðại sứ riêng về WTO tại Geneva. Các ủy ban báo cáo
lên Ðại hội đồng WTO.
Ðại hội đồng
có quyền thành lập các ủy ban giúp việc và báo cáo trực tiếp lên Ðại hội đồng
là: ủy ban về thương mại và phát triển; ủy ban về các hạn chế cán cân thanh
toán; ủy ban về ngân sách, tài chính và quản trị; ủy ban về các hiệp định thương
mại khu vực. Ba ủy ban đầu được thành lập theo hiệp định về thành lập WTO, ủy
ban cuối cùng được thành lập vào tháng 2-1996 theo quyết định của Ðại hội đồng
WTO.
Ngoài ra còn
có hai ủy ban là ''Ủy ban về hàng không dân dụng” và “Ủy ban về mua sắm chính
phủ” được thành lập theo quyết định của Vòng Tokyo và có số thành viên hạn chế
(chỉ những nước ký kết các ''bộ luật'' có liên quan của vòng Tokyo mới được
tham gia), vẫn tiếp tục hoạt động trong khuôn khổ của WTO. Nhưng những ủy ban
này không phải báo cáo (report) mà chỉ có nghĩa vụ thông báo (notify) thường
xuyên về hoạt động của họ lên Ðại hội đồng WTO.
Cơ quan giải quyết tranh chấp và Cơ quan kiểm điểm chính sách
thương mại: Ðiều IV.2 Hiệp định WTO quy định, ngoài các việc thực hiện các chức
năng của Hội nghị Bộ trưởng WTO trong thời gian giữa hai khoá họp, Ðại hội đồng
-WTO còn thực hiện những chức năng khác được trao trực tiếp theo các Hiệp định
thương mại đa phương, trong đó quan trọng nhất là chức năng giải quyết tranh
chấp và chức năng kiểm điểm chính sách thương mại. Chính vì vậy mà Ðại hội đồng
WTO đồng thời là “cơ quan giải quyết tranh chấp” (DSB - Dispute Settlement Body)
khi thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp và là ''Cơ quan kiểm điểm chính
sách mại''(TPRB - Trade Policy Review Body) khi thực hiện chức năng kiểm điểm
chính sách thương mại.
3.2 Các Cơ
quan thừa hành giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa phương
WTO có 3 hội
đồng (Council) được thành lập để giám sát việc thực thi 3 hiệp đinh thương mại
đa phương là: Hội đồng GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng TRIPS. Tất cả nước thành
viên đều có quyền tham gia vào hoạt động của 3 hội đồng này. Ba hội đồng nói
trên báo cáo trực tiếp các công việc của mình lên Ðại hội đồng WTO.
Ngoài ra còn
có các cơ quan được các hội đồng của WTO thành lập với tư cách là cơ cấu trực
thuộc (subsidiary bodies) để giúp các hội đồng này trong việc thực hiện các chức
năng kỹ thuật, ví dụ như ''ủy ban về thâm nhập thị trường'', ủy ban về trợ giá
nông nghiệp” và các ''Nhóm công tác (working group) được thành lập trên cơ sở
tạm thời để giải quyết những vấn đề cụ thể, ví dụ như các “nhóm Công tác về việc
gia nhập WTO" của một số nước.
Khác với GATT 1947, WTO có một Ban Thư ký rất quy mô, bao gồm
khoảng 500 viên chức và nhân viên thuộc biên chế chính thức của WTO. Ðứng đầu
Ban Thư ký WTO là Tổng giám đốc WTO. Tổng giám đốc WTO do Hội nghị Bộ trưởng bổ
nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm. Ngoài vai trò điều hành, Tổng giám đốc cửa WTO còn có
một vai trò chính trị rất quan trọng trong hệ thống thương mại đa phương. Chính
vì vậy mà việc lựa chọn các ứng cử viên vào chức vụ này luôn là một cuộc
chạy đua ác liệt giữa các nhân vật chính trị quan trọng, cấp Bộ trưởng, Phó Thủ
tướng hoặc Tổng thống (Trong số các ứng cử viên vào chức vụ Tổng giám đốc đầu
tiên của WTO có ông Salinas, cựu Tổng thống Mêhicô).
Quyền hạn và
trách nhiệm của Tổng giám đốc do Hội nghị Bộ trưởng quyết định. Biên chế Ban Thư
ký WTO do Tổng giám đốc quyết định. Tổng giám đốc và thành viên Ban Thư ký WTO
có quy chế tương tự như của viên chức các tổ chức quốc tế, hoạt động độc lập và
chỉ tuân theo các quyết định và tôn chỉ của WTO. Họ được hưởng các quyền ưu đãi
miễn trừ tương tự như viên chức của các tổ chức chuyên môn cua Liên hợp quốc.
Cũng như những người tiền nhiệm trước kia trong GATT, Tổng giám đốc WTO có vai
trò hết sức quan trọng, dẫn dắt các vòng đàm phán thương mại đa biên và giải
quyết tranh chấp (Ông Rugiero, Tổng giám đốc sắp mãn nhiệm cửa WTO đã đóng vai
trò trung gian hoà giải rất tích cực và có hiệu quả trong vụ tranh chấp giữa Mỹ
và EU liên quan đến việc áp dụng các đạo luật Helms-Burton và D’Amato-Kennedy
năm 1997). Vị trí đặc biệt của Tổng giám đốc WTO thể hiện một trong những nét
đặc trưng trong ngoại giao đa phương ngày nay khi trên thực tế các quan chức
lãnh đạo cao cấp của các tổ chức quốc tế ngày càng đóng vai trò “điều hành''
(managing) nhiều hơn là “chấp hành'' (executive).
4. Tư cách
thành viên của WTO
Tuy là một tổ
chức quốc tế liên chính phủ nhưng thành viên của WTO không chỉ có các quốc gia
có chủ quyền mà cả những lãnh thổ riêng biệt, ví dụ như EU, Hồng Công, Macao.
Có hai loại
thành viên theo quy định của Hiệp định về WTO: thành viên sáng lập và thành viên
gia nhập. Thành viên sáng lập là những nước là một bên ký kết GATT 1947 và phải
ký, phê chuẩn Hiệp định về WTO trước ngày 31-12-1994 (tất cả các bên ký kết GATT
đều đã trở thành thành viên sáng lập của WTO). Thành viên gia nhập là các nước
hoặc lãnh thổ gia nhập hiệp Hiệp định WTO sau ngày 1-1-1995 các nước này đều
phải đàm phán về các điều kiện gia nhập với tất cả các nước đang là thành viên
của WTO và quyết định gia nhập phải được Ðại hồi đồng WTO bỏ phiếu thông qua với
ít nhất hai phần ba số phiếu thuận.
Khác với việc
gia nhập, việc rút khỏi WTO phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định riêng của từng
nước. Ðiều XV Hiệp định về WTO quy định việc rút khỏi WTO bao hàm cả việc rút
khỏi tất cả các hiệp định thương mại đa phương và sẽ có hiệu lực sau 6 tháng kể
từ ngày WTO nhận được thông báo bằng văn bản về việc rút. Thượng viện Mỹ khi bỏ
phiếu cho phép Tổng thống phê chuẩn Hiệp định WTO đã thông qua quyết định về
việc nước này sẽ rút khỏi WTO nếu một ủy ban đặc biệt bao gồm 5 cựu thẩm phán
liên bang của Mỹ kết luận rằng Mỹ đã bị Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO xử
cho thua một cách “phi lý” hoặc các quyền lợi cơ bản (substantial) của Mỹ đã bị
''vi phạm” trong 3 quyết định liên tiếp của cơ quan này. Việc EU rút khỏi WTO
phức tạp hơn vì Ủy ban châu Âu (Cơ quan hành pháp của Liên minh châu Âu) không
có thẩm quyền thay mặt tất cả các nước thành viên EU để ra một quyết định như
vậy. Ðây là một vấn đề còn đang tranh cãi giữa các chuyên gia pháp lý của EU.
Một số cho rằng EU chỉ có thể rút khỏi WTO khi tất cả các nước thành viên EU đều
rút khỏi tổ chức này. Một số khác cho rằng chỉ cần một hoặc một số thành viên
chủ chốt của EU như Ðức, Pháp, Anh... rút khỏi WTO cũng đủ để cho EU không còn
tư cách đại diện cho 15 nước thành viên tại tổ chức này.
Ngân sách
hoạt động của WTO do tất cả các nước thành viên đóng góp trên cơ sở tương ứng
với phần của mỗi nước trong thương mại quốc tế. Tỷ lệ đóng góp tối thiểu là 0,03
% ngân sách của WTO.
5. Cơ chế ra
quyết định của WTO
Về phương
diện ra quyết định, WTO là một tổ chức kinh tế quốc tế liên chính phủ khác với
một số tổ chức khác. Về nguyên tắc, các quyết định lớn và quan trọng nhất của
WTO do chính phủ tất cả các nước thành viên thông qua, hoặc ở cấp bộ trưởng tại
Hội nghị Bộ trưởng hoặc ở cấp Đại sứ tại Đại hội đồng WTO. Tất cả các quyết định
này thông thường được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Khác với IMF hoặc WB,
Ban Thư kư hoặc Tổng giám đốc WTO không được các nước thành viên chuyển giao
thực hiện những quyền lực quan trọng và quan điểm của WTO không ảnh hưởng đến
việc hoạch định chính sách thương mại của các nước thành viên (đây là sự khác
nhau cơ bản giữa WTO và IMF hoặc WB). Những nghĩa vụ trong WTO là kết quả của
các cuộc đàm phán thương mại đa phương trên cơ sở nhân nhượng và thỏa hiệp giữa
tất các nước.Việc không thực hiện một nghĩa vụ trong WTO, trong trường hợp xấu
nhất chỉ có thể dẫn đến việc nước bị thiệt hại có quyền yêu cầu WTO cho phép
áp dụng các biện pháp trả đũa nhưng phải tương ứng với mức độ thiệt hại mà nước
này đă phải chịu. Nếu so sánh với các biện pháp chế tài của IMF hoặc WB th́ có
thể nói là “kỷ luật tập thể” ở WTO,nói chung vẫn c̣n ''mềm'' và “nhẹ'' hơn.
Theo điều
XVI, khoản 1 của Hiệp định về WTO, cơ chế ra quyết định của WTO sẽ tiếp tục cách
làm hơn 40 năm qua của GATT 1947, có nghĩa là WTO sẽ tiếp tục áp dụng nguyên
tắc đồng thuận (consensus) trong việc ra quyết định, mặc dù Hiệp định về WTO có
một số điều khoản về việc bỏ phiếu.
Để tránh
trường hợp việc thông qua quyết định có thể bị phong toả hoặc tŕ hoăn, Hiệp
định về WTO quy định một số trường hợp bỏ phiếu như sau:
- Quyết
định sửa đổi một số nguyên tắc nền tảng như “tối huệ quốc”, nguyên tắc “đãi ngộ
quốc gia” (phải được sự nhất trí của tất các nước thành viên).
- Các
quyết định về việc giải thích các điều khoản của hiệp định WTO, và các hiệp định
đa biên và cho phép một nước miễn thực hiện một nghĩa vụ nào đó cần được ba phần
tư phiếu thuận.
- Các
quyết định sửa đổi các điều khoản khác trong các hiệp định thương mại đa phương
cần được hai phần ba số phiếu thuận. Những nước không đồng ý với quyết định của
đa số có thể bị Hội nghị Bộ trưởng WTO yêu cầu rút khỏi WTO.
Là một tổ
chức quốc tế dựa trên các nghĩa vụ pháp lư (rule-based) GATT trước kia cũng như
WTO hiện nay đều cần có một cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả và công bằng,
nhằm bảo đảm để tất cả các nước thành viên dù lớn hay nhỏ, dù là nước phát triển
hay đang phát triển cũng đều phải tuân thủ “luật chơi chung” của thương mại quốc
tế. Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT 1947 đă được hầu hết các chuyên gia về
thương mại quốc tế đánh giá rất cao và được công nhận như là một trong những
thành công quan trọng nhất của GATT sau gần 50 năm tồn tại. Giáo sư Luật Kinh tế
quốc tế Ernst-Ulrich Petersmann, một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về
GATT/WTO đă có nhận xét như sau “Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT có tầm
quan trọng sống c̣n đối với việc duy tŕ một hệ thống thương mại quốc tế mở cửa
, bởi vì cơ chế đó không chỉ đơn thuần giải quyết êm thấm các tranh chấp mà nó
c̣n là công cụ bảo đảm sự tin cậy về mặt pháp lư đối với các cam kết của các
chính phủ và quan trọng hơn cả là đó là một vũ khí dùng để răn đe những nước
chủ trương chính sách ngoại giao thương mại dựa trên sức mạnh. Những nguyên tắc
và thủ tục giải quyết tranh chấp của GATT đă được WTO kế thừa và phát triển. Sau
gần 5 năm hoạt động, Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO đă thực sự trở thành
một trong những định chế có quyền lực nhất trên thế giới. Ngay cả các siêu cường
như EU, Mỹ cũng phải chấp nhận đưa các tranh chấp của họ ra giải quyết trước WTO
và chấp nhận thực hiện các quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp, mặc dù
đôi lúc những nước này đă công khai phản đối lại các quyết định này, một điều
khó có thể tưởng tượng tại các tổ chức quốc tế khác, ví dụ như Liên hợp quốc.
6.1. Cơ
chế giải quyết tranh chấp của GATT 1947
Cơ chế giải
quyết tranh chấp của GATT 1947 được xây dựng trên cơ sở của Điều XXII và Điều
XXIII Hiệp định GATT. Điều XXII quy định về thủ tục tư vấn (consultation) giữa
các bên kư kết liên quan đến việc áp dụng và thực hiện GATT. Điều XXIII quy định
về thủ tục hoà giải (conciliation) giữa các bên tranh chấp trong trường hợp
quyền lợi thương mại của một nước bị vô hiệu hoá (nullification) hoặc bị suy
giảm (impairment) do hành vi của một bên ký kết khác. Hiệp định GATT 1947 quy
định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là Đại hội đồng GATT. Trên thực
tế phần lớn công việc giải quyết tranh chấp được Đại hội đồng GATT giao phó vào
thời kỳ đầu cho các nhóm công tác và từ năm 1952 cho các nhóm chuyên gia.
Cơ chế
giải quyết tranh chấp của GATT mang tính chất “hoà giải” nhiều hơn là “tranh
tụng”, có mục đích làm cho các bên tranh chấp hiểu nhau hơn nhằm đi đến một giải
pháp mà hai bên đều chấp nhận được.
Nhiệm
vụ hoà giải được giao cho nhóm chuyên gia bao gồm 3 hoặc 5 thành viên thường
được chọn trong số những nhà ngoại giao làm việc tại phái đoàn đại diện ở Geneva
hoặc quan chức chính phủ của những nước thứ ba, có kinh nghiệm nhiều năm về
những vấn đề của GATT. Nhóm chuyên gia có nhiêm vụ xem xét một cách khách quan
thực chất nội dung tranh chấp, việc vi phạm Hiệp định nếu có và những thiệt hại
có thể có đối với một bên tranh chấp và sẽ soạn thảo một báo cáo để tŕnh lên
Đại hội đồng GATT xem xét. Việc thông qua báo cáo được thực hiện theo nguyên tắc
đồng thuận. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng đă gây nhiều khó khăn cho cơ chế giải
quyết tranh chấp của GATT vì, về lý thuyết bất kỳ bên ký kết nào cũng có thể
phản đối hoặc trì hoãn việc thành lập Nhóm chuyên gia và phong toả việc thông
qua báo cáo. Sự chậm trễ trong việc giải quyết tranh chấp trong nhiều trường hợp
đã không đem lại tác dụng trên thực tế cho bên thắng kiện do sản phẩm hoặc ngành
sản xuất bị thiệt hại đă mất khả năng cạnh tranh sau một thời gian giải quyết
tranh chấp kéo dài.
Ngoài ra,
việc thông qua một số ''bộ luật'' của Vòng Tokyo 1979 với những cơ chế giải
quyết tranh chấp riêng rẽ (mua sắm chính phủ, hàng không dân dụng...) đã làm ảnh
hưởng đến tính thống nhất và làm suy yếu cơ chế giải quyết tranh chấp chung của
GATT. Một số tranh chấp mới nảy sinh như tranh chấp về những biện pháp thương
mại liên quan đến đầu tư, về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, về thương mại
dịch vụ… lại không thuộc thẩm quyền của GATT 1947 và việc giải quyết những tranh
chấp đó bên ngoài hệ thống thương mại đa phương nhiều khi đã dẫn đến các biện
pháp trừng phạt đơn phương đối với các nước đang phát triển.
6.2. Cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO
Cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO được xây dựng trên 4 nguyên tắc: công bằng, nhanh
chóng, hiệu quả và chấp nhận được đối với các bên tranh chấp, phù hợp với mục
tiêu bảo toàn các quyền và nghĩa vụ, phù hợp với các hiệp định thương mại có
liên quan trên cơ sở tuân thủ các quy phạm của luật tập quán quốc tế về giải
thích điều ước quốc tế.
Ngoài ra,
WTO cũng sẽ tiếp tục áp dụng cách giải quyết tranh chấp của GATT 1947 như: tái
lập sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ giải quyết tích cực các tranh chấp; cấm
đơn phương áp dụng các biện pháp trả đũa khi chưa được phép của WTO. Nguyên tắc
cấm đơn phương áp dụng các biện pháp trừng phạt có ý nghĩa sống còn đối với sự
tồn tại của hệ thống thương mại toàn cầu. Tuy nhiên, nguyên tắc này không bao
hàm rõ rang ý có cấm các nước thành viên không được đơn phương xác định các hành
vi của nước thành viên khác có vi phạm các hiệp định của WTO hay không. Lợi dụng
sự không rõ ràng này nên một số nước thành viên phát triển như Mỹ, EU. vẫn tiếp
tục đơn phương áp dụng các đạo luật của riêng mình như điều khoản Super 301
trong Luật Thương mại Mỹ hoặc Quy định 384/96 của Hội đồng châu Âu để “kết án”
và trừng phạt các nước thành viên WTO khác.
6.2.1. Cơ
quan giải quyết tranh chấp của WTO, quy chế “nhóm chuyên gia" và Cơ quan phúc
thẩm thường trực
- Cơ
quan giải quyết tranh chấp: Viết tắt theo tiếng Anh là DSB (Disput Settlement
Body) có quyền quyết định thành lập và thông qua báo cáo của nhóm chuyên gia và
nhóm phúc thẩm, giám sát việc thực hiện các quyết định về giải quyết tranh chấp,
cho phép tạm đình chỉ việc áp dụng các hiệp định thương mại với một nước thành
viên, cho phép áp dụng các biện pháp trừng phạt.
- Nhóm
chuyên gia: công việc chính về giải quyết tranh chấp do các nhóm chuyên gia thực
hiện: Các nhóm chuyên gia này do DSB thành lập để giải quyết một vụ tranh chấp
cụ thể và giải thể sau khi kết thúc nhiệm vụ. Khác với cơ cấu nhóm chuyên gia
thời kỳ GATT 1947 chủ yếu được ưu tiên lựa chọn trong các quan chức chính phủ
các nước thành viên, nhóm chuyên gia thời WTO được ưu tiên lựa chọn trong số
những chuyên gia (expert) độc lập, không làm việc cho chính phủ, có uy tín quốc
tế về chính sách hoặc luật thương mại quốc tế. Thành phần của mỗi nhóm chuyên
gia từ 3-5 người. Nhiệm vụ của nhóm chuyên gia là giúp Cơ quan giải quyết tranh
chấp của WTO, làm sáng tỏ nội dung tranh chấp và khuyến nghị một giải pháp để
các bên hữu quan giải quyết tranh chấp của họ phù hợp với các hiệp định thương
mại có liên quan. Trong quá trình xem xét sự việc, nhóm chuyên gia có quyền tìm
kiếm thông tin từ mọi nguồn và trưng cầu ý kiến giám định của các chuyên gia bên
ngoài về những vấn đề kỹ thuật. Toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp từ thời
điểm các bên tranh chấp tự thương lượng với nhau cho đến khi nhóm chuyên gia đệ
trình báo cáo lên DSB tối đa không quá một năm, trong đó thời gian kể từ thời
điểm thành lập nhóm chuyên gia cho đến khi đệ trình báo cáo tối đa không quá 6
tháng. Báo cáo của nhóm chuyên gia sẽ được gửi đến cho các bên tranh chấp trong
vòng 6 tháng, trong trường hợp tranh chấp liên quan đến những hàng hoá dễ hư
hỏng trong ṿng 3 tháng và gửi đến tất cả các thành viên của WTO sau đó 3 tuần.
Sau 60 ngày, báo cáo của nhóm chuyên gia sẽ tự động trở thành quyết định của DSB
nếu không có sự đồng thuận của tất cả các nước thành viên WTO, kể cả hai bên
tranh chấp bác bỏ nội dung của báo cáo.
Cơ quan phúc
thẩm thường trực: một trong những nét mới của bộ máy giải quyết tranh chấp của
WTO là việc thành lập Cơ quan phúc thẩm thường trực. Cơ quan này có 7 thành
viên, do Cơ quan giải quyết tranh chấp bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm, là những
Chuyên gia pháp lý và thương mại quốc tế có kinh nghiệm lâu năm. Cơ quan này có
chức năng xem xét theo thủ tục phúc thẩm báo cáo của nhóm chuyên gia, theo đề
nghị của một trong các bên tranh chấp. Tuy nhiên, phạm vi “phúc thẩm'' chỉ áp
dụng đối với những kết luận và giải thích pháp lý được đưa ra trong báo cáo của
nhóm chuyên gia. Khi có đề nghị xem xét phúc thẩm, Cơ quan phúc thẩm thường trực
sẽ lập ra một nhóm phúc thẩm riêng biệt cho mỗi một vụ tranh chấp, bao gồm 3
thành viên. Nhóm phúc thẩm có thẩm quyền hoặc giữ nguyên, thay đổi hoặc hủy bỏ
những giải thích và kết luận pháp lý nêu trong báo cáo của nhóm chuyên gia. Báo
cáo của nhóm phúc thẩm sẽ được đệ trình lên DSB để thông qua. Việc thông qua báo
cáo phúc thẩm được thực hiện theo nguyên tắc đồng thuận tiêu cực và gần như mang
tính chất tự động. Các bên tranh chấp có nghĩa vụ thực hiện vô điều kiện quyết
định cuối cùng của DSB trên cơ sở báo cáo phúc thẩm. Thời hạn xem xét phúc thẩm
là 60 ngày, có thể được gia hạn nhưng không quá 90 ngày.
6.2.2. Thực
hiện quyết định của Cơ quan giải quyết tranh chấp và áp dụng biện pháp trả đũa
Quyết định về
giải quyết tranh chấp được DSB thông qua theo nguyên tắc đồng thuận tiêu cực có
giá trị pháp lý và có tính cưỡng chế thi hành đối với các bên tranh chấp.
Thông thường
thì bên thua kiện có nghĩa vụ bãi bỏ các quy định hoặc chấm dứt áp dụng các biện
pháp mà nhóm chuyên gia kết luận là vi phạm điều khoản trong các hiệp định có
liên quan của WTO. Để bảo đảm là bên thua kiện sẽ thực hiện nghiêm túc quyết
định của DSB và để tránh tình trạng ''rơi vào im lặng'', WTO đề ra một cơ chế
theo dơi và giám sát việc thực hiện quyết định. Trong vòng 30 này kể từ ngày
thông qua báo cáo của nhóm chuyên gia, bên thua kiện phải thông báo cho DSB biết
về những biện pháp mà nước này dự định áp dụng để thực hiện khuyến nghị của nhóm
chuyên gia. Nếu nước này vì lý do nào đó không thể thực hiện ngay khuyến nghị
của nhóm chuyên gia th́ DSB có thể cho phép nước này được thực hiện trong một
thời hạn ''hợp lý''. Và nếu trong thời hạn hợp lý đó bên thua kiện vẫn không thể
thực hiện được khuyến nghị của nhóm chuyên gia thì nước này có nghĩa vụ thư�ng
lượng với bên thắng kiện về mức độ bồi thường thiệt hại, ví dụ như giảm thuế
quan đối với một sản phẩm nào đó có lợi cho bên thắng kiện. Nếu trong vòng 20
ngày kể từ ngày chấm dứt thời hạn hợp lý, các bên tranh chấp không đạt được thỏa
thuận về mức độ bồi thường thì bên thắng kiện có quyền yêu cầu DSB cho phép áp
dụng các biện pháp trả đũa, cụ thể là tạm ngưng việc cho bên thua kiện hưởng
những nhân nhượng thuế quan hoặc tạm ngưng thực hiện những nghĩa vụ đối với bên
thua kiện theo hiệp định có liên quan.
Biện pháp trả
đũa phải tương ứng với mức độ thiệt hại và phải được thực hiện trong lĩnh vực
(sector) thương mại mà bên thua kiện bị thiệt hại. Để bảo đảm tính hiệu quả của
các biện pháp trả đũa và rút kinh nghiệm, WTO quy định trong trường hợp việc áp
dụng các biện pháp trả đũa mà lĩnh vực bị thiệt hại là không thực tế hoặc không
có hiệu quả thì bên thắng kiện có quyền yêu cầu DSB cho phép trả đũa trong một
lĩnh vực khác (trả đũa chéo). Chẳng hạn một nước đang phát triển sẽ khó có thể
áp dụng một cách hiệu quả biện pháp trả đũa trong lĩnh vực thương mại hàng hoá
đối với một nước phát triển nhưng nếu trả đũa trong lĩnh vực thương mại dịch vụ
hoặc sở hữu trí tuệ thì có thể sẽ hiệu quả hơn. Hơn thế nữa, trong một trường
hợp đặc biệt nghiêm trọng, bên thắng kiện còn có thể yêu cầu DSB cho phép trả
đũa trong những lĩnh vực thuộc các hiệp định thương mại khác với hiệp định
thương mại bên thua kiện vi phạm. Tuy nhiên, để bảo đảm sự công bằng và trong
trường hợp có tranh chấp về mức độ trả đũa, WTO cũng đành cho bên thua kiện
quyền đưa tranh chấp nói trên ra giải quyết theo phương thức trọng tài. Quyết
định trọng tài về vấn đề này là quyết định cuối cùng và có giá trị thi hành đối
với tất cả các bên.
6.2.3. Các
phương thức giải quyết tranh chấp khác
Ngoài cơ chế
của DSB, các nước thành viên WTO còn có thể sử dụng những phương thức giải quyết
tranh chấp khác trong Công pháp quốc tế như trọng tài liên quốc gia (intersate
arbitration), trung gian (mediation) và hoà giải (conciliation). Điều 25 Thỏa
thuận DSU quy định các nước thành viên có thể giải quyết tranh chấp với nhau
thông qua trọng tài đối với những tranh chấp nếu các nước này thỏa thuận nhất
trí sử dụng cơ chế này và chấp nhận tuân thủ quyết định của trọng tài.
Các nước cũng
có thể sử dụng cơ chế trung gian hoặc hoà giải của một bên thứ ba. Riêng đối với
những tranh chấp mà một bên là nước kém phát triển nhất thì Tổng giám đốc WTO có
thể đứng ra làm trung gian hoặc hoà giải.
Ngoài cơ chế
giải quyết tranh chấp chung ra, một số hiệp định thương mại đa biên của WTO cũng
quy định những cơ chế giải quyết tranh chấp đặc biệt. Ví dụ như Hiệp định về trợ
cấp có quy định thủ tục riêng về giải quyết tranh chấp liên quan đến hàng dệt
trước Cơ quan giám sát hàng dệt. Trong trường hợp các quy định về cơ chế giải
quyết tranh chấp đặc biệt khác với những quy định về cơ chế giải quyết tranh
chấp chung th́ những quy định trong cơ chế đặc biệt thắng thế.
6.2.4. Các
nước đang phát triển và Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Mặc dù luôn
chiếm đa số tại GATT, nhưng vì những lý do lịch sử (đa số các nước đang phát
triển đă từng là thuộc địa của các nước phát triển) nên các nước đang phát triển
thường có thái độ ''nghi ngờ'' và ''e dè'' đối với những cơ chế do các nước
phương Tây đặt ra. Trong một nghiên cứu được công bố vào năm 1985, Uỷ ban thương
mại quốc tế của Mỹ (USIC) đă chỉ ra một số nguyên nhân làm cho các nước đang
phát triển ít sử dụng đến Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT:
- Thứ nhất,
các nước đang phát triển không có đội ngũ chuyên gia pháp lý có chuyên môn và
kinh nghiệm trong việc tham gia xử lý các tranh chấp thương mại quốc tế và cũng
không có khả năng tài chính để đi thuê các chuyên gia phương Tây;
- Thứ hai,
tâm lý lo sợ rằng nếu đi kiện cáo các nước phát triển thì có khi họ phải chịu
thiệt nhiều hơn là được lợi, “chưa được vạ thì má đã sưng''. Sự phụ thuộc vào
thị trường và các nguồn giúp đỡ về tài chính của phương Tây là một trong những
lý do khiến các nước đang phát triển rất ngại va chạm với các nước phát triển và
nếu có tranh chấp thì các nước này chủ trương xử lý song phương, kín đáo và
thường là sẵn sàng nhượng bộ;
- Thứ ba,
các nước đang phát triển nhận thức được rằng cho dù họ có thắng kiện và dám dũng
cảm áp đặt các biện pháp trả đũa hợp pháp chăng nữa thì cũng không đem lại hiệu
quả và có thể có một ảnh hưởng tích cực đến cách cư xử của các nước phát triển;
- Thứ tư,
tuy tham gia GATT ngay từ khi mới thành lập nhưng các nước đang phát triển vẫn
còn giữ thái độ lưỡng lự trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đa
số các nước này cho rằng Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũng chỉ là một
trong những công cụ của các nước phương Tây sử dụng để ép buộc họ mở cửa thị
trường.
Vớí những lý
do nói trên, quan điểm chung của các nước đang phát triển đối với Cơ chế giải
quyết tranh chấp của GATT trong khoảng 30 năm (từ 1948-1979) là ''phớt lờ” cơ
chế này. Trong khoảng thời gian này, số vụ kiện của các nước đang phát triển chỉ
chiếm có 12% tổng số các vụ kiện tại GATT và đa số là kết thúc thông qua thương
lượng trước khi nhóm chuyên gia của GATT thông qua báo cáo cuối cùng.
Chỉ đến thời
kỳ sau Ṿòng Tokyo, các nước đang phát triển, đặc biệt là một số nước NIC như
Braxin, Mêhicô, Ấn Độ, Achentina mới thực sự quan tâm và sử dụng thường xuyên
hơn Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. Sự thay đổi này xuất phát từ những lư
do sau. Thứ nhất, sự giảm sút của thương mại thế giới những năm 1970 do tác động
của hai cuộc khủng hoảng dầu lửa đã dẫn đến việc trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ ở
hầu hết các nước công nghiệp phát triển. Thứ hai, quá trình công nghiệp hoá tại
một số nước đang phát triển đă đem lại những thành quả đầu tiên nổi bật nhất là
trong một số ngành sản xuất công nghiệp và chế biến, các nước NIC đă đạt được ưu
thế cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của phương Tây và đã bắt đầu dư thừa
năng lực sản xuất trong một số lĩnh vực như may mặc, điện tử dân dụng, thép. Các
nước này bắt đầu nhận thức được cần phải sử dụng nhiều công cụ để tiếp cận thị
trường tiêu thụ của các nước phương Tây và khi cần thiết sử dụng cả Cơ chế giải
quyết tranh chấp.
Ngoài ra việc
thành lập một Bộ phận pháp lý (Legal Office) trực thuộc Ban Thư kư, GATT đă giúp
cung cấp những trợ giúp kỹ thuật có hiệu quả cho các nước đang phát triển trong
việc nghiên cứu về cơ cấu thể chế và pháp lư của GATT và tư vấn pháp lư cho các
nước này trong quá trình chuẩn bị các tài liệu và thủ tục khiếu kiện.
Trong vòng 15
năm (1979-1994), số lượng các vụ kiện của các nước đang phát triển chống lại các
nước phát triển đă tăng lên đến 25% tổng số các vụ kiện tại GATT (25/117 vụ).
Ở ṿòng đàm
phán Uruguay, Braxin đă đưa ra đề nghị cần thiết phải áp dụng nguyên tắc đối xử
đặc biệt đối với các nước đang phát triển khi áp dụng Cơ chế giải quyết tranh
chấp của GATT. Đề nghị này đă được chấp nhận và thể hiện trong Thỏa thuận về Cơ
chế giải quyết tranh chấp WTO, cụ thể như sau:
- Các
nước đang phát triển có thể yêu cầu Tổng giám đốc WTO đứng ra làm trung gian,
hoà giải trong trường hợp có tranh chấp với các nước phát triển;
- Trong
thành phần của nhóm chuyên gia nhất thiết phải có một thành viên là công dân của
một nước đang phát triển, trừ khi nước đang phát triển có liên quan không yêu
cầu như vậy;
- Thời
gian để giải quyết tranh chấp với các nước đang phát triển có thể được kéo dài
hơn so với quy định chung;
- Các
nước phát triển cần có thái độ kiềm chế khi áp dụng các biện pháp trả đũa đối
với bên thua kiện là nước đang phát triển;
- Các
nước phát triển có thể được phép áp dụng các biện pháp trả đũa chéo đối với bên
thua kiện là nước phát triển;
- Các
nước đang phát triển có thể yêu cầu Ban Thư kư WTO trợ giúp Pháp lư khi có tranh
chấp;
- Các
nước đang phát triển có thể áp dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp được Đại
hội đồng GATT thông qua theo Quyết định ngày 5-4-1966.
Các nước đang
phát triển đă nhanh chóng nhận thức lợi ích từ việc sử dụng Cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO và chỉ sau gần 5 năm, các nước đang phát triển đă trở thành
nhóm các nước sử dụng nhiều nhất cơ chế giải quyết tranh chấp mới của WTO.
Tính đến ngày
31-12-1998, các nước đang phát triển dẫn đầu số lượng các vụ kiện (37%) nhiều
hơn Mỹ (34%) và EU (21 %) và 80% trong số đó kết thúc thắng lợi. Có thể nói Cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO được các nước đang phát triển sử dụng như một
công cụ có hiệu quả để giải quyết tranh chấp thương mại với các nước phát triển.
Và xét về toàn cục th́ Cơ chế này là một bước phát triển tiến bộ theo hướng công
bằng hơn trong quan hệ thương mại quốc tế.
7. Cơ chế
kiểm điểm chính sách thương mại
Một trong
những yêu cầu Cơ bản đối với những công ty tham gia vào thương mại quốc tế là
tính ổn định và có thể dự đoán trước của chính sách và hệ thống pháp lý về
thương mại. Trong WTO, hai mục tiêu này được thực hiện thông qua Cơ chế kiểm
điểm chính sách thươngmại (TPRM), đạt được tại Vòng đàm phán Uruguay và đã được
áp dụng tạm thời từ năm l989 theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng đánh giá
giữa kỳ tại Montréal, Canađa. Nội dung chính của TPRM là xem xét định kỳ, đánh
giá chính sách và thực tiễn thương mại của tất cả các thành viên WTO. Việc kiểm
điểm thực hiện theo nguyên tắc nước thành viên có vị trí càng quan trọng trong
thương mại quốc tế thì càng phải kiểm điểm thường xuyên hơn các nước thành viên
khác. VÌ vậy, bốn cường quốc thương mại lớn nhất thế giới là Liên minh châu Âu,
Hoa Kỳ, Nhật Bản và Canada sẽ kiểm điểm 2 năm/lần, 16 thành viên xếp tiếp theo
đó sẽ kiểm điểm 4 năm/ lần. Trung b́nh một năm có khoảng 20 nước phải kiểm điểm
chính sách thương mại.
Cơ chế kiểm
điểm chính sách thương mại khác với Cơ chế giải quyết tranh chấp là không có
quyền cưỡng chế hoặc giải thích các điều khoản của các Hiệp định của WTO.
Mục đích của
TPRM là thông qua cơ chế kiểm điểm giúp các thành viên tuân thủ các luật lệ, quy
định của WTO và các cam kết riêng của mình. Đồng thời, nhân dịp kiểm điểm này,
các nước thành viên có cơ hội giải thích và làm cho các thành viên khác hiểu
biết hơn về chính sách và thực tiễn thương mại của nước mình cũng như về những
khó khăn mà nước đó có thể gặp phải khi thực hiện các cam kết của mình.
Việc kiểm
điểm chính sách thương mại được tiến hành trên cơ sở hai báo cáo, một do Ban Thư
ký WTO soạn thảo và một do nước kiểm điểm soạn thảo Báo cáo của Ban Thư ký được
soạn theo mẫu bao gồm phần ''Nhận xét khái quát'' và 4 chương về môi trường kinh
tế, các khía cạnh thể chế và ra quyết định về thương mại và đầu tư, các biện
pháp thực hiện chính sách và thực tiễn thương mại trong từng lĩnh vực. Để đảm
bảo tính đúng đắn về những thông tin nêu trong báo cáo, Ban Thư ký sẽ cử một
đoàn quan chức đi thăm nước kiểm điểm để thảo luận và kiểm tra lại các số liệu
và thông tin có liên quan đến chính sách thương mại của nước này.
Báo cáo của
nước kiểm điểm có tên gọi là ''Tuyên bố về chính sách'' (Policy Statement) có
nội dung chính là giới thiệu khái quát về những mục tiêu và phương hướng chính
trong chính sách thương mại của mình và đánh giá về triển vọng trong tương lai.
Hai báo cáo nói trên sẽ được các thành viên WTO xem xét, thảo luận tại phiên họp
của cơ quan kiểm điểm. Nước kiểm điểm sẽ phải trả lời hoặc giải thích về những
điểm nêu trong báo cáo của Ban Thư kư. Phần nhận xét khái quát trong báo cáo của
Ban Thư ký và kết luận cuối cùng của chủ tịch phiên họp được công bố công khai
và đưa lên trang chủ của WTO trên Internet.
TPRM đóng một
vai trò rất quan trọng trong hệ thống thương mại đa phương. TPRM được coi là
diễn đàn duy nhất, nơi tất cả các thành viên phải định kỳ ''tự kiểm điểm'' về
chính sách và thực tiễn thương mại của mình trước tất cả các thành viên khác.
TPRM cũng là cơ hội để các nước thành viên, đặc biệt là các nước đang phát triển
nhận sự trợ giúp kỹ thuật của Ban Thư ký WTO, tìm hiểu về các chính sách thương
mại của các thành viên khác. TPRM cũng giúp các thành viên thúc đẩy các cải cách
thương mại cần thiết nhân dịp kiểm điểm việc thực hiện những cam kết thương mại.
TPRM cũng
thúc đẩy quá trình minh bạch hoá trong việc ra quyết định và luật lệ về thương
mại tại các nước thành viên. Tuy nhiên, Hiệp định về TPRM cũng nói rõ “minh bạch
hoá” là vấn đề chính trị nội bộ của mỗi nước và phải được thực hiện trên cơ sở
tự nguyện, có tính đến sự khác biệt về hệ thống chính trị và luật pháp của từng
nước thành viên.
II. TIẾN
TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM
Đàm phán gia nhập WTO diễn ra
trên 2 kênh: Kênh đa phương (đàm phán việc tuân thủ các hiệp định của WTO) và
kênh song phương (đàm phán mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ).
Đàm phán đa phương:
Việt Nam
nộp đơn gia nhập và được công nhận là quan sát viên của Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT-tiền thân của WTO) vào tháng 6 năm 1994. Ngày 4 tháng 1
năm 1995, ngay trong ngày đầu mở cửa của mình, WTO đã tiếp nhận đơn xin gia nhập
của Việt Nam. Kể từ đó, Việt Nam đã chủ động tiến hành những bước đi cần thiết
để gia nhập tổ chức này.
Ban Công tác về việc gia nhập
WTO của Việt Nam (gọi tắt là Ban Công tác) được thành lập ngày 30 tháng 1 năm
1995. Đến tháng 6 năm 2004, Ban Công tác đã họp được 8 Phiên. Mục đích chủ yếu
của các Phiên họp là minh bạch hoá chính sách kinh tế - thương mại của Việt Nam
và đàm phán để điều chỉnh hệ thống chính sách cho phù hợp với các nguyên tắc của
WTO. Để phục vụ cho các cuộc đàm phán đa phương, ngày 26 tháng 8 năm 1996, Việt
Nam nộp bản Bị vong lục về chế độ Ngoại thương. Bản Bị vong lục được trình bày
theo mẫu chung do Ban Thư ký WTO hướng dẫn.
Sau 8 Phiên đàm phán đa
phương, Việt Nam đã trả lời khoảng 2000 câu hỏi của các thành viên Ban Công tác
về chính sách kinh tế, thương mại của Việt Nam, đã cơ bản hoàn thành giai đoạn
minh bạch hóa chính sách. Việt Nam đã đưa ra các chương trình hành động thực
hiện các hiệp định liên quan của WTO như Hiệp định về Xác định Trị giá Hải
quan, Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền sở hữu
trí tuệ, Hiệp định về Kiểm dịch động, thực vật và Hiệp định về các Hàng rào kỹ
thuật đối với Thương mại. Việt Nam cũng đã đưa ra chương trình xây dựng pháp
luật nhằm điều chỉnh chính sách cho phù hợp với qui định của WTO. Căn cứ vào các
câu trả lời của Việt Nam cũng như các tài liệu do ta cung cấp, Ban Thư ký WTO đã
đưa ra tài liệu tổng hợp về hiện trạng chính sách thương mại của Việt Nam
(Factual Summary). Đến Phiên họp 7, Ban Thư ký đã chuyển tài liệu này thành bản
“Những nội dung cơ bản của Dự thảo Báo cáo gia nhập WTO của Việt Nam”. Theo kết
luận của Ông Chủ tịch Ban Công tác tại Phiên 8, từ Phiên 9 sẽ chuyển sang thảo
luận Dự thảo báo cáo của Ban Công tác, tức là đi vào giai đoạn đàm phán cuối về
các cam kết đa phương của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Phiên họp thứ
9 diễn ra vào tháng 12/2004 là phiên đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến
trình đàm phán gia nhập của Việt Nam bởi đây là lần đầu tiên Dự thảo Báo cáo của
Ban Công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam đã được đưa ra thảo luận, nghĩa
là Việt Nam bắt đầu đi vào giai đoạn cuối về đàm phán các cam kết đa phương.
Hiện nay, Việt Nam đang gấp rút chuẩn bị cho Phiên 10 sắp tới: Chuẩn bị các câu
trả lời cho hơn 300 câu hỏi của các thành viên WTO gửi từ sau Phiên 9 và đang
trong quá trình hoàn thiện Dự thảo Báo cáo của Ban Công tác. Bên cạnh đó, kể từ
sau Phiên 9 đến nay, các cuộc đàm phán song phương với các đối tác cũng vẫn đang
tiếp tục diễn ra trên tinh thần cố gắng thu hẹp khoảng cách đàm phán tiến tới
sớm kết thúc đàm phán song phương với các đối tác.
Đàm phán song
phương:
Cho tới nay
có 27 đối tác đặt yêu cầu đàm phán song phương với ta trong cả lĩnh vực hàng
hóa và dịch vụ. Trong số này, ta đã kết thúc được đàm phán với một số các đối
tác là Achentina, Braxin, Cuba, Chilê, EU, Xingapo, Uruguay, Nhật Bản, Hàn
Quốc...
Hoa Kỳ, EU,
Canađa và Nhật Bản là Nhóm "Bộ tứ" trong WTO, có ảnh hưởng
mạnh trong WTO và ảnh hưởng trực tiếp tới bất kỳ tiến trình gia nhập WTO nào.
Các đối tác này không chỉ quan tâm đến lợi ích cụ thể của mình (vốn đã rất
rộng) mà còn quan tâm đến những vấn đề mang tính nguyên tắc trong đàm phán gia
nhập.
Đến nay, Việt
Nam đã kết thúc đàm phán gia nhập WTO với 11 đối tác là EU và các nước thành
viên, Cuba, Áchentina, Braxin, Chilê, Xingapo, Uruguay, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Trung Quốc và Côlômbia.
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)