* Diễn biến cuộc khủng hoảng hạt nhân tại Nhật
Sau trận động đất và sóng thần lịch sử, Nhật Bản đứng
trước nguy cơ hứng chịu thảm hoạ hạt nhân. Trình tự diễn biến của cuộc
khủng hoảng nguyên tử này được tính theo giờ địa phương.
Nhà máy điện hạt nhân Fukushima I nhìn từ vệ tinh sau động đất. Ảnh: AFP |
Nhật Bản có một số nhà máy điện nguyên tử nằm trong
vùng chịu ảnh hưởng của động đất và sóng thần, nhưng tâm điểm trong cuộc
khủng hoảng hạt nhân hiện nay là nhà máy Fukushima I. Cơ sở này có tổng
cộng 6 lò phản ứng, được đưa vào sử dụng từ thập niên 70 của thế kỷ
trước và nằm cách Tokyo 250 km về phía bắc.
Đây là một trong 25 nhà máy điện nguyên tử lớn nhất
thế giới. Kể từ sau vụ động đất lịch sử hôm 11/3, tại nhà máy Fukushima I
đã có 4 lò phản ứng xảy ra tai nạn, gồm nổ ở các lò số 1, 2,3 và hoả
hoạn ở lò số 4. Dưới đây là diễn biến từ đầu cuộc khủng hoảng hạt nhân
tại Nhật Bản.
Thứ sáu, ngày 11/3
14h46': Trận
động đất mạnh 9,0 độ Richter xảy ra ngoài khơi đảo Honshu, tâm chấn nằm
sâu 10 km dưới lòng Thái Bình Dương. Toàn bộ vùng đông bắc Nhật và thủ
đô Tokyo chao đảo dữ dội vì trận động đất có cường độ chưa từng được ghi
nhận trong lịch sử. Có 11 lò phản ứng hạt nhân hoạt động trong vùng tự
động ngừng hoạt động sau đó.
15h45': Công
tư điện lực Tokyo thông báo, máy phát điện dự phòng cho các lò phản ứng
số 1, 2 và 3 của nhà máy điện hạt nhân Fukushima I bị hư hại và hệ
thống cấp điện dự phòng bằng diesel cũng bị sóng thần phá huỷ. Tình
huống này khiến hệ thống làm mát cho các lò phản ứng bị trục trặc, đe
doạ nguy cơ cháy nổ và rò rỉ phóng xạ.
19h30': Thủ
tướng Naoto Kan ban bố "tình trạng khẩn cấp hạt nhân', nhưng giới chức
Nhật cho biết đây chỉ là thủ tục mang tính tiêu chuẩn và không có rò rỉ
phóng xạ trong khu vực. Tuy nhiên ngay sau đó, chính phủ bắt đầu cho sơ
tán người dân sống trong bán kính 3 km cách nhà máy nguyên tử Fukushima
I.
Thứ bảy, ngày 12/3
05h30': Sau
khi các lò phản ứng tự động ngừng hoạt động, căng thẳng tại nhà máy
Fukushima I không ngừng gia tăng do hệ thống làm mát cho các lò bị hỏng.
Các kỹ sư đi đến quyết định cho hơi nước có chứa một lượng phóng xạ nhỏ
thoát ra ngoài để giảm khí nén trong lò phản ứng số 1, tránh nguy cơ nó
bị nổ tung.
11h00': Áp
suất không ngừng gia tăng tại lò phản ứng số 2 của nhà máy Fukushima I
và hơi nước chứa phóng xạ bắt đầu được khai thông, rò rỉ thêm lượng
phóng xạ ra ngoài không khí.
15h30': Một
vụ nổ lớn xảy ra tại lò phản ứng số 1 nhà máy Fukushima I, khiến một toà
nhà tại đây bị sập xuống làm 4 công nhân bị thương. Cả thế giới chấn
động và dấy lên mối lo ngại về nguy cơ xảy ra thảm hoạ hạt nhân kiểu
Chernobyl. (Clip vụ nổ thứ nhất)
20h:00':
Nhật xác nhận toà nhà xây bằng bê tông bao quanh kết cấu thép chứa lò
phản ứng số 1 của nhà máy đã bị sập, nhưng lõi thép bảo vệ lò vẫn còn
nguyên. Để tránh nguy cơ tan chảy hạt nhân, Nhật quyết định bơm nước
biển để làm nguội, đồng nghĩa với việc lò phản ứng 40 năm tuổi này sẽ
không thể tái sử dụng do bị muối ăn mòn. Họ cũng bơm nước biển cho lò
phản ứng số 3 để giảm áp suất.
Chủ nhật, ngày 13/3
03h20': Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố nguy cơ rò rỉ phóng xạ đối với người
dân tại Nhật ở mức khá thấp. Trong khi đó, giới chức Nhật xếp tai nạn
tại Fukushima I vào cấp 4 trên thang độ có 7 cấp, trong đó mô tả có rỏ
rì phóng xạ ở mức độ nhỏ và có ít nhất một người thiệt mạng (Thảm hoạ
Chernobyl xếp ở cấp độ 7).
6h00': Đến
lượt hệ thống làm mát của lò phản ứng số 2 trong nhà máy Fukushima I gặp
trục trặc. Công ty điện lực Tokyo cho biết họ sẽ phải tiếp tục cho thêm
hơi nước bên trong lò thoát ra ngoài và như thế sẽ có thêm chất phóng
xạ vào không khí. Các chuyên gia cũng bắt đầu cân nhắc bơm nước biển vào
lò phản ứng này vừa để hạ nhiệt và cũng "tiêu diệt" luôn công trình tốn
kém này.
8h30': Có
tin báo đến lượt lò phản ứng số 3 của nhà máy Fukushima I đối mặt với
nguy cơ tan chảy một phần hạt nhân và nồng độ phóng xạ bắt đầu tăng lên
vượt quá mức cho phép an toàn. Sau đó giới chức Nhật cho rằng có thể sẽ
còn xảy ra nổ, dù lõi hạt nhân của lò phản ứng vẫn an toàn và số phóng
xạ rò rỉ không đe đoạ sức khoẻ cộng đồng.
19h00': Cơ
quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) ban bố tình trạng khẩn cấp tại
nhà máy điện hạt nhân khác của Nhật là Onagawa, nằm cách Fukushima I hơn
160 km về phía bắc. Nhưng sau đó cơ quan an toàn hạt nhân Nhật Bản trấn
an rằng hệ thống làm mát tại nhà máy Onagawa vẫn ổn, xoá bỏ lo ngại nhà
máy này theo bước Fukushima I trở thành điểm nóng hạt nhân.
Thứ hai, ngày 14/3
07h29': Công ty điện lực Tokyo báo cáo chính phủ về tình trạng mức độ phóng xạ gia tăng tại nhà máy Fukushima I.
11h11': Lần
thứ hai nhà máy Fukushima I chứng kiến vụ nổ và lần này xảy ra tại lò
phản ứng số 3 với cột khói trắng bốc cao. Truyền hình Nhật cho biết đây
là vụ nổ do tích tụ khí hydro, trong khi cơ quan an toàn hạt nhân nước
này không thể xác nhận vụ nổ này có dẫn tới rò rỉ phóng xạ không thể
kiểm soát hay không. Công ty điện lực Tokyo khẳng định vụ nổ không làm
hỏng lõi thép chứa lò phản ứng số 3. (Clip vụ nổ thứ hai)
12h43':
Chánh văn phòng nội các Nhật Yukio Edano khẳng định không có khả năng
xảy ra rò rỉ phóng xạ quy mô lớn từ lò phản ứng số 3 sau vụ nổ.
17h23': Nhật
Bản cho biết đã làm nguội an toàn hai trong số các lò phản ứng tại nhà
máy Fukushima I, trong khi vẫn vật lộn để làm mát các lò phản ứng còn
lại đang quá nóng do hệ thống tự động bị hỏng.
Thứ ba, ngày 15/3
6h10': Nhà máy Fukushima I tiếp tục chứng kiến vụ nổ thứ ba
và lần này là lò phản ứng số 2, khiến 15 người bị thương cùng 190 người
có khả năng bị phơi nhiễm phóng xạ ở mức vượt quá an toàn cho phép. Các
công nhân làm việc ở lò lập tức được sơ tán, trừ những người có nhiệm
vụ bơm nước biển để làm nguội.
Cơ quan an toàn hạt nhân Nhật
Bản cho biết sự kết hợp giữa khí hydro và oxy là nguyên nhân gây ra nổ
và khẳng định vỏ bọc lò phản ứng không bị phá huỷ.
7h00': Hoả hoạn xảy ra tại lò phản
ứng số 4 nhà máy Fukushima I, sau 3 vụ nổ trước đó tại đây. Mức độ phóng
xạ quanh nhà máy tăng vọt và được xác định có thể đe doạ đến sức khoẻ
người dân. Thủ tướng Nhật Naoto Kan xác nhận sự kiện này và kêu gọi
người dân sống trong bán kính 20 đến 30 km cách nhà máy nên ở trong nhà
đề phòng phơi nhiễm phóng xạ.
11h08': Thủ tướng Naoto Kan cho biết
nguy cơ về rò rỉ hạt nhân đang tăng cao và cảnh báo người dân sống trong
bán kính cách nhà máy 30 km ở yên trong nhà, đề phòng phơi nhiễm phóng
xạ.
14h00': Chính quyền Tokyo khẳng định
nồng độ phóng xạ tại thành phố "không phải là vấn đề nghiêm trọng". Thủ
tướng Naoto Kan gửi tin nhắn tới những người sử dụng điện thoại di động
trên cả nước đề nghị tiết kiệm năng lượng. Khu vực cấm bay có bán kính
30 km xuanh quanh nhà máy Fukushima I được thiết lập.
18h01': Công ty điện lực Tokyo rút
750 công nhân khỏi nhà máy Fukushima và chỉ để lại 50 người tham gia
công tác ứng phó. Trong khi đó mức độ phóng xạ ở quận Chiba, gần Tokyo
đã tăng hơn 10 lần bình thường.
20h54': Đến lượt Tokyo ghi nhận mức
độ phóng xạ cao gấp 10 lần bình thường, nhưng giới chức thành phố trấn
an rằng điều này vẫn chưa đến mức đe doạ sức khoẻ con người.
20h54': Mức độ phóng xạ tại lò phản
ứng số 4 nhà máy Fukushima I, nơi xảy ra liên tiếp các vụ cháy tăng cao
đến mức không thể tiến hành các công việc bình thường tại phòng điều
khiển. Các công nhân tại đây không thể ở lại quá lâu và liên tục phải ra
vào phòng điều khiển trung tâm, hoặc điều khiển từ nơi khác.
Vị trí nhà máy hạt nhân Fukushima I và II. Ảnh: BBC |
Thứ tư, ngày 16/3
11h38': Nồng
độ phóng xạ xung quanh nhà máy Fukushima I tiếp tục tăng cao. Nhật Bản
tính đến phương án nhờ trực tiếp quân đội Mỹ hỗ trợ để chấm dứt cuộc
khủng hoảng tại cơ sở hạt nhân này, theo thông báo của người phát ngôn
chính phủ Nhật.
17h26': Đơn
vị chủ quản nhà máy Fukushima I là Công ty điện lực Tokyo cho biết họ
không thể tiếp tục chiến dịch làm mát khẩn cấp các lò phản ứng tại đây
do nguy cơ rò rỉ phóng xạ quá cao. Trong khi đó, Tổ chức Y tế Thế giới
tại Trung Quốc thông báo không có bằng chứng nào cho thấy có sự lây lan
đáng kể của phóng xạ từ nhà máy ở Nhật ra nước khác.
18h00':
Chính phủ Nhật khẳng định mức độ phóng xạ quanh nhà máy Fukushima I
không đe doạ ngay lập tức đến sức khoẻ con người. Trong khi đó kế hoạch
dùng trực thăng đổ nước vào lò phản ứng chưa thể thực hiện được do mức
phóng xạ cao. Cùng lúc này, hai lò phản ứng còn lại là số 5 và số 6 vốn
chưa xảy ra sự cố gì bắt đầu được bơm nước để đề phòng.
21h48': Nhật
Bản muốn huy động quân đội giúp đỡ trong việc bơm nước vào lò phản ứng
số 3 mới xảy ra nổ và lò số 4 mới xảy ra cháy. Nồng độ phóng xạ quanh
nhà máy lúc đó tăng giảm thất thường.
Thứ năm, ngày 17/3
Sáng: Trực thăng quân đội Nhật bắt
đầu tiến hành thả "bom nước" xuống các lò phản ứng của nhà máy Fukushima
I để làm mát. Có 3 chiếc trực thăng hiệu CH-Chinook tham gia hoạt động
đổ nước xuống lò phản ứng số 3 và số 4, mỗi chiếc đổ một lượng nước
khoảng 7 tấn. Nhật có kế hoạch tiếp tục điều thêm trực thăng nhằm giúp
hạ nhiệt bên trong các lò.
Trong khi đó, nhà máy Fukushima II cách Fukushima I
khoảng 10 km hiện chưa phát hiện sự cố gì, nhưng người dân sống xung
quanh vẫn phải đi sơ tán. Trên toàn nước Nhật có 55 lò phản ứng hạt nhân
thuộc 17 nhà máy điện, phân bố ở nhiều tỉnh khác nhau.
VnExpress.net xin giới thiệu bài phân tích của Tiến sĩ ngành kháng chấn Hà Ngọc Tuấn, một nhà khoa học người Việt làm việc tại Nhật trong thời gian xảy ra thảm hoạ động đất sóng thần.
I. Thảm hoạ Nhật qua cái nhìn người trong cuộc
Hai người Nhật đứng nhìn cảnh hoang toàn còn lại sau động đất và sóng thần ở tỉnh Iwate, đông bắc Nhật Bản, ngày 17/3. Ảnh: AFP |
Tôi bắt tay vào viết bài này vào 13h24' ngày 14/3, gần
hai giờ sau khi vụ nổ thứ hai tại nhà máy điện nguyên tử Fukushima I
xảy ra do hậu quả của trận động đất và sóng thần lớn nhất trong lịch sử
đo đạc Nhật gây ra. Tin tức này đã được truyền hình trên khắp thế giới
và chúng ta được chứng kiến những hình ảnh thảm hoạ thiên nhiên và những
hậu quả mà nó gây ra trực tiếp trên truyền hình.
Nhưng có thể chính những hình ảnh đó đã ám ảnh và gây
ra nỗi lo sợ cho hàng triệu người trên thế giới khi truyền thông chỉ đưa
được những mặt tiêu cực nhất của nó. Tôi ở đây, tại miền nam nước Nhật
1.200 km từ tâm chấn, may mắn nằm ngoài vùng ảnh hưởng của trận đại hồng
thuỷ vừa xảy ra.
Có thể chính vì thế tôi phần nào là người ngoài cuộc
và đủ trấn tĩnh để viết bài này. Tôi muốn chuyển tải đến các bạn một
thông điệp khác, điều mà truyền thông ngoài nước Nhật có thể không đề
cập tới cũng như những thông tin về kỹ thuật có thể không phải lúc nào
các bạn cũng được tiếp cận.
Đại động đất phía đông Nhật Bản
Chiều thứ sáu ở thành phố Fukuoka, khí hậu mùa xuân
làm cho mấy cậu đồng nghiệp của tôi la đà trong văn phòng. Cái vô tuyến
lúc nào cũng tắt tiếng và nhấp nháy tin thời sự thì chẳng ai để ý đến.
Nhưng lúc 14h49' thì mọi thứ bỗng dưng thay đổi. Tin động đất và sóng
thần phát trên tất cả các kênh truyền hình.
Chưa đầy 3 phút sau động đất nhìn màn hình TV thấy báo
độ lớn 7,9 Richter và vị trí tâm chấn tương đối gần bờ xảy ra vào lúc
14h46'. Vị trí tâm chấn được xác định thông qua 3 điểm đo để xác định
toạ độ không gian, tức là vị trí trên bề mặt trái đất và cả chiều sâu,
cách Kesennuma, một thành phố nhỏ có 74.000 dân, khoảng 100 km. Tâm chấn
cách thành phố khác là Rikizentadaka nhỏ hơn với 20.000 dân cũng trong
khoảng cự ly này. Đây là hai thành phố có khoảng cách đến tâm chấn gần
nhất, nên cũng là nơi sóng thần phát sinh do động đất ập đến sớm nhất.
Cách tâm chấn khoảng 130 km là thành phố Sendai với
dân số khoảng 1 triệu người. Fukushima là một thành phố lớn khác, tuy
trung tâm của nó nằm sâu trong đất liền không ảnh hưởng bởi sóng thần
nhưng hai nhà máy điện nguyên tử tại đây nằm bên bờ biển, cách tâm chấn
chừng 140 km, đã và đang bị ảnh hưởng nặng nề từ động đất.
Tất cả những trung tâm dân cư trên nằm rải rác tại 3
tỉnh Iwate, Miyagi và Fukushima, nơi bị sóng thần và động đất tàn phá
nặng nề. Thủ đô Tokyo, Chiba cách tâm chấn 370 km theo đường chim bay
cũng rung chuyển rất mạnh nhưng không có thiệt hại do sóng thần gây ra.
Trong những thông báo đầu tiên, Cơ quan khí tượng thuỷ
văn Nhật Bản (JMA) gọi trận động đất này là Sanrikuoki là tên vùng biển
nơi có tâm chấn. Tên gọi này ngay lập tức bị lu mờ do qui mô của trận
động đất. Truyền thông Nhật Bản nay đã gọi là Higashinihondaizishin
(nghĩa là đại động đất đông Nhật Bản).
Cảnh báo động đất và sóng thần thì không có gì lạ nếu
bạn sống ở Nhật. Chuyện này xảy ra như cơm bữa ở đây. Hơn nữa hệ thống
cảnh báo sóng thần của Nhật rất hiện đại, chỉ những con sóng vài chục cm
cũng được báo và báo rõ ràng sẽ đến đâu vào giờ nào.
Sự rối trí của JMA
Nhưng thứ sáu tuần trước mọi việc khác hẳn. Lần đầu
tiên tôi chứng kiến Trung tâm khí tượng thủy văn Nhật Bản (JMA) bối rối
với việc báo chính xác độ lớn của trận động đất và chiều cao sóng thần.
Sau hơn hai ngày, JMA đã tính toán lại độ lớn thành 9,0 độ Richter, mặc
dù các con số 7,9, 8,4 và 8,8 đã được đưa ra. Ai đã từng làm về địa chấn
chắc đều biết sự khác biệt giữa một đơn vị Richter có ý nghĩa to lớn
thế nào. Để hiểu được điều này xin minh hoạ bằng hình dưới đây.
Trục hoành của đồ thị trên chỉ độ lớn của một trận
động đất bằng đơn vị Richter. Ta có thể thấy ở thang đo này trận địa
chấn lớn nhất lên đến 9,5 độ Richter. Đây là trận động đất lớn nhất ghi
lại được trong lịch sử nhân loại, xảy ra ở biển Chile ngày 22/5/1960.
Để các bạn có hình ảnh hơn nữa về độ lớn, xin chỉ ra
rằng động đất gây sóng thần Sumatra ở Indonesia có độ lớn 9,1 độ Richter
xảy ra vào năm 2004 đã làm thiệt mạng 230.000 người trên 14 nước quay
mặt vào Ấn Độ Dương. Không có trận động đất nào 10 độ Richter, vì một
trận động đất với năng lượng đó sẽ có quy mô toàn cầu và có thể xoá sạch
sự sống.
Trục tung bên phải của đồ thị chỉ năng lượng mà trận
động đất giải phóng ra xung quanh bằng joule (J). Như vậy một trận động
đất 3,5 độ Richter có năng lượng tương đương với một vụ nổ của một tấn
thuốc nổ TNT.
Ngày hôm đó JMA đã rối trí khi đưa ra tính toán độ lớn
ban đầu là 7,9 độ Richter. Sau đó khoảng 2 giờ trong bài phát biểu của
thủ tướng Nhật con số đó được điều chỉnh thành 8,4 độ Richter và sau đó
hơn 2 ngày, con số 9,0 độ Richter được chính thức chốt lại.
Như vậy là ngay những giây phút đầu tiên độ lớn của
chấn động có thể đã làm bối rối JMA, một cơ quan có hệ thống đo đạc,
tính toán và cảnh báo động đất, sóng thần tốt nhất trên thế giới và ít
khi có những đánh giá bất nhất như vậy. Chỉ riêng điều này đã báo hiệu
vấn đề của thảm hoạ vừa qua.
Truyền thông thế giới sử dụng kết quả tính toán của cơ
quan địa chấn Mỹ USGS cho rằng, trận động đất vừa qua có độ lớn 8,9 độ
Richter. Như vậy đại động đất phía đông Nhật Bản dù là 8,9 hay 9,0 độ
Richter cũng đã lọt vào top các trận động đất lớn nhất trong lịch sử ghi
chép của nhân loại.
Hệ thống đo địa chấn và cảnh báo dày đặc
Có thể nói Nhật Bản có hệ thống và mạng lưới đo đạc
địa chấn dày đặc nhất thế giới. Ngoài các mạng quan trắc chuyên môn của
cơ quan khí tượng, Nhật còn có các mạng quan trắc độc lập khác mà ngay
cả người bình thường cũng có thể tiếp cận được. Kyoshin net là một ví
dụ. Một mạng như thế này có tới hàng trăm các máy gia tốc kế rải khắp
lục địa và thềm biển Nhật Bản. Nó cho phép theo dõi gia tốc nền mọi cơn
địa chấn theo thời gian thực nếu bạn tiếp cận vào hệ thống.
Nhật Bản có một hệ thống như vậy không phải là điều
ngạc nhiên. Đất nước mặt trời mọc này nằm trên giao tuyến của bốn mảng
lục địa, lần lượt là mảng Thái Bình Dương, mảng Bắc Mỹ, mảng Eurasian và
mảng Philipin. Có thể nói đây là nơi nóng nhất của cái gọi là “Vành đai
lửa” nơi mà các hoạt động kiến tạo mà cụ thể hơn là va chạm của các
mảng lúc địa gây ra động đất liên tục ở đất liền và thềm biển Nhật Bản.
Như chúng ta thấy ở hình trên mô tả giao tuyến bốn
mảng lục địa cắt qua nước Nhật. Chúng di chuyển tương đối nhạy với tốc
độ rất nhỏ (bằng tốc độ mọc móng tay của bạn). Tuy nhiên theo thời gian
năng lượng khổng lồ (áp lực) tích tụ ở nền đá gốc tại giao tuyến các
mảng này và khi áp lực đó vượt quá cường độ của đá gốc dưới lòng đất nền
đá này sẽ vỡ tung, giải phóng thế năng trong nó thành động năng là các
cơn sóng địa chấn.
Trận động đất ngày 11/3 vừa qua là kết quả của sự kiện
như vậy do tương tác của hai mảng lục địa Bắc Mỹ và Thái Bình Dương.
Chính vì nằm trên vành đai lửa này nước Nhật hứng chịu liên tục các cơn
địa chấn và cần một ngành kháng chấn với hệ thống quan trắc phát triển
để phòng ngừa và giảm nhẹ thiên tai.
Cùng với hệ thống quan trắc địa chấn này, Nhật Bản
phát triển hệ thống cảnh báo sóng thần. Khi phát hiện ra tâm chấn ngoài
biển, nhờ vào công cụ tính toán mô phỏng nhanh cộng với các thiết bị đo
biển, JMA có thể đưa ra cảnh báo trong vòng vài phút. Các cảnh báo này ở
dạng bản đồ trực quan cho thấy vị trí tâm chấn các vùng duyên hải có
sóng thần và độ cao con sóng.
Thông tin này được truyền trực tiếp lên các kênh
truyền hình, đài phát thanh, điện thoại di động để người dân nhanh chóng
rời khỏi bờ biển khi có sóng cao. Tất cả quá trình đó từ khi có động
đất đến khi người dân nhận ra nguy hiểm chỉ trong vòng vài phút. Báo
động bằng loa phóng thanh và còi hú cũng được tiến hành ở các miền duyên
hải, xe tuần tra dọc bờ biển sẽ gọi mọi người tránh xa bờ. Một mạng
lưới các camera an ninh ven biển sẽ nối trực tuyến với truyền hình để
theo dõi tình hình sóng vào bờ.
Diễn biến trận sóng thần
Lúc 14h51', màn hình vô tuyến chuyển sang các hình ảnh
trực tiếp từ các camera ven biển tỉnh Iwate. Lúc này mọi sự vẫn bình
yên trên màn hình, trong phút đầu tiên chiều cao sóng ở dọc bờ biển hai
tỉnh Iwate là 3 mét, Miyagi được dự báo cao nhất là 6 mét và Fukushima
là 3 mét.
Dựa vào khoảng cách từ tâm chấn đến các thành phố và
khu dân cư nói trên có thể tính được vận tốc lan truyền sóng vào khoảng
400 đến 500 km/h. Trên thực tế trận sóng thần vừa qua lan tới Mỹ, bờ bên
kia của Thái Bình Dương cách Nhật Bản khoảng 8000 km trong 10h. Nếu
tính trên quãng đường dài này, tốc độ lan truyền sóng có thể lên đến 800
km/h. Nếu bạn cất cánh ở Nhật khi có động đất và bay sang bờ tây nước
Mỹ bạn sẽ đón được con sóng vừa rồi.
Nhưng mọi việc thay đổi chỉ trong vài phút sau.
Kurokawa, vị kiến trúc sư lâu năm ngồi gần màn hình nhất thốt lên “sao
dự báo chuyển thành 10 mét hết nhỉ?”. Lúc này là 15h00', camera trên
truyền hình NHK quay cận cảnh một cây cầu ở Kamaishi, một thành
phố nhỏ ở tỉnh Iwate. Lúc này ở góc quay hẹp dưới chân cầu đường cao
tốc đô thị này người ta có thể thấy ô tô và nhiều thứ khác trôi như
những chiếc hộp xốp.
Phản ứng đầu tiên của tôi là gọi điện thoại di động
cho vợ tôi, bà bầu sắp sinh con gái rượu của tôi. Vợ tôi biết tính tôi
hay hiếu kỳ với tin tức trên truyền hình. Nhiều lần trước khi có cảnh
báo sóng thần trong nhà chỉ có tôi dán mắt vào TV để xem sóng thần trông
thế nào khi nó vào bờ và lần nào cũng chỉ là những con sóng vài chục
centimet. Nhưng lần này thì khác, tôi nói với vợ: "Em bật truyền hình
lên xem động đất lớn lắm".
Đặt ống điện thoại xuống là lúc trên màn hình tàu
thuyền ở đâu bỗng dưng trôi ngược vào thành phố, va vào cây cầu chui qua
nó trong trạng thái nghiêng ngả. Có thể nhìn thấy vài vị tài xế lái xe
tải trên cầu đã dừng lại nhìn cảnh nước cuồn cuộn dưới chân cầu nơi
trước đó vài phút là đô thị và đường sá bỗng chốc trở thành dòng sông.
Cuối cùng là cả một ngôi nhà to trôi tuột qua cây cầu đó. Có lẽ những
người đứng trên cầu đã trải qua một phen hãi hùng hơn bất kỳ cảnh tượng
nào mà các bộ phim hành động Mỹ thường dựng.
Sóng thần hay Tsunami như cách gọi của người Nhật bắt
đầu tàn phá toàn bộ bờ phía đông bắc Nhật Bản từ 3h chiều ngày 11/3. Đến
lúc này các con số dự báo đã khác hẳn, với chiều cao sóng ở các điểm
báo của Iwate va Miyagi đều quá 10 mét. Cũng phải nói thêm rằng trong
thang cảnh báo của JMA sóng cao 3 mét đã được liệt kê vào sóng rất lớn.
Sức tàn phá khủng khiếp của sóng thần
Có lẽ những hình ảnh đầu tiên ở Kamaishi mà NHK thu
được đã quá sốc với phóng viên hiện trường của đài, những người đã lập
tức cất cánh từ các trung tâm truyền hình bằng trực thăng chuyên dụng.
Cũng chính về thế cả thế giới đã được chứng kiến trực tiếp cảnh tượng
hãi hũng khi sóng thần tàn phá thành phố, làng mạc ở đông bắc Nhật Bản.
Sau đoạn truyền hình trực tiếp ở Kamaishi là toàn cảnh
sóng thần tràn vào vùng đồng bằng ven biển Sendai. Tất cả chúng ta có
lẽ được thấy cảnh tượng con nước đầu đen kịt đội trên nó là nhà cửa, ô
tô và hằng hà vô số những mảnh gỗ có lẽ bị xé tung từ các căn nhà kéo
vào đồng ruộng thành phố Sendai.
Tốc độ lan trên đất liền nếu so với tốc độ của một số
xe ôtô vội vã bứt khỏi con sóng khi chạy về phía lục địa khoảng 30 đến
40 km/h. Tuy không nhanh như tốc độ lan ngoài biển, nó đủ nhanh để đuổi
theo bất cứ cư dân nào còn sót lại trong vùng làng mạc mà nó tràn tới.
Con sóng Sendai tràn qua đê biển, lan nhanh vào đồng
ruộng nuốt sạch những căn nhà vườn bằng nilon của nông dân, tiến sát đến
đường quốc lộ, quật lại khi va vào đê và nhào trộn toàn bộ các vật thể
nó mang trên đầu. Có cảm tưởng những chiếc xe ôtô trong cơn sóng còn nhẹ
hơn cả bao diêm.
Từ truyền hình trực tiếp có thể thấy một số người xấu
số không kịp lái xe chạy khỏi con sóng ngay trên đường quốc lộ, nơi cách
bờ biển vài km, điều mà chắc người lái xe đó không kịp nhận thức ra
chuyện gì đang xảy ra xung quanh mình. Bờ biển vùng đông bắc nước Nhật
trong vòng 4 tiếng đồng hồ đã bị quét sạch, nghiền nát thành các đống
rác khổng lồ. Không còn bóng dáng đô thị, chỉ còn cả một vùng tan hoang
với mấy ngôi nhà tầng bê tông cốt thép còn sống sót lại.
Ngay trong chiều hôm đó, các tổ hợp hoá dầu bốc cháy,
cầu sập, đường xá ngập sâu trong nước biển. Nhiều tàu cá và cả tàu tải
trọng lớn bị cuốn trôi vào trong thành phố. Ô tô chất thành đống cháy nổ
ngụt trời. Thành phố của Nhật trông giống hệt sau vụ nổ nguyên tử
Hiroshima và Nagasaki. Tệ hơn nữa là ngập sâu trong nước và bùn đất do
có hiện tượng lún nền trên diện rộng.
Phân bố của trận động đất và dư chấn
Trận động đất khổng lồ vừa rồi tuy rung chuyển toàn
lãnh thổ Nhật Bản, nhưng có lẽ không làm Việt Nam bị ảnh hưởng do nó
không truyền tới đất nước ta. Nói cách khác, cường độ động đất ở Việt
Nam bằng không nên chúng ta không cảm thấy chấn động này.
Khác với độ lớn (magnitude) được đo bằng Richter, đánh
giá tổng năng lượng giải phóng từ trận động đất như đã thảo luận ở phần
trên, cường độ hay còn gọi là cấp động đất (intensity) là thang đo ảnh
hưởng của trận động đất đó lên một điểm quan trắc nhất định.
Toàn vùng đông bắc nước Nhật (trên thực tế là toàn
nước Nhật) đều đo được chấn động với cường độ khác nhau. Cường độ quan
trắc được trong vụ vừa rồi lớn nhất là 7. Đây là cường độ kịch thang đo
của Nhật. Tokyo hứng chịu cường độ 5+, còn 3 tỉnh Iwate, Miyagi và
Fukushima hứng cường độ 6+.
Để độc giả có được hình ảnh về cường độ 5+, tôi xin mô
tả như sau. Năm 2004, một trận động đất xảy ra ở thành phố mà gia đình
tôi đang sinh sống khi đó, cường độ của nó ở khu vực nhà tôi là 5+. Khi
động đất xảy ra có cảm tưởng như một đàn bò rừng châu Phi chạy qua cạnh
nhà. Mọi thứ rung lên bần bật, đồ đạc trên giá rơi xuống sàn, chao đèn
lắc và các khung cửa sổ rung lên ầm ầm.
Một trận động đất cấp 7 theo thang đo của Nhật sẽ làm
rung chuyển nền dưới chân người đứng đến mức người đó sẽ ngã xuống vì
không thể đứng vững được với một dao động như thế. Nói một cách hình
tượng, khi có động đất cấp 7, một ngôi nhà sẽ chịu một lực tác động
ngang ít nhất bằng một nửa trọng lượng của ngôi nhà đó. Hay nếu bạn nặng
60 kg, bạn sẽ bị một lực 30 kg đẩy. Và lưu ý rằng dao động nền đổi
phương liên tục nên thực tế là bạn sẽ bị kéo đẩy liên tục với lực đó.
Trên đây là khái niệm về cấp động đất và gia tốc nền
tương đương. Thực tế trong trận đống đất vừa qua, số liệu đo gia tốc nền
tức thời ở thành phố Kurihara thuộc tỉnh Miyagi thật đáng kinh ngạc,
với trị số cực đại của nó là 2.933 gal, gấp 3 lần gia tốc trọng trường.
Với gia tốc này khó lòng một kết cấu nhân tạo nào có thể đứng vững được.
Nếu bạn nặng 60 kg bạn sẽ bị một lực 180 kg kéo đẩy liên tục.
Có thể bạn sẽ có hình ảnh về một trận động đất là một
cú rung mạnh và sau đó mọi thứ kết thúc. Sự kiện thực ra không phải như
thế. Những ai đã kinh qua động đất lớn như ở Nhật Bản sẽ có một cái nhìn
hoàn toàn khác. Một trận động đất, nhất là động đất lớn sẽ kèm theo dư
chấn là những trận động đất nhỏ hơn trong nhiều ngày, tháng thậm chí cả
năm sau đó.
Trận động đất vừa rồi có số lượng dư chấn cũng như độ
lớn dư chấn đáng kể. Trong vòng chưa đầy một giờ sau trận chính có tới 3
trận dư chấn lớn hơn 7 độ Richter. Cần nhắc lại rằng một trận hơn 7 độ
đã được xếp vào động đất lớn. Còn nhớ năm 1995 trận động đất gây thảm
họa ở Kobe cũng chỉ có độ lớn 7,3 độ Richter.
Ba ngày sau trận động đất chính, quan trắc cho thấy có
200 dư chấn xảy ra. Như vậy trung bình có 3 trận trong một giờ đồng hồ.
Tuy nhiên thống kê cho thấy hầu hết dư chấn xảy ra vào đầu giờ sáng và
cuối giờ chiều trong ba ngày qua. Bạn vẫn có thể ngủ trưa mà không bị
đánh thức vì động đất!
Theo tính toán các dư chấn lớn hơn 7 độ Richter có thể
lại xảy ra trong vòng vài ngày tới với xác suất lớn tới 40%. Có lẽ với
một trận động đất quy mô này dư chấn sẽ còn diễn ra trong vài năm tới.
Dư chấn chỉ chấm dứt khi cân bằng áp lực (ứng suất) được thiết lập trong
đứt gãy. Đá nền sẽ bị biến dạng sau trận động đất. Quan trắc phát hiện
ra hiện nay nước Nhật đã bị dịch chuyển 4 mét do trận đại động đất vừa
rồi.
Với tất cả những gì đã diễn ra do trận động đất chính
và sóng thần cùng với những cú sốc nhồi thêm liên tục do dư chấn, ngay
cả người tinh thần vững nhất cũng phải mệt mỏi nếu ở trong vùng động đất
như trận này.
II. Sự cố tại Fukushima I qua cái nhìn chuyên gia
Trong phần này tôi xin giải thích diễn biến, cơ chế
khủng hoảng hạt nhân tại nhà máy Fukushima I và lý do vì sao tôi có niềm
tin như vậy.
Hình ảnh hư hại lớp vỏ ngoài của lò phản ứng số 1, nhà máy Fukushima I sau vụ nổ. Ảnh: AFP |
Sơ lược về nhà máy điện nguyên tử Fukushima
Nhà máy Fukushima 1 thuộc thế hệ đầu tiên của ngành
năng lượng hạt nhân của Nhật. Nó được xây dựng và đưa tổ máy số 1 vào
vận hành vào tháng 3/1971, chỉ hơn tôi có vài tháng tuổi và với tuổi đời
này người ta vẫn nghĩ có thể mọi thứ đã hết hạn sử dụng. Thực tế thì
không phải như vậy!
40 đến 50 năm là tuổi đời thiết kế của nhà máy điện
nguyên tử. Nhà máy như thế này qua rất nhiều lần bảo dưỡng kiểm tra định
kỳ theo qui định nghiêm ngặt của Nhật. Có lẽ chỉ các kết cấu bê tông
cốt thép và phần lò phản ứng là không thay đổi, tất cả các hệ thống khác
liên quan đến vận hành và an toàn nhà máy đã được thay bởi thế hệ thiết
bị mới chế tạo trong 40 năm qua.
Loại lò sử dụng trong nhà máy này là Boiling Water
Reactor (BWR) hay có thể tạm gọi là lò phản ứng nước sôi. Các nhà máy
của điện lực Tokyo (TEPCO) sử dụng loại lò này. Một loại lò khác cũng
được sử dụng ở Nhật là Pressurized water reactors (PWR) hay gọi là Lò áp
lực nước.
Fukushima 1 có 6 tổ máy với tổng công suất lên đến
4696MW, gấp gần 3 lần công suất nhà máy thủy điện Hòa Bình của chúng ta.
Tổ máy đầu tiên do General Electric (GE) của Mỹ sản xuất, nhưng sau đó
người Nhật đã tự chế tạo được lò cho mình. Toshiba là hãng có lịch sử
gắn bó lâu dài với điện lực Tokyo và họ cung cấp lò cho hãng này.
Diễn biến khủng hoảng Fukushima
Khủng hoảng tại Fukushima 1 có thể nói là duy nhất, vì
cùng một lúc người ta gặp vấn đề với hai nhà máy với nhiều lò phản ứng,
nhiều hiện tượng sự cố cùng lúc và ngay cả trong lúc xử lý sự cố vẫn
phải hứng chịu dư chấn liên tục. Có thể nói sự cố điện nguyên tử này dù
không gây ra thảm họa nhiễm xạ trên diện rộng thì cũng sẽ viết một trang
mới cho các bài học về hệ thống an toàn điện nguyên tử, cũng như xử lý
trong tình trạng khẩn cấp mà trong đó tên tuổi các kỹ sư và nhân viên
vận hành nhà máy Fukushima sẽ được ghi tên vào lịch sử.
Cuộc chạy đua với khủng hoảng chưa kết thúc nhưng theo
dõi những gì diễn ra, một lần nữa tôi thêm tự tin rằng thời gian đang
ủng hộ con người. Ít nhất nhiệt trong các lò phản ứng đang trong tầm
kiểm soát. 50 con người dũng cảm vẫn tại vị trí làm việc.Vị giám đốc nhà
máy Fukushima I vẫn trong tư thế lãnh đạo toàn bộ cuộc chạy đua với áp
suất, nhiệt độ mà công cụ là nước biển.
Đoàn cán bộ chính phủ từ bộ Kinh Tế Công Thương Nhật
bản (METI) có mặt thường trực tại trung tâm đầu não của TEPCO ở Tokyo để
cùng họ ra những quyết định quan trọng. Nội các của thủ tướng Kan đoàn
kết và bình tĩnh. Toàn thể người dân Nhật cũng vậy họ kiên nhẫn tuân thủ
lệnh chính phủ không hốt hoảng hay kêu ca một lời nào.
Nhiên liệu hạt nhân và lò phản ứng
Câu trả lời tất nhiên là do động đất và sóng thần. Dù
được thiết kế từ hơn 40 năm trước, nhà máy Fukushima I có khả năng chống
động đất ở mức cao nhưng không phải cho một trận 9.0 độ Richter như thế
này. Để trả lời được phần nào những câu hỏi liên quan đến tai nạn, tôi
thấy cần phải nói qua về cấu tạo và nguyên lý vận hành của lò phản ứng
nhà máy Fukushima này.
Nhiên liệu và lò phản ứng |
Nhiên liệu của lò phản ứng hạt nhân là chất uranium.
Khoáng uranium thiên nhiên sẽ được tinh chế để làm ra thỏi nhiên liệu
(pelet) như thấy ở hình trên. Kích thước thỏi hình trụ này là 10x10mm
nặng khoảng 10gram với thành phần gồm uranium 235 và 238 trộn với tỷ lệ
thích hợp. 350 thỏi nhiên liệu này được nhồi vào một thanh nhiên liệu
(fuel rod). Các thanh nhiên liệu lại được bó thành bó nhiên liệu (fuel
assembly). Rồi các bó nhiên liệu được đưa vào lò phản ứng (reactor).
Chẳng hạn ở tổ máy số 1 của Fukushima 1 có 400 bó nhiên liệu như vậy.
Ngoài các bó nhiên liệu người ta còn đưa vào lõi lò
các thanh điều khiển (control rod). Những thanh này làm bằng chất Boron
có tính chất có thể "bắt" được các neutron là tác nhân gây ra phản ứng
hạt nhân dây truyền (chain reactor). Dùng thanh này người ta có thể kiểm
soát được mức độ phản ứng cũng như dừng hoàn toàn phản ứng trong lò.
Các bó nhiên liệu được đưa vào lò để khởi động phát
điện khi đó người ta sẽ cho quá trình phản ứng dây chuyền có kiểm soát
(giảm tốc độ và khống chế lượng neutron) diễn ra trong lò. Phản ứng dây
chuyền xảy ra khi các hạt neutron bắn phá vào các nguyên tử uranium 235.
Mỗi hạt neutron bắn vào một nguyên tử U235 sẽ khiến nó phân hạch tức là
vỡ ra thành các nguyên tử nhẹ hơn và là sản phẩm của phản ứng dây
chuyền (fission products).
Quá trình trên phát sinh ra nhiệt và sinh ra 2
neutron. Người ta sẽ dùng thanh điều khiển nói trên để "bắt" một neutron
vừa phát sinh như vậy lượng neutron trong lò sẽ không đổi. Đây là điểm
khác biệt căn bản giữa một quả bom nguyên tử và lò phản ứng nguyên tử. Ở
vụ nổ nguyên tử sự phát sinh theo cấp số nhân của neutron trong phản
ứng sẽ nhanh chóng sinh ra một phản ứng dây truyền không kiểm soát và
lượng nhiệt khổng lồ trong dây lát. Một phản ứng có kiểm soát sẽ sinh
lượng nhiệt như ý muốn của con người.
Khi "đốt" lò như thế nhiệt sẽ giải phóng xung quanh
các thanh nhiên liệu. Người ta bơm nước vào lò để "đun". Nước có nhiệt
độ và áp suất cao sẽ được chuyển thành hơi đẫn theo ống để "thổi" tuốc
bin phát điện. Sau đó nước này được ngưng tụ bằng một hệ thống làm lạnh
dùng nước biển và lại quay lại tâm lò trong một vòng tuần hoàn kín để
không cho phóng xạ lọt ra ngoài.
Về nguyên tắc một nhà máy nhiệt điện thông thường và
một nhà máy điện nguyên tử có nguyên lý vận hành như nhau chỉ khác ở chỗ
là đun bằng "bếp" than hay "bếp" nguyên tử mà thôi.
Xin nhắc lại là quá trình phản ứng sinh ra các sản
phẩm là các chất phóng xạ. Đây là điểm căn bản giải thích vì sao sau khi
"tắt" lò vẫn nóng. Khi tắt lò thông thường hoặc do sự cố người ta sẽ
đưa tất cả các thanh kiểm soát vào tâm lò khi đó phản ứng sẽ ngừng và
không có nhiệt sinh ra từ phản ứng dây truyền nữa. Tuy nhiên các sản
phẩm phản ứng là các chất phóng xạ (cesium và iodine là ví dụ) sinh ra
do "đốt" lò vẫn tiếp tục quá trình phân rã phóng xạ (Radioactive decay).
Như vậy hai bước quan trọng khi dừng lò là "tắt" lò và làm nguội.
Nguyên lý an toàn của lò phản ứng
Bài học mang tính giáo khoa cho thiết kế nhà máy nguyên tử là bảo vệ 5 lớp gồm:
Lớp 1: Thỏi nhiên liệu (pellet) được chế tạo nén cứng để các chất phóng xạ phát sinh luôn bị "nhốt" trong các thỏi này.
Lớp 2: Thanh nhiên liệu (fuel rod) có chức năng như vỏ
kín "nhốt" các chất phóng xạ và khí phát sinh khi nó thoát ra khỏi các
thỏi nhiên liệu.
Lớp 3: Lò phản ứng (reactor). Là một cái "nồi" thép có
vỏ dày 16 cm bằng kim loại. Lò này ngăn các chất phóng xạ thoát ra
ngoài khi phóng xạ thoát ra từ các thanh nhiên liệu.
Lớp 4: Thùng lò (pressure vessel) làm bằng kim loại có
vỏ dày 3 cm. Trong trường hợp xấu nhất khi lò phản ứng "vỡ" thùng lò sẽ
ngăn phóng xạ ra ngoài.
Lớp 5: Vỏ bê tông cốt thép. Đây là kết cấu bê tông cốt
thép có bề dày 1,5 mét, được thiết kế với một mục đích duy nhất là khi
tất cả thành phần kim loại nằm trong nó chảy ra trong một sự cố nóng
chảy lò giống như ở nhà máy Three Mile Island của Mỹ vào tháng 3/1979
thì phóng xạ vẫn bị "nhốt" trong vỏ này.
Trên thực tế ở nhà máy Fukushima 1 còn có một lớp "áo"
ngoài cùng là nhà lò. Kết cấu này chỉ có mục đích che các kết cấu bên
trong khỏi tác động của thời tiết. Nhưng cũng cần nhấn mạnh rằng nó là
kết cấu "kín bưng". Hai vụ nổ ở lò phản ứng số 1 và số 3 ở nhà máy
Fukushima I đều xảy ra ở lớp ngoài cùng này. Các vụ nổ đó chưa làm ảnh
hưởng đến lớp phòng vệ bên trong.
Nếu xem xét như trên thì chúng ta thấy vấn đề ở
Fukushima 1 chưa đến mức nghiêm trọng và qui mô của vấn đề khó có thể
lớn hơn được nữa. Theo thang đo INES (International Nuclear and
Radiological Event Scale) của cơ quan năng lượng nguyên tử Quốc tế sự cố
này có cấp 4 trong thang 7 cấp, tức là sự cố có tính chất cục bộ. Cần
nhắc đến là Chernobyl là sự cố có mức rất nghiêm trọng lớn nhất từ trước
tới nay và xếp vào cấp 7. Cấp 6 là sự cố nghiêm trọng. Cấp 5 là sự cố
có diện rộng trong thang đo này.
Vỏ ngoài lò phản ứng số 3 nhà máy Fukushima I sau vụ nổ. Ảnh: AFP |
Trục trặc ở hệ thống làm mát lò
Một nhà máy điện nguyên tử như Fukushima I được thiết
kế chống động đất và tính toán đến ảnh hưởng của sóng thần rất tốt. Nó
cũng được trang bị không phải một mà là nhiều hệ thống làm mát với
nguyên lý làm việc khác nhau độc lập với nhau cùng với các nguồn điện
độc lập. Nhiều kịch bản về sự cố được xây dựng để có các thủ tục đối
phó.
Kịch bản ở Fukushima chính vì thế không mới. Điều bất
ngờ là sóng thần quá lớn đã phá hỏng các máy phát điện dự phòng diezen
nguồn năng lượng huyết mạch cho công tác làm lạnh. Trên thực tế các máy
diezen ở nhà máy Fukushima I đều làm việc ngay những phút đầu tiên khi
nhà máy mất điện lưới do động đất gây ra. Chúng hoạt động tốt cho đến
khi sóng thần ập đến.
Dù thế không có nghĩa là mất hết nguồn điện. Mọi
chuyện không đơn giản như thế! Các nhà thiết kế cũng đã tính cả đến khả
năng này và họ đặt một nguồn điện khác trong vỏ lò nơi sóng thần không
thể đến được. Nguồn này là pin có khả năng duy trì năng lượng cho các
máy bơm của hệ thống làm mát lò trong 8 giờ với tính toán rằng với từng
đó thời gian các nguồn cấp điện di động đã được vận chuyển đến nhà máy
qua đường bộ. Và tính toán này diễn ra đúng kịch bản các pin này đã làm
việc như thiết kế.
Tuy nhiên kịch bản bị vỡ ở một điểm là các xe phát
điện di động của TEPCO không thể đến hiện trường sớm như dự tính. Bạn
biết vì sao rồi đó. Làm gì còn đường xá cầu cống qua cơn sóng thần vừa
rồi đó là cái không tính được! Nhưng họ vẫn đã đến chỉ có điều đến muộn.
Và giống như bất kỳ vụ đến muộn nào khác sẽ có ai đó tức giận đến đỏ
mặt. Nhiên liệu trong các lò không được làm mát do mất nguồn điện đã làm
nước trong lò sôi lên bốc hơi và áp suất trong các lò đã tăng lên hơn
nhiều so với thiết kế.
Nổ do phản ứng hóa học
Do không kịp bơm nước vào tâm lò để làm lạnh do mất
nguồn điện cho hệ thống bơm nhiệt trong lò làm nước bốc hơi trong lò.
Mực nước trong lò hạ xuống làm các thanh nhiên liệu không còn ngập hết
trong nước nữa. Bên ngoài khu vực nhà máy lúc này đã phát hiện ra sự có
mặt của sản phẩm phản ứng trong lò bao gồm các chất cesium (Cs) và
iodine (I).
Điều này là cơ sở để phán đoán rằng nhiệt độ nhiên
liệu đang rất cao vì các chất trên trong nhiên liệu đã bốc hơi và giải
phóng ra ngoài khi nhóm vận hành buộc phải xả khí ra ngoài để bào vệ lò.
Nếu như vậy nhiệt độ có thể cao hơn 2000 độ C vì nhiên liệu chỉ nóng
chảy khi nhiệt độ đạt mức này. Điều này đồng nghĩa là vỏ của thanh nhiên
liệu đã nóng chảy. Zircaloy nóng chảy dưới xúc tác của môi trường nước
nhiệt độ cao trong lò đã gây ra phản ứng sinh ra hydro.
Việc Hydro sinh ra không nằm ngoài dự đoán chỉ có điều
do độ tin cậy của các thiết bị đo mực không được khẳng định, tổng lượng
hydro phát sinh là bao nhiêu không nắm được. Hơn thế nữa việc xả khí
trong lò ra là bất khả kháng vì rủi ro nổ lò là không thể chấp nhận được
bởi khi đó phóng xạ sẽ ồ ạt tràn ra môi trường. Khí được xả ra không
gian nhà lò, nơi như nói trên là không gian được thiết kế kín với mục
đích chống rò rỉ bất kỳ khí nào từ trong lò xả ra. Hydro nhẹ sẽ bốc lên
trần nhà lò tích tụ ở đấy tới khi nồng độ của nó đạt mức tới hạn. Khi đó
hydro sẽ phản ứng với ô-xi trong không khí phát nổ.
Hai cú nổ do phản ứng này đã thổi tung mái nhà lò số 1
và số 3 của nhà máy Fukushima I có cơ chế như vừa giải thích trên đây.
Cũng cần nói thêm rằng trong lò phản ứng không có ô-xi cho nên không thể
có phản ứng nổ như vậy và như đã nhắc đến ở trên vụ nổ không làm hư hại
đến thùng lò như đã khẳng định bởi TEPCO.
Cháy do các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng
Diễn biến thảm họa ở Fukushima I đã trở nên quá kịch
tính khi ngay cả tổ máy đang dừng hoạt động từ trước động đất cũng bốc
cháy. Sau đó người ta phát hiện ra nguyên nhân của việc này là do nhiệt
từ các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng đang được ngâm trong các bể làm
mát ở tầng 4 nhà lò. Mỗi một bể làm mát này có sức chứa khoảng 2000 mét
khối nước ngâm trong đó là các bó nhiên liệu có chiều cao 4 mét. Những
bó này để dưới sâu đáy bể với mức nước ngập cao hơn nó chừng 20 mét.
So với sự kiện trong tâm lò thì sự kiện ở các bể làm
nguội vật liệu này phức tạp hơn ở khía cạnh ngăn ngừa phóng xạ. Kịch bản
xảy ra như ở các bể này có lẽ chưa bao giờ được đặt ra. Các thanh nhiên
liệu qua sử dụng có các chất phóng xạ, sản phẩm của phản ứng dây chuyền
chúng phân rã sinh nhiệt và các tia phóng xạ, trong khi đó chúng không
nằm trong vỏ lò mà hoàn toàn bị lộ ra khí quyển lúc này do mái các tòa
nhà lò đã bị phá hủy.
Lý do gì dẫn đến sự tăng nhiệt ở các thanh nhiên liệu
đã sử dụng trong các bể chứa là điều tôi cũng đang muốn biết nhưng tôi
phán đoán rằng vụ nổ ở lò thứ 3 đã làm mất một lượng lớn nước trong bể
của nó cũng như bể chứa ở lò số 4. Sau vụ nổ lò số 3 người ta phát hiện
tòa nhà lò số 4 cũng bị tổn thất nghiêm trọng.
Nguy cơ và mức độ rò rỉ phóng xạ
Mức độ ảnh hưởng của liều phóng xạ SV (Sievert) vào cơ thể người |
- Liều trên 7000 mSv gây tử vong cho tất cả mọi người bị nhiễm xạ - Liều 3000 đến 5000 mSv gây tử vong 50\% người bị nhiễm xạ - Liều 1000 mSv gây nôn mửa tại chỗ và là nguyên nhân ung thư về lâu dài - Liều 500 mSv sẽ gây ra hiện tượng giảm các tế bào limpho trong máu người - Liều 6.9 mSv là lượng nhiễm xạ sau một lần cắt lát CT khi kiểm tra sức khỏe - Liều 1.0 mSv là lượng nhiễm xạ tự nhiên từ phóng xạ mặt trời và đất đá thiên nhiên trong một năm - Một lần chụp X-quang sẽ có một liều 0.5 mSv |
Trong ngày đầu tiên trước khi lò số 1 phát nổ người ta
đã đo được nồng độ phóng xạ trong khu vực nhà máy ở mức hoàn toàn chưa
có ảnh hưởng lên con người, do đó lệnh di tản dân ra khỏi bán kính 3 km
được đưa ra như biện pháp phòng ngừa sớm. Có thể thấy rằng nồng độ này
là do việc phóng xạ phát tán do việc xả hơi và khí trong lò để bảo vệ lò
phản ứng. Mặc dù bộ lọc phóng xạ khi một thao tác xả khí như thế được
thiết kế tốt một liều nhất định phóng xạ ra môi trường là không thể
tránh khỏi.
Tuy nhiên sau vụ nổ lò số 3 rồi sau đó vụ cháy phát
hiện lò số 4 do các nhiên liệu đã qua sự dụng nồng độ phóng xạ đã tăng
lên. Đặc biệt nồng độ này bị tăng vọt sau khi bể chứa nhiên liệu đã qua
sử dụng với gần 2000 tấn nước ở tầng 4 của lò số 3 sôi ùng ục tỏa một
lượng bơi nước lớn lên trời đến mức ống kính kênh NHK từ 30 km có thể quay rõ đám hơi nước này.
Từ việc sử dụng đơn vị microsievert ban tình trạng
khẩn cấp đã thông báo với dân chúng Nhật nồng độ bằng millisiverts chứng
tỏ liều phóng xạ đã tăng lên cả ngàn lần so với ban đầu. Nồng độ lớn
nhất đo được giữa hai tổ máy 2 và 3 là 400mSv. Với liều này các tế bào
lympho trong máu người sẽ bị giảm đột ngột ảnh hưởng đến sức khỏe, tình
hình đưa đến quyết định rút toàn bộ cán bộ vận hành khỏi nhà máy nhất
thời khi đó.
Vào lúc 12h30 ngày 17/3, nồng độ nhiễm xạ tại khu vực
nhà máy khoảng 3500 $\mu$Sv (3.5 mSv). Với nồng độ này quân đội Nhật Bản
đã quyết định dùng trực thăng quân sự CH47 đổ nước từ trên cao để làm
nguội các bể chứa nhiên liệu đã qua sử dụng ở lò số 3 và 4. Phi công
được trang bị bảo hộ an toàn phóng xạ đeo máy đo nồng độ xạ cá nhân để
tiến hành công việc này.
Theo lãnh đạo của quân đội Nhật liều lượng qui định để
chấm dứt nhiệm vụ này là 50 mSv, thực tế phi công đã đo được nồng độ
khá cao ở một thời điểm là 80 mSv vì thế việc dội nước từ trên cao bằng
trực thăng tạm dừng. Kiểm tra sức khỏe của phi công sau khi rời hiện
trường cho thấy họ không bị nhiễm xạ sau nhiệm vụ vừa rồi. Sau phương
pháp làm nguội bằng trực thăng, người ta đang cử các xe bơm áp lực cao
đang đứng chờ cách nhà máy 20 km tiếp cận các lò này để bơm trực tiếp
bằng cần bơm. Phương pháp sẽ có hiệu quả hơn vì nước dễ bơm đến các vị
trí mong muốn hơn so với cách trực thăng CH47 vừa thực hiện.
Tới lúc này có thể thấy được nguy cơ nhiễm xạ phải đối
diện hiện nay không phải từ trong lòng các lò phản ứng nơi mà áp suất
nhiệt độ đã phần nào được kiểm soát. Tuy nhiên nhiệm vụ nặng nề phải
thực hiện lại là cuộc chạy đua với nhiệt của các bể chứa nhiên liệu đã
qua sử dụng. Nguy cơ nhiễm xạ ở mức độ nhất định là có nhưng con người
vẫn đang nắm kiểm soát. Người Nhật đang chạy đua với thời gian sự tham
gia của quân đội và cảnh sát sử dụng các phương tiện của họ đã giúp
TEPCO một lần nữa thêm tự tin trong cuộc đấu cam go này.
Trực thăng vận tại CH47 của quân đội Nhật đưa túi nước thả xuống lò phản ứng tại Fukushima I. Ảnh: AFP |
Khủng hoảng sẽ đi đến đâu
Có thể nói câu hỏi cho thì tương lai này không ai có
thể trả lời chắc chắn được trong một tình huống như thế này. Rất nhiều
người trên khắp thế giới lo lắng và cầu nguyện cho nước Nhật. Nhưng từ
trong lòng nước Nhật với những thông tin cập nhật liên tục từng phút tôi
có thể tin tưởng mà nói với độc giả rằng khủng hoảng sẽ đi đến kết thúc
và Fukushima I sẽ nằm trong vòng kiểm soát hoàn toàn của con người.
Với các bể chứa nhiên liệu qua sử dụng, phương pháp
làm lạnh ít nhất đã có giải pháp. Các xe máy bơm áp lực cao đang tiến
sát về nhà máy theo tính toán những xe này sẽ bơm nước vào các bể chứa
từ khoảng cách 50 mét với góc 30 độ như tính toán để đạt hiệu quả nhất
cho việc cấp nước cho các bể chứa. Chỉ cần bể có nước các thanh nhiên
liệu nguội đi phóng xạ sẽ chấm dứt.
Cả nước Nhật vẫn bình tĩnh, không thấy hoảng loạn, kêu
khóc, trộm cắp, hôi của. Người Nhật chia nhau cơm nắm để vượt khó, các
cửa hàng giảm giá để khách hàng có đồ ăn thức uống. Công ty truyền thông
cấp miễn phí các điện thoại vệ tinh cho công tác cứu trợ và tìm người
thân. Viện trợ nhanh chóng tới các điểm lánh nạn trong vùng bị thiên
tai.
Quốc tế cũng đã có mặt để giúp nước Nhật đáng kể nhất
là sự hiện diện của người Mỹ với tàu hàng không mẫu hạm Ronald Regan.
Thủ tướng Naoto Kan lệnh cho quân đội tăng quân số tham gia cứu hộ từ
20.000 người lên 100.000 người. Như vậy trung bình sẽ có 10 người lính
giúp đỡ khoảng 5 người bị nạn nếu như thống kê 15.000 có thể chết và mất
tích và 35.000 người đang trong hoàn cảnh tị nạn là chính xác.
Điện dù vẫn đang bị cắt luôn phiên nhưng trung tâm đầu
não Tokyo đã dần dần quay lại hoạt động. Ngân hàng Nhật đã đưa ra một
lượng tiền lớn để ổn định thị trường. Các nhà băng đã hồi phục lại hệ
thống dịch vụ. Tàu cao tốc đã chạy...
Hà Ngọc Tuấn(từ Fukuoka, Nhật Bản)