THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ PHONG TRÀO KHÔNG LIÊN KẾT VÀ QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM
I. MỘT SỐ NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1. SỰ RA ĐỜI CỦA PHONG TRÀO KHÔNG LIÊN KẾT
Phong trào
Không liên kết ra đời trong cao trào giải phóng dân tộc làm sụp đổ chủ
nghĩa thực dân cũ và trong bối cảnh chiến tranh lạnh có nguy cơ dẫn đến
chiến tranh thế giới mới. Chính sách không liên kết là biểu thị ý chí
của các nước độc lập non trẻ Á, Phi, Mỹ la tinh đoàn kết đấu tranh bảo
vệ và củng cố độc lập chính trị, từng bước giành độc lập kinh tế, bảo vệ
hoà bình thế giới để tồn tại và phát triển.
Mặc dù hết
sức đa dạng về văn hoá tín ngưỡng, về chế độ chính trị- xã hội, về lợi
ích dân tộc, nhưng các nước không liên kết có nhiều đặc điểm giống nhau:
đều đã bị thực dân đô hộ, kinh tế kém phát triển, cùng chung nguyện
vọng muốn có hoà bình ổn định để xây dựng đất nước, thoát khỏi nghèo nàn
và lạc hậu, Đó là cơ sở khách quan để phong trào có thể trở thành một
tập hợp lực lượng rộng rãi, đoàn kết gắn bó trong một cương lĩnh hành
động tối thiểu.
Tháng
3/1947, Thủ tướng Nehru triệu tập tại New Delhi hội nghị Đại biểu các tổ
chức và đoàn thể quần chúng, về sau được gọi là Hội nghị về quan hệ
châu Á lần thứ nhất.
Tháng 1/1949, theo đề nghị của Miến Điện, Thủ tướng Nehru tổ chức Hội nghị Châu Á lần thứ hai tại New Delhi.
Tháng
4/1954, Thủ tướng 5 nước Ấn Độ, Miến Điện, Indonesia, Pakistan và Xri
Lanca họp tại Colombo để thảo luận các vấn đề quan tâm chung như: chống
thực dân và phân biệt chủng tộc, chiến tranh lạnh, vấn đề thử vũ khí hạt
nhân và hợp tác kinh tế. Tại đây Thủ tướng Nehru tuyên bố rằng đa số
các nước tham dự Hội nghị theo đuổi chính sách đối ngoại KLK. theo đề
nghị của Indonesia, 5 nước này quyết định triệu tập một Hội nghị các
quốc gia độc lập Châu Á và Châu Phi trong năm 1955. Sau đó 5 nước lại
gặp nhau tại Bogor (12/1954) và quyết định Hội nghị Á Phi sẽ họp tại
thành phố Bandung của Indonesia từ 18 đến 24/4/1955.
Từ cuối năm
1954 đến tháng 4/1955 đã diễn ra một loạt cuộc tiếp xúc ngoại giao quan
trọng của Thủ tướng Nehru với Tổng thống Nasser, Tổng thống Tito, đặc
biệt với Thủ tướng Chu Ân Lai. Trước ngày khai mạc Hội nghị Bandung, Ấn
Độ và Trung quốc ra thông cáo chung nêu lên 5 nguyên tắc chỉ đạo quan hệ
giữa hai nước có chế độ chính trị – xã hội khác nhau, về sau được gọi
là 5 nguyên tắc chung sống hoà bình. Đó là:
*Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau;
*Không xâm lược lẫn nhau;
*Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
*Bình đẳng và hai bên cùng có lợi;
*Cùng tồn tại hoà bình.
Tham dự Hội
nghị Bandung 1955 gồm các chính phủ của 29 nước Á-Phi, trong đó có 23
nước Châu Á (Afghanistan, Miến Điện, ấn Độ, Indonesia , Giúocdani, Iran,
Irắc, Yemen, Trung Quốc, Campuchia, Lào, Xiri, Libăng, Nepal, Pakistan,
A rập Xê-út, Thổ Nhĩ Kỳ, Xri Lanca, Philippin, Thái Lan, Nhật, Việt Nam
dân chủ Cộng hoà và 6 nước Châu Phi (Ai Cập, Ghana, Ethiopia, Liberia,
Libya và Sudan). Ghana tham dự Hội nghị trước khi được chính thức trao
trả độc lập, Síp và Palextin tham dự với tư cách quan sát viên. Đoàn đại
biểu Chính phủ ta do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu.
Những đề
tài chính được thảo luận tại Bandung là hoà bình thế giới, an ninh của
các nước Á-Phi, cùng tồn tại hoà bình và láng giềng thân thiện, giải
phóng các dân tộc Á-Phi khỏi ách thống trị thực dân và phân biệt chủng
tộc... Trong quá trình Hội nghị đã nảy sinh bất đồng quan điểm gay gắt
giữa các nước tán thành chính sách KLK và những nước tham gia các khối
quân sự, có nguy cơ làm Hội nghị tan vỡ.
Tháng
4/1961 các Tổng thống Ai Cập, Nam Tư và Indonesia gửi thư chung cho
nguyên thủ 21 nước đề nghị tổ chức một hội nghị các nước KLK. Ngày
18/5/61 các Tổng thống Naser, Tito, Sukarno gửi thư chính thức mời những
nước đó dự Hội nghị trù bị tại Cairo.
Hội nghị
trù bị tại Cairo từ ngày 5 đến 12/6/1961 để chuẩn bị cho Hội nghị cấp
cao của các nước KLK tại Nam Tư vào tháng 9/1961, đã bàn về vai trò và
chính sách của phong trào KLK trong tương lai. Những nước tham dự Hội
nghị trù bị Cairo cho rằng cần biến khu vực các nước không cam kết...
thành một nhân tố cơ bản gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế, khẳng định
sự trung thành đối với chính sách không cam kết như là một biện pháp xử
lý tích cực các vần đề mà thế giới đang gặp phải (về từ ngữ, cụm từ
không liên kết chỉ được sử dụng chính thức từ Hội nghị cấp cao Belgrade,
Trước đó, Hội nghị trù bị Cairo dùng cụm từ không cam kết). Một đóng
góp rất quan trong của Hội nghị trù bị Cairo là việc soạn thảo 5 tiêu
chuẩn thành viên của Phong trào được Hội nghị cấp cao Belgrade thông qua
và có hiệu lực cho đến ngày nay.
Hội nghị
các vị đứng đầu nhà nước và chính phủ các nước KLK tại Nam Tư vào đầu
tháng 9/1961 đã chính thức khai sinh ra Phong trào không liên kết.
2. MỘT SỐ NÉT VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
*1961-1964: Giai đoạn thành lập, Phong trào theo đường lối ôn hoà của 5 nước chủ xướng: không liên kết và đứng giữa các khối.
*1964-1969:
Phong trào khủng hoảng. Các thế lực phản động gây chiến tranh ở nhiều
nơi, mâu thuẫn Xô-Trung bộc lộ gay gắt, các nước KLK chủ chốt gặp khó
khăn, phong trào không có điều kiện nhóm họp.
*1969-1989:
Cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống xâm lược và sự ra
đời của một loạt các quốc gia độc lập dân tộc, Phong trào có xu thế
chung chống đế quốc, đã tham gia và có tiếng nói tích cực vào quan hệ
quốc tế.
*1989-
4/1999: sau chiến tranh lạnh, Phong trào tiếp tục phát triển và giữ vai
trò là chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của các nước không liên kết và
đang phát triển trong quan hệ quốc tế, tham gia tích cực vào các nỗ lực
gìn giữ hoà bình, đấu tranh giải trừ quân bị, chống áp đặt, bảo vệ chủ
quyền quốc gia, xây dựng trật tự thế giới mới, cải tổ và dân chủ hoá các
tổ chức quốc tế, đặc biệt là LHQ.
3. CÁC HỘI NGHỊ CẤP CAO
Hội nghị
Belgrade tháng 9/1961 có 25 thành viên chính thức; Hội nghị Cairo 1964,
47 thành viên; Hội nghị Lusaka 1970, 58 thành viên, Hội nghị Alger 1973,
76 thành viên; Hội nghị Colombo 1976, 86 thành viên; Hội nghị Havana
1979, 95 thành viên; Hội nghị New Delhi 1983, 101 thành viên; Hội nghị
Harare 1986, 101 thành viên, Hội nghị Belgrade 1989, 104 thành viên; Hội
nghị Jakarta 1992, 108 thành viên; Hội nghị Cartagena (Colombia) 1995,
113 thành viên; Hội nghị Đơ-ban 1998 (Nam Phi), 114 thành viên; Hội nghị
Kuala Lumpur (Malaysia) 2003, 116 thành viên.
II. CƠ CẤU VÀ THỦ TỤC HOẠT ĐỘNG CỦA PHONG TRÀO KHÔNG LIÊN KẾT
1. TÔN CHỈ MỤC ĐÍCH
Phong trào
Không liên kết đấu tranh cho quyền tự quyết của các dân tộc, chống chủ
nghĩa đế quốc, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân cũ và thực dân mới, theo năm
nguyên tắc chỉ đạo: hoà bình, độc lập, phát triển, không liên kết và
không tham gia khối, nhóm quân sự, chính trị nào.
2. TIÊU CHUẨN THÀNH VIÊN
*Là nước có chính sách độc lập.
*Kiên định ủng hộ các phong trào độc lập dân tộc.
*Không là
thành viên của bất cứ một liên minh quân sự đa phương nào thành lập
trong bối cảnh các cuộc xung đột giữa các cường quốc.
*Nếu một
nước có hiệp định quân sự đa phương với một cường quốc, hoặc là thành
viên của một hiệp định phòng thủ khu vực thì hiệp định hoặc hiệp ước đó
không được ký kết trong bối cảnh những cuộc tranh chấp giữa các cường
quốc.
*Nếu một
nước đã nhượng căn cứ quân sự cho một nước ngoài, thì sự nhượng đó không
được tiến hành trong bối cảnh các cuộc tranh chấp giữa các cường quốc.
- Số nước thành viên hiện nay (tính đến 2/2004): 116
- Số lượng quan sát viên hiện nay (tính đến 2/2004): 16 nước và 7 tổ chức quốc tế
- Số lượng khách mời: 31 nước và 43 tổ chức quốc tế (tại Hội nghị Cấp cao KLK lần thứ 13, Kuala Lumpur, Malaysia)
3. CƠ CẤU TỔ CHỨC
Phong trào này không có trụ sở hay cơ chế thường trực (Uỷ ban Phối hợp hoạt động theo cơ chế ad-hoc tại LHQ)
Phong trào
Không liên kết là một loại thể chế quốc tế đặc biệt, là một hiện tượng
mới trong luật pháp quốc tế. Nó không phải đơn thuần là một Hội nghị
hoặc Diễn đàn Liên chính phủ họp định kỳ, mà cũng không phải là một tổ
chức của các nước do một điều ứơc quốc tế lập ra, có điều lệ rõ ràng và
được thể chế hoá chặt chẽ. Mức độ thể chế hoá của Phong trào tương đối
lỏng lẻo và thể hiện chủ yếu ở tập quán và lề lối hoạt động.
Qua thực tiễn hoạt động, đã hình thành một hệ thống tổ chức gồm 3 cấp:
* Hội nghị
cấp cao các vị đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ các nước KLK, thông
thường 3 năm họp một lần. Nguyên thủ của nước đăng cai Hội nghị cấp cao
trở thành Chủ tịch đương nhiệm và là người phát ngôn của Phong trào.
* Giữa hai kỳ Hội nghị cấp cao, có hội nghị toàn thể các Bộ trưởng Ngoại giao.
* Cơ quan
thường trực của Phong trào là Uỷ ban phối hợp, thường xuyên hoạt động ở
cấp đại sứ - đại diện các nước KLK bên cạnh Liên hợp quốc tại New York.
Uỷ ban phối hợp có thể họp cấp Bộ trưởng khi cần.
4. THỦ TỤC LÀM VIỆC
Phong trào
Không liên kết áp dụng các thủ tục hiện hành của Liên hợp quốc. Tuy
nhiên, có khác Liên hợp quốc về một điểm cơ bản, đó là thông qua quyết
định bằng "nhất trí" (consensus), không phải bằng bỏ phiếu. "Consensus"
có nghĩa là sự "nhất trí áp đảo", chứ không phải là "nhất trí tuyệt
đối", đi đôi với quyền "bảo lưu" ý kiến của nước nào không tán thành
"nhất trí", là sự thể hiện tinh thần dân chủ và tính mềm dẻo trong quá
trình thông qua quyết định.
* Lần đầu
tiên khái niệm consensus được thảo luận trực tiếp ở Hội nghị Kabul
(5/1973) của Uỷ ban trù bị cho HNCC lần thứ 4 (Alger 5-9/9/1973) với
nhiều quan điểm khác nhau. Chủ tịch Hội nghị đúc kết các ý kiến trong
một tuyên bố giải thích khái niệm consensus như sau và đã được Phong
trào chấp nhận rộng rãi:
* "Trong
mươì hai năm qua kể từ Hội nghị lần thứ nhất của các nước KLK, từ thực
tiễn đã rút ra được ý kiến tổng hợp và làm cân đối quan điểm của các
nước về những vấn đề quan trọng, và thông qua các quyết định bằng
consensus - "nhất trí" . Từ ngữ này có nét đặc thù phần nào khó định
nghĩa, khó diễn đạt bằng lời nói, nhưng tất cả chúng ta có bản năng để
hiểu nó nghĩa là gì. Nó đòi hỏi sự thông cảm và tôn trọng các quan điểm
khác nhau kể cả những quan điểm bất đồng, và hàm chứa sự nhân nhượng lẫn
nhau, tạo cơ sở cho một quá trình thích nghi lẫn nhau giữa các nước
thành viên theo tinh thần thực sự không liên kết. Nói cách khác,
consensus đơn giản có nghĩa là sự hội tụ của các quan điểm ("convergence
of views").
* Nguồn gốc
của phương thức consensus xuất phát chủ yếu từ tính đa dạng về thành
viên của Phong trào KLK. Tính đa dạng này đã được Hội nghị Kabul
(5/1973) giải thích như sau: "Phong trào KLK bao gồm nhiều nước thuộc
các khu vực khác nhau trên thế giới, với nhiều đặc thù về chủng tộc và
văn hoá, chế độ chính trị và kinh tế. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó của
các nước KLK, có sự thống nhất cơ bản về mục đích. Sự thống nhất trong
đa dạng là bản chất của sức mạnh và sức sống của Phong trào."
Từ đó về sau, từ ngữ "thống nhất trong đa dạng" được thường xuyên nhắc đến như một châm ngôn của Phong trào KLK. Trong quá trình thông qua các quyết định của Phong trào, sự "thống nhất trong đa dạng" ở đây còn được hiểu là consensus đi đôi với quyền được bảo lưu ý kiến.
Từ đó về sau, từ ngữ "thống nhất trong đa dạng" được thường xuyên nhắc đến như một châm ngôn của Phong trào KLK. Trong quá trình thông qua các quyết định của Phong trào, sự "thống nhất trong đa dạng" ở đây còn được hiểu là consensus đi đôi với quyền được bảo lưu ý kiến.
* Việc bảo
lưu: Mặc dù tại Kabul có sự giải thích như trên về khái niệm consensus,
nhưng việc áp dụng trong thực tế đối với từng vấn đề cụ thể không phải
là đơn giản mà còn tuỳ thuộc vào so sánh lực lượng bên trong Hội nghị và
xu thế chung lúc đó. Khái niệm "bảo lưu", tức là cho phép những nước có
ý kiến khác với kết luận của chủ tịch cuộc họp có quyền bảo lưu quan
điểm của mình bằng cách phát biểu tại hội nghị hoặc bằng văn bản gửi cho
Chủ tịch Hội nghị.
* Tại Hội
Nghị Cấp Cao 7 New Delhi (7-12/3/1983), "Quyết định về biện pháp tăng
cường thống nhất, đoàn kết và hợp tác giữa các nước đang phát triển" đã
quy định cụ thể thêm về lề lối làm việc của Uỷ ban phối hợp và thể thức
thông qua các quyết định bằng consensus. Hội nghị cho rằng: việc thông
qua các quyết định bằng "nhất trí" đã trở thành thông lệ của Phong trào,
mặc dù còn một số khó khăn trong việc sử dụng phương thức consensus.
Phong trào khẳng định thêm: "Nhất trí vừa là quá trình vừa là bản thân
công thức thoả hiệp cuối cùng được hình thành sau những cuộc tham khảo,
thảo luận và đàm phán để đi đến một lập trường nói chung được chấp nhận.
Nói cách khác, consensus là sự hội tụ và hài hoà các quan điểm thể hiện
sự đồng ý rộng rãi nhất của Hội nghị nhằm tăng thêm hoặc chí ít duy trì
sự thống nhất và sức mạnh của phong trào".
Thực tế từ
ngày Phong trào mới ra đời cho đến nay chứng minh rằng đó là sự lựa chọn
duy nhất đúng, đảm bảo đoàn kết nội bộ và phù hợp tính chất đa dạng của
Phong trào. Mặc dù có ngươì chỉ trích phương pháp thông qua các quyết
định bằng "nhất trí", đòi thay thế bằng phương pháp bỏ phiếu, nhưng
nguyện vọng chung của tuyệt đại đa số các nước thành viên là cần duy trì
phương pháp "nhất trí" vì nó là đặc thù của Phong trào Không Liên Kết.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ PHONG TRÀO
Phong trào Không liên kết
tồn tại hơn ba thập niên và không ngừng phát triển. Số thành viên chính
thức tăng hơn 4 lần, từ 25 lên 116 (Đông Timo và St.Vincent -
Grenadines là những thành viên mới nhất từ tháng 2/2004).
Nhìn lại lịch sử của
Phong trào, chúng ta thấy sự đóng góp của Phong trào vào việc giải quyết
các vấn đề trọng đại của thế giới là to lớn và nói chung là tích cực.
Hoạt động của Phong trào luôn thể hiện cuộc đấu tranh gay go phức tạp
giữa hai khuynh hướng: giữa một bên là khuynh hướng tăng cường đoàn kết
nội bộ, mở rộng hợp tác với các lực lượng hoà bình và dân chủ khác với
một bên là các thế lực đồng minh công khai hoặc dấu mặt của đế quốc muốn
lái Phong trào đi chệch mục tiêu cơ bản, làm suy yếu Phong trào.
Trong chiến tranh lạnh,
Phong trào KLK với những nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của mình, đã có
vai trò và đóng góp quan trọng vào đời sống chính trị quốc tế nói chung
và việc bảo vệ lợi ích đối với các nước đang phát triển nói riêng. Tình
hình thế giới, thực tế, đã có những biến đổi sâu sắc theo chiều hướng
tích cực nhờ có sự đoàn kết đấu tranh của các lực lượng hoà bình, độc
lập và dân chủ mà Phong trào Không liên kết là một bộ phận. Phong trào
đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình và an ninh
quốc tế, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh hạt nhân, đòi giải trừ quân bị và
thành lập khu vực hoà bình và phi hạt nhân. Phong trào đã cổ vũ và ủng
hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc, là lực
lượng quan trọng trong cuộc đấu tranh đòi thiết lập trật tự kinh tế quốc
tế mới và trật tự thông tin quốc tế mới. Phong trào có đóng góp đáng kể
vào việc giải quyết tranh chấp và xung đột giữa các nước thành viên
bằng biện pháp hoà bình.
Sau chiến tranh lạnh,
Phong trào, trong thời kỳ đầu, đã có những khó khăn nhất định trong
việc xác định lại mục tiêu cho hoạt động của mình khi thế giới không còn
hai cực. Tình hình hiện nay cho thấy các nước đang phát triển tiếp tục
đứng trước nguy cơ can thiệp và áp đặt có hại cho độc lập chủ quyền và
quyền lợi của mình. Do vậy các nước này tiếp tục có nhu cầu tham gia vào
Phong trào để có một diễn đàn phối hợp với nhau, góp phần bảo vệ lợi
ích an ninh quốc gia và phát triển của mình, chống sự áp đặt của các
nước lớn và chống sự bất bình đẳng trong quan hệ Bắc-Nam, để phối hợp
lập trường chung tại LHQ và các diễn đàn quốc tế khác. Trong bối cảnh
đó, phong trào KLK tiếp tục đóng vai trò không thể thiếu là một tập hợp
lực lượng chính trị hùng hậu, là diễn đàn quan trọng để các nước không
liên kết đang phát triển hình thành tiếng nói chung đối với các vấn đề
toàn cầu quan trọng liên quan đến hoà bình, an ninh và phát triển.
Kể từ Hội nghị cấp cao 10
( Jarkarta 1992 ), Phong trào KLK đã có những bước điều chỉnh nhất định
nhằm thích ứng với tình hình mới. Các quốc gia thành viên đều nhất trí
cho rằng: Phong trào có khả năng và cần tiếp tục phát huy tiếng nói và
vai trò chính trị trong tình hình mới hiện nay vì hoà bình, phát triển,
tự quyết dân tộc, độc lập và chủ quyền quốc gia. Phong trào tiếp tục là
chỗ dựa tinh thần, là tập hợp đoàn kết rộng rãi của 114 nước đang phát
triển vì những lợi ích căn bản chung của các nước này và vì mục tiêu
phấn đấu cho một trật tự thế giới công bằng, bình đẳng, lành mạnh. Việc
Phong trào liên tục có thêm thành viên mới (tăng từ 108 kể từ Hội nghị
Cấp cao 10 năm 1992 lên 116 thành viên tại Hội nghị Cấp cao 13 năm 2003)
đã tiếp tục thể hiện sức sống, sự hấp dẫn và khẳng định vai trò chính
trị không thể thiếu của mình. Ngày càng có nhiều nước bên ngoài Phong
trào mong muốn được làm quan sát viên, khách mời chứng tỏ vị thế, tầm
quan trọng của diễn đàn này trong việc tăng cường hợp tác quốc tế, góp
phần giải quyết các vấn đề cấp bách có tính khu vực hoặc toàn cầu.
Trong các năm gần đây,
phong trào đã có nhiều hoạt động quan trọng nhằm tăng cường đoàn kết
thống nhất về vai trò, phương pháp làm việc cũng như hợp tác theo hướng
thực chất về kinh tế, văn hoá, y tế ... thông qua cơ chế tham khảo
thường xuyên tại LHQ và các hội nghị quan trọng trong đó có: Cuộc họp
cấp bộ trưởng về phương pháp làm việc của phong trào (5/96 tại
Ca-ta-hê-na, Cô-lôm-bi-a), Hội nghị cấp bộ trưởng về hợp tác văn hoá
(5/97 tại Men-đơ-lin, Cô-lôm-bi-a), Hội nghị bộ trưởng Uỷ ban Phối hợp
(5/98 tại Ca-ta-hê-na, Cô-lôm-bi-a), và Hội nghị bộ trưởng Y tế KLK (tại
Havana, Cuba) từ 24-26/6/98.
Trước ngưỡng cửa của
thiên niên kỷ mới, các nước KLK và đang phát triển nói chung đang đứng
trước những thách thức to lớn về phát triển kinh tế, phải đương đầu với
những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá. Nhìn
chung, các nước KLK vẫn phải tiếp tục đấu tranh giải quyết các vấn đề về
đói nghèo, tình trạng bất ổn định về xã hội, xung đột sắc tộc tôn giáo,
đối phó với chính sách cường quyền, xu hướng áp đặt và can thiệp của
một số nước lớn, trong khi tiếp tục phấn đấu cho một trật tự thế giới
mới công bằng dân chủ hơn, đảm bảo lợi ích của các nước đang phát triển.
Tại Hội nghị cấp cao lần
thứ 13 Phong trào Không liên kết tại Malaysia (từ 22 đến 25/2/2003) ,
nguyên thủ các nước thành viên đã cùng nhau xem xét tình hình thế giới
và hoạt động của phong trào trong những năm trước đó kể từ sau Hội nghị
Cấp cao KLK lần thứ 12 tại Durban, Nam Phi (29/8-3/9/1998), thảo luận và
đề ra các biện pháp nhằm đẩy mạnh hơn sự hợp tác giữa các nước thành
viên, thống nhất tiếng nói của phong trào trên nhiều lĩnh vực có tầm
quan trọng toàn cầu liên quan đến hoà bình an ninh và phát triển, góp
phần tăng cường đoàn kết và củng cố vị thế của phong trào KLK trong đời
sống chính trị quốc tế để phong trào có thể đương đầu tốt hơn với các
thách thức của thế kỷ 21.
Trong thời gian tới, sức
sống, vai trò và vị thế của Phong trào phụ thuộc vào nỗ lực của chính
các nước thành viên và điều đặc biệt quan trọng là các nước này cần tăng
cường sự đoàn kết, phối hợp trong các diễn đàn đa phương về chính trị
cũng như về kinh tế và các vấn đề có tính toàn cầu khác, đồng thời thúc
đẩy hợp tác quốc tế trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Trong khi tiếp
tục giữ vững các mục tiêu, nguyên tắc hoạt động cơ bản của phong trào vì
hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển, Phong trào cần phát huy tính
năng động và thực lực của các nước thành viên và có những điều chỉnh cần
thiết nhằm thích ứng với tình hình quốc tế đang biến chuyển từng ngày
để tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa tồn tại của mình trong đời sống
chính trị quốc tế.
IV. QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ PHONG TRÀO KHÔNG LIÊN KẾT
Năm 1955 Việt Nam tham dự
Hội nghị Á - Phi ở Bangdung (Indonesia), Hội nghị được nhiều người xem
như là tiền thân của Phong trào KLK. Tại Hội nghị, Việt Nam đã tích cực
thúc đẩy đoàn kết giữa các nước mới giành độc lập, góp phần xác lập
những nguyên tắc cơ bản sau này trở thành các nguyên tắc chỉ đạo cho
hoạt động của phong trào KLK.
Từ năm 1970 đến năm 1973,
Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam làm quan sát viên (Hội
nghị Georgetown, Guyana năm 1972), rồi làm thành viên Phong trào (tại
Hội nghị cấp cao IV Angiê, 1973).
Năm 1976 tại Hội nghị cấp
cao V (Colombo, Sri Lanca), nước Việt Nam thống nhất gia nhập Phong
trào. Bằng tấm gương sáng và thắng lợi của sự nghiệp chống ngoại xâm của
mình, Việt Nam đã sớm gắn bó và đóng góp vào những mục tiêu và quá
trình hình thành Phong trào KLK. Ngay cả khi chưa là thành viên chính
thức của phong trào, Việt Nam đã có đóng góp quan trọng vào cuộc đấu
tranh của các nước KLK và đang phát triển. Sau khi giành độc lập (năm
1945), Việt Nam đã đi đầu trong phong trào giải phóng dân tộc, góp phần
quan trọng xoá bỏ chủ nghĩa thực dân, chống chủ nghĩa đế quốc. Từ khi
tham gia phong trào, Việt Nam đã tham dự tất cả các Hội nghị Cấp cao và
Hội nghị ngoại trưởng, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tích cực tăng
cường đoàn kết đề cao vai trò của Phong trào, nỗ lực đấu tranh cho mục
tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Việt Nam luôn coi trọng
việc tham gia của mình vào phong trào KLK, coi đó là chủ trương nhất
quán, một bộ phận của chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa
dạng hoá, bổ sung cho quan hệ song phương, khu vực và quốc tế của mình.
Với những thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới của mình, Việt Nam
đang có nhiều thuận lợi để đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp phát
triển chung của các nước không liên kết đang phát triển.
(Nguồn Bộ Ngoại giao)