(Tham
luận của nhà thơ Hoàng Hưng tại Hội thảo “Thực trạng và giải pháp phát
triển văn hóa đọc ở VN” do Bộ VHTTDL phối hợp với Ban Điều hành Dự án
SachHay.com tổ chức. Do BTC đề nghị cắt bỏ, sửa chữa vài ý trong bản
tham luận, tác giả quyết định rút khỏi hội thảo và nhờ mạng Bauxite VN
công bố nguyên văn bản tham luận của ông)
Người ta đã viết về những cuốn sách thay đổi thế
giới. Nhưng thế giới trước hết là chính mình. Vậy tôi xin phép tâm tình
với các bạn về những cuốn sách thay đồi đời tôi.
Vâng, đến thời điểm này, khi đã bước gần tới cái tuổi
“xưa nay hiếm” (theo chuẩn thời các cụ, chứ còn theo chuẩn đương đại
thì người ta nói là cái tuổi mới hoàn tất “the first seventy years”
(đoạn đường 70 năm đầu tiên), sau thời gian khá dài vật lộn với cuộc
sống, với chính mình, trong đó sách đóng nhiều vai trò rất trọng đại,
cũng đủ để tôi rút ra vài điều về người đồng hành, người tri kỷ, người
dẫn đường, người thầy, người khởi hứng, người phán xét, người an ủi,
người xả hơi… vĩ đại bậc nhất này.
Vâng, tôi là cậu học trò lớp 9 năm nào đã đọc hết
nhũng cuốn biên khảo thời ấy có về truyện Kiều chỉ để làm một bài tập
làm văn 10 trang giấy thếp, là kẻ đã tự học tiếng Pháp, tiếng Anh bẳng
cách tra từ điển để dịch thơ Victor Hugo từ năm 10 tuổi và thơ Allen
Ginsberg năm 40 tuổi, là anh giáo viên thời máy bay Mỹ bắn phá điên
cuồng, tối thứ bảy nào cũng đáp tàu hỏa đi suốt đêm từ Hải Phòng để suốt
ngày chủ nhật được ngồi trong thư viện quốc gia, rồi lại từ Hà Nội gà
gật suốt đêm trên con tàu trở về ngôi trường huyện cho kịp giờ lên lớp
đầu tuần, là anh nhà báo trẻ 35 năm trước thấy mình như Alice lạc vào
chốn thần tiên trong khu chợ sách cũ phố Đặng Thị Nhu của Sài Gòn “mới
giải phóng”, để rồi từ đó tài sản lớn nhất phải thu vén mỗi lần chuyển
nhà là những bao sách…
Nếu như có thể tính được bao nhiêu tấn lương thực đã
tạo nên cái thân xác chưa đầy 50 kg của tôi, thì khó lòng tính được bao
nhiêu tấn sách báo đã cung cấp vật liệu tạo thành cái tâm thức chứa đựng
một phần tinh hoa nhân loại trong cái tôi bé nhỏ hôm nay .
Trong hàng ngàn cuốn sách mình đã đọc, có biết bao
cuốn từng chấn động tâm can, từng khiến mình rơi nước mắt hay cười ha
hả, khiến ngây ngất như rượu tiên, khiến giật mình như một lời cảnh cáo…
Nhưng tác động xoay chuyển cả cuộc đời, thì chỉ có vài cuốn sách. Điểm
lại, với tôi đó là 3 cuốn sách sau:
1/ Cuốn sách đưa tôi vào đời: Thép đã tôi thế đấy (Nikolai Ostrovki, nhà văn Liên Xô – người dịch: Thép Mới – Huy Vân)
Đó là cuối những năm 1950, nhà trường xã hội chủ
nghĩa đang định hình ở miền Bắc, thế hệ học sinh thành thị đại bộ phận
là con em các tầng lớp khá giả đang lột xác để trở thành những người
biết lao động chân tay, biết ba cùng với nông dân, làm quen với lý tưởng
Cộng sản… Cuốn Thép đã tôi thế đấy xuất hiện đúng lúc, nhanh
chóng trở thành niềm say mê của thế hệ chúng tôi. Cho đến bây giờ, tuy
lý tưởng xã hội của Paven đã đổ vỡ trước thực tế, nhưng hình ảnh chàng
thanh niên đầy nhiệt huyết, đầy niềm tin, ngoan cường vượt lên số phận
vẫn còn rất đẹp trong tôi. Tuổi 20 sống bằng con tim. Ở tuổi ấy, trong
những năm tháng ấy, nếu anh sống không có lý tưởng, nói rõ hơn là lý
tưởng Cộng sản, thì anh không có con tim.
Bài thuyết trình về Thép đã tôi của tôi trước
hàng ngàn học sinh trường Phổ thông Ba Hà Nội đã chuẩn bị cho quyết định
trọng đại của bản thân tôi, quyết định vào đời. Là một học sinh giỏi
xuất sắc toàn diện, được Chi bộ Đảng nhà trường đặc cách cho phép chọn
bất cứ ngành nào của bất cứ trường đại học nào chứ không phải chịu sự
phân công như mọi người, tôi đã tình nguyện lên miền núi Tây Bắc dạy học
cho các sĩ quan quân đội nhân dân đang thiếu chữ thay vì vào đại học,
rồi đi nhổ lạc, chăn bò ở nông trường Điện Biên. Và chính ở mảnh đất
lịch sử còn vương không ít bom mìn của trận đánh huyền thoại, tôi đã
bước chân vào con đường văn học không ít vinh quang và cay đắng, với
những bài thơ đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Văn nghệ quân đội, báo Văn nghệ năm mới 19 tuổi.
2/ Cuốn sách đưa tôi vào “nghiệp”: D’un réalisme sans rivage (Roger Garaudy, nhà lý luận Pháp)
Khi đó tôi vừa được một vinh dự rất lớn đối với những người làm thơ thời ấy là giải thưởng thơ của báo Văn nghệ,
trở thành một trong những nhà thơ nổi bật của “thế hệ chống Mỹ”. Nhưng
điều khác với hầu hết các nhà thơ cùng lứa, là tôi “trót” tự học tiếng
Pháp bằng cách đọc sách. Và trong Thư viện quôc gia, tôi đã vớ được khá
nhiều cuốn được nhập vào qua con đường viện trợ, trao đổi, mà vì lượng
độc giả tiếng Pháp quá nhỏ nên đã thoát được con mắt kiểm duyệt! Như Docteur Jivago của Boris Pasternak, các sách báo Pháp và Liên Xô, Đông Âu thời “xét lại”. D’un réalisme sans rivage (Về một chủ nghĩa hiện thực không bến bờ) của
nhà lý luận, người có chân trong bộ máy lãnh đạo Đảng Cộng Sản Pháp,
Roger Garaudy, là một “mặt trời chân lý” trên con đường văn chương mà
tôi đang chập chững.
Phê phán quan niệm hẹp hòi về chủ nghĩa hiện thực và
sự độc tôn chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong phong trào cộng
sản lúc ấy, tác giả mở rộng cái nhìn về phương pháp hiện thực khiến nó
bao quát được thực tiễn văn học nghệ thuật của thời đại, từ tranh lập
thể của Picasso đến tiểu thuyết phi lý của Kafka.
Có thể nói, cuốn sách đã đặt nền tảng nhận thức về
văn nghệ để tôi tiếp nhận dễ dàng những ảnh hưởng của thơ hiện đại châu
Âu như Guillaume Apollinaire, Federico Garcia Lorca (nhiều bài thơ của
hai tác giả này tôi đã dịch và được chép truyền tay từ thời ấy). Và nó
dẫn tôi đến bước ngoặt: bắt đầu âm thầm sáng tác theo định hướng mở,
không khuôn vào phục vụ chính trị trước mắt. Tôi bắt đầu quan hệ với các
nhà thơ Dương Tường, Văn Cao, những người bị đặt ra ngoài lề của văn
nghệ chính thống lúc đó. Và sự phá rào ấy tất sẽ đưa tôi đến chỗ phải
trả giá đắt trong đời sống, để rồi trở thành một cái tên thường được nói
đến, khen cũng như chê, trong phong trào cách tân thơ Việt.
3/ Cuốn sách đưa tôi vào minh triết: Thiền luận của Suzuki (bản dịch của Trúc Thiên – Tuệ Sĩ)
Đó là một trong hàng ngàn cuốn sách may mắn thoát
được ngọn lửa vô minh của đám “Cách mạng 30” – Hồng vệ binh Sài Gòn năm
1975, đến được với những người khát khao đi tìm sự thật như tôi.
Cuốn sách là một cú xốc tuyệt vời, cú nốc ao hạnh phúc cho những cái đầu bị chủ nghĩa duy lý biến thành đá từ lâu mà không biết.
Giữa những nghịch lý không thể giải thích, sự hỗn
loạn không thể định hướng, sự phi lý đau lòng của thực tại, chỉ có thể
khiến người trung thực phải hoang mang, mất niềm tin… cuốn Thiền luận
cho tôi “ngộ” ra những minh triết thật đơn giản của cuộc đời. Từ sự
phát hiện “tiếng vỗ của một bàn tay”, đi đến thấy “núi không là núi,
sông chẳng là sông”, để rồi cuối cùng lại nhìn ra “núi vẫn là núi, sông
vẫn là sông”, để rồi “thõng tay vào chợ”. Từ cuốn Thiền luận, tôi
tìm đọc hàng trăm sách Phật, tôi tìm đến bao nhiêu Phật tích, đạo
tràng. Đề rồi nhận ra tư tưởng Phật giáo chính là minh triết của đời
sống chân thật. Chính sự tiếp cận với minh triết đã giúp tôi bình tâm
vượt qua bao nhiêu thử thách, hoạn nạn, áp lực trong mấy chục năm trời,
ngày càng thấm thía rằng: chìa khóa mở mọi cánh cửa là cái tâm không
dính chấp, không phân biệt; sức mạnh chiến thắng sự hủy diệt là biết có
trong cái không, còn trong cái mất.
Tập thơ Hành trình đọat giải thưởng văn học Hà Nội năm 2007 có thể nói là thành tựu đầu tiên của con đường mà Thiền luận đã
mở ra cho tôi từ 30 năm trước; có những nhà phê bình nghiên cứu thấy nó
nhuốm màu thiền hiện đại, hay một thứ chủ nghĩa hiện đại châu Á.
Từ câu chuyện bản thân, xin có vài đề nghị cụ thể về “văn hóa đọc”:
1/ Ở tầng “người đọc”: Không nên chỉ nêu khẩu hiệu
“Đọc và làm theo sách”, khẩu hiệu này có vẻ gắn với một giai đoạn bao
cấp tư duy, giáo dục nhồi nhét thụ động, chỉ hợp với lối đào tạo con
người công cụ, con người chấp hành, tuân phục. Trong thời điểm đã quá
chín mùi cho một cuộc cách mạng giáo dục, nhắm đào tạo một lớp người mới
có tư duy độc lập, cởi mở, uyển chuyển, giàu năng lực sáng tạo, nên cổ
vũ một cách đọc “mềm”, đọc có suy nghĩ, phê phán, tranh luận, cổ vũ loại
người đọc chủ động, tích cực, người đọc tham dự.
2/ Ở tầng cơ sở vật chất: Trong cuộc cách mạng giáo
dục sắp tới, mà việc tự học đóng vai trò rất lớn, cần có chế độ cụ thể
cho việc đọc sách của học sinh như các nước tiên tiến đang thực hiện. Và
như vậy, hệ thống thư viện phải được đầu tư phát triển xứng đáng, trong
đó thư viện nhà trường phải trở thành một thiết chế không thể thiếu.
3/ Ở tầng thiết chế thượng tầng: Cần thay đổi tận gốc
quy chế san định “sách hay, sách tốt” theo một định hướng chủ quan, duy
ý chí của một nhóm người nào đó. Đường lối này đã khiến chúng ta chậm
hàng trăm năm trong việc tiếp thụ những thành tựu trí tuệ của nhân loại
mà bây giờ ta đang phải gồng mình đuổi theo, lãng phí, thậm chí vùi dập
bao nhiêu tài năng của chính dân tộc mình. Cần có cơ chế thẩm định đa
trung tâm, đa nguyên trong việc xuất bản và giới thiệu sách.