Paul Allen và Bill Gates – ngày 19 tháng 10 năm 1981
|
I. Cách mạng Công nghệ
Tính đến nay, chỉ mới 24 năm kể từ ngày hệ thống điều
hành máy vi tính cá nhân Windows của công ty Microsoft chào đời năm
1986, nhưng cuộc cách mạng công nghệ vi tính đã làm thay đổi diện mạo cả
thế giới cũng như đời sống của con người sống trên trái đất này (1).
Trong những năm cuối của thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ XX,
máy vi tính cá nhân vẫn là những thứ xa xỉ với người dân trong xã hội –
kể cả ở các quốc gia phát triển. Vào thời điểm đó, máy vi tính chỉ dùng
trong công việc nghiên cứu khoa học, giảng dạy, hay các ngành sản xuất
công nghệ cao bởi vì giá thành máy vi tính ở vào thời điểm đó quá cao
cũng như phần mềm áp dụng (application software) không có nhiều.
Vào những năm đầu thập niên 80 ở thế kỷ XX, máy vi
tính cá nhân rất thô, cồng kềnh, và những cơ phận bên trong như
motherboard (bộ mạch chủ), central processing unit – CPU
(bộ vi mạch xử lý), Random-access memory –RAM (bộ nhớ), hard disk drive
– HDD (ổ cứng) còn rất hạn chế về dung lượng, tốc độ xử lý, và cũng như
chất lượng.
Năm 1984, công ty IBM sản xuất ra loại máy vi tính cá nhân hiệu AT với bộ xử lý vi mạch do công ty Intel chế tạo là chip “Intel 80286 microprocessor”
với tần số chỉ có 6MHz (2). 9 năm sau, vào năm 1993, công ty Intel –một
công ty chuyên sản xuất CPU cho máy vi tính cá nhân hàng đầu thế giới
đã trình làng với bộ xử lý vi mạch mới mang tên Pentium với tần số lên
đến 60MHz – nghĩa là gấp 10 lần của bộ vi mạch xử lý năm 1984 và từ đây
đã mở ra một kỷ nguyên mới trong ngành công nghệ vi tính và công nghệ
thông tin (3).
Ngày nay, dung lượng và tốc độ xử lý của những cơ
phận chính để lắp ráp máy vi tính cá nhân (gồm cả máy để bàn và máy sách
tay) như bộ mạch chủ, bộ vi mạch xử lý, bộ nhớ, và ổ cứng được tính
bằng đơn vị GB (tỉ) chứ không phải là kB (ngàn) hay MB (triệu) như vào
thời điểm cách đây hai thập kỷ. Chất lượng của máy vi tính cũng được
nâng cao do sự cạnh tranh khốc liệt để chiếm lĩnh thị trường giữa các
công ty sản xuất máy vi tính hàng đầu thế giới như Dell, HP, Sony… và
nhiều công ty khác.
Ngoài ra, giá thành của máy vi tính cũng tương đối dễ
chịu với người tiêu dùng trong khoảng thời gian 10-15 năm trở lại đây.
Bởi thế, ngày nay chúng ta có thể thấy máy vi tính cá nhân hiện hữu khắp
mọi nơi và có thể nói là thứ không thể thiếu trong đời sống con người.
Cộng với sự phát triển ở một tốc độ chóng mặt trong ngành chế tạo vi
mạch điện tử, ngày nay máy vi tính nhìn nhỏ gọn, đẹp, và đầy đủ các phần
mềm áp dụng nên sự hữu ích của máy vi tính đối với đời sống con người
tăng lên gấp bội.
Ngoài những thành công mang tính chiến lược của những
công ty chế tạo chip hàng đầu thế giới như Intel và AMD trong khoảng
thời gian 1990 – 2000 đã đưa ngành công nghiệp sản xuất máy vi tính sang
một kỷ nguyên mới, sự ra đời của Internet (mạng) được chào đời năm 1995
để kết nối các máy vi tính với nhau đã làm thay đổi hoàn toàn đời sống
thường nhật của con người trên trái đất này. Theo chân của phát minh
Internet, những công ty như yahoo, google, ebay, và amazon… ra đời đã
khiến trái đất này trở thành quá nhỏ bé đối với mọi người chúng ta – cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Ngày nay, bạn có thể sống ở Mỹ và mua một món hàng ở
tận bên Nga mà chỉ tốn chừng vài phút. Với sự hỗ trợ của google, bạn có
thể tìm hiểu lịch sử của người Inca ở Nam Mỹ mà không cần phải rời một
ngôi làng nhỏ bé nào đó tại Việt Nam. Ngồi ở một quán cà phê Internet ở
Hà Nội, bạn có thể đọc những tài liệu viết về những người đã sống cách
đây nhiều thế kỷ và ở khắp cả 5 châu chứ không giới hạn ở một nơi nào.
Chỉ cần vài phút, bạn có thể phát hiện căn bệnh “tự sướng” của
tay phóng viên XYZ thuộc tờ báo nào đó trong nước mà không cần đi Mỹ,
hay đi Đức để tìm bằng chứng. Chỉ một cái nhấn của con chuột, bạn có thể
gởi thư cho người quen, hay bạn bè sống mãi tận bên Nga mà không phải
tốn tiền tem hay thời gian đi ra bưu điện – và tất nhiên là lá thư của
bạn sẽ đến tay người nhận trong vòng dăm bảy phút.
Trên đây chỉ là một vài minh chứng sự ảnh hưởng của
Khoa học Công nghệ đến đời sống của con người ở thế kỷ XXI này. Vâng.
Không có gì là quá đáng nếu nói rằng cuộc cách mạng Khoa học Công nghệ
đã làm thay đổi đời sống của chúng ta – không từ một ai và đang sống ở
đâu trên trái đất. Nhưng chưa hết, cuộc cách mạng Khoa học Công nghệ tạo
ra một cuộc cách mạng khác và cuộc cách mạng mới này cũng làm thay đổi
diện mạo cả thế giới này. Đó là cuộc cách mạng Nhân Quyền.
II. Đến Cách mạng Nhân Quyền
Sau khi chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc, cơ
quan Liên Hiệp Quốc ra đời vào năm 1945. Tôn chỉ tối thượng của cơ quan
Liên Hợp Quốc là để giúp các quốc gia trên thế giới xích lại gần nhau
thông qua những điều luật chung của quốc tế, để giải quyết những xung
đột giữa các quốc gia có thể dẫn đến đe dọa nền an ninh của thế giới, để
giúp phát triển Kinh tế ở những quốc gia còn lạc hậu, để giúp đỡ các
vấn đề Xã hội, Nhân quyền, và tạo ra nền Hòa bình chung cho cả Thế giới
(4).
Ngày 12 tháng 10 năm 1948, Bản Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền được Liên Hiệp Quốc được phê chuẩn hòng bảo đảm mọi
công dân trên trái đất này có được cuộc sống tốt đẹp hơn – không cần
biết người đó sống ở tại đâu, mang quốc tịch nước nào, hay theo tín
ngưỡng tôn giáo nào. Có thể nói, Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền là
một trong những văn kiện quan trọng nhất của thế kỷ XX vì nó là nền tảng
để xây dựng xã hội mà không có sự phân biệt giữa người và người trong
xã hội – hay bị xã hội ruồng bỏ bởi giới tính hay tín ngưỡng.
Trong khoảng thời gian chiến tranh thế giới
thứ II xảy ra và kết thúc, nhiều quốc gia thuộc địa ở châu Phi, châu Á,
và châu Mỹ đứng lên làm cuộc cách mạng giành độc lập. Những cuộc cách mạng này đã hạ huyệt chủ nghĩa thực dân và đem Tự Do và Dân Chủ đến cho người dân ở những quốc gia thuộc địa.
Điều đáng buồn là ở tại một số quốc gia ở trên thế
giới, chế độ bù nhìn và chế độ phong kiến được thay thế bởi những chế độ
độc tài. Do đó, người dân ở những xứ sở này năm xưa bị áp bức bị bóc
lột bởi chủ nghĩa thực dân thì giờ đây lại bị áp bức cũng như bị bóc lột
bởi người mà chính họ đã đổ xương máu để gầy dựng nên. Và tất nhiên,
năm xưa khi còn chế độ thực dân thì người dân ở những quốc gia này có
thể đứng lên đánh đuổi bởi tinh thần Dân tộc cũng như có một lý do chính
đáng. Nhưng lúc này thì không. Bởi người cai trị của họ hôm nay chính
là “phe ta” chứ không phải là “phe địch”!
Điểm thường thấy ở những chế độ độc tài là thường dùng những chiêu “thắt bao tử, nhà tù, khủng bố, không cho tự do ngôn luận và tự do báo chí, bưng bít, ngu dân, và mị dân”! Một khi “bao tử” đói quá thì con người phải đi bằng hai cái đầu gối của mình. Một khi “nhà tù” luôn rộng mở thì mọi người trong xã hội đều sợ hãi hay làm sờn lòng những người trung nghĩa. Một khi bị “khủng bố” thì tinh thần của con người sẽ xuống thấp bởi sợ hãi. Một khi cấm tiệt “tự do ngôn luận và tự do báo chí”
thì người dân sẽ không được chỉ trích, phản đối nhà cầm quyền trước
những vấn nạn tham nhũng, hay bị cướp đất cướp tài sản. Tệ hơn, những ai
dám phản đối, dám chỉ trích có thể bị nhà quyền bỏ tù mà không cần xét
xử. Một khi bị “bưng bít” thì người dân trong xã hội không biết những điều gì đã xảy ra bên ngoài. Một khi bị “mị dân”
thì những người dân đen – vốn chiếm số nhiều trong xã hội – sẽ dễ tin
vào những điều hoang tưởng, vào những cái bánh vẽ nơi thiên đường hạ
giới. Một khi bị “ngu dân” thì đám dân đen trong xã hội sẽ không
đủ trí khôn, không đủ sáng suốt để phân biệt đâu là thực, đâu là hư. Từ
đó, chỉ cắm cúi đi theo cái lề đường đã có sẵn.
Từ những điều đã trình bày trên đây, không quá khó khăn để nhận ra những chế độ độc tài luôn bị “dị ứng” với Bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Bởi lẽ, những chế độ độc tài đã chà đạp
một cách thô bạo lên Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền để tước đi những
quyền được sống thiêng liêng của một con người.
Tính đến nay thì các chế độ độc tài trên thế
giới đã tồn tại một thời gian hơn nửa thế kỷ. Điều này đồng nghĩa với
nhiều thế hệ của các quốc gia đang bị cai trị bởi bọn độc tài đã bị ngu
dân, bị tù đày, bị khủng bố, bị bưng bít. Và tất nhiên một khi nhiều thế
hệ bị đọa đày bởi những điều trên thì những quốc gia đó sẽ bị tụt hậu
so với những quốc gia láng giềng đi theo con đường Tự Do – Dân Chủ –
Pháp Quyền. Người dân tại những quốc gia được cai trị bởi các chế độ độc
tài thường rất nghèo bởi sự bóc lột từ cả một hệ thống, một bộ máy cai
trị. Bởi thế, người dân tại những quốc gia này phải luôn sống trong lầm
than đói khổ. Trong khi đó, những người cai trị thì rất giàu do tham
nhũng (6).
Dù là độc tài ở châu Phi, châu Á, hay châu
Mỹ, và dù là thể chế độc tài một người hay là thể chế độc tài tập thể,
các chế độ độc tài thường có một luận điệu luôn rất giống nhau khi nói
đến Nhân quyền. Đó là gọi “Nhân quyền phương Tây” để đánh lận
con đen, để ám chỉ Nhân quyền này là sản phẩm của Âu Mỹ chứ không phải
là Nhân quyền đã được nêu ra trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của
Liên Hiệp Quốc. Như vậy, sẽ không còn tính chính danh khi nói đến Nhân
quyền. Tiếp đến là kể lể công lao trong công cuộc đấu tranh giành độc
lập trước đây. Kể lể kinh tế đi lên, người dân có cơm ăn áo mặc cũng là
những điệp khúc thường thấy ở dưới những chế độ độc tài. Kế đến là điệp
khúc “dân trí mỗi nơi mỗi khác” nên chưa thể áp dụng Nhân quyền Âu Mỹ… vân vân và vân vân.
Điều buồn cười là, khi nói đến Nhân quyền thì
các chế độ độc tài chối đây đẩy những gì đến từ phương Tây. Nhưng khi
có ai nói đến tham nhũng thì các quan lại trong những chế độ độc tài
thường hay đáp lại rằng “tham nhũng ở đâu cũng có”! Khi ai đó bàn về hiệu quả “gói kích cầu” thì “ờ ờ, ở chính phủ Mỹ cũng đưa ra gói kích cầu”! Bộ máy tuyên truyền dưới các chế độ độc tài cứ ca ngợi “chúng ta là vô địch từ giáo dục, y tế…vân vân”. Nhưng con cái của các “gộc” thì đều tốt nghiệp đại học, thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài!
Những tưởng các chế độc độc tài có thể tiếp tục ngồi mát ăn bát vàng bởi chính sách “thắt bao tử, nhà tù, khủng bố, không cho tự do ngôn luận và tự do báo chí, bưng bít, ngu dân, và mị dân”!
Nhưng quả là ông trời đã không dung cho kẻ ác. Cuộc cách mạng Khoa học
Công nghệ đã khiến người dân vượt qua được bức tường bưng bít do các chế
độ độc tài dựng lên để ngu dân. Người dân sống dưới các chế độ độc tài
hôm nay có thể biết được người dân ở xứ văn minh, dân chủ có cuộc sống
tốt đẹp như thế nào. Chỉ với một cái nhấp con chuột, người dân có thể
biết được những chuyện xảy ra cách xa họ cả ngàn cây số. Qua trang mạng
xã hội facebook, những người thanh niên chưa từng biết mặt, chưa từng
gặp gỡ nhưng có thể kết bạn và trao đổi những chuyện đang xảy ra quanh
họ. Qua điện thoại di động, người dân có thể liên lạc với nhau mà không
cần ra khỏi nhà. Qua e-mail, người dân có thể gửi cho nhau những lời kêu
gọi đồng hành mà không cần tốn một giọt mực hay một tờ giấy trắng. Do
đó, các chế độ độc tài thường siết chặt Internet cũng là điều thường
thấy ở những quốc gia được cai trị bởi các chế độ độc tài.
Ngoài ra, ru ngủ bằng kinh tế cũng là cách các chế độ
độc tài thường làm. Trong tuần này, nhà vua của Arab Saudis cố gắng xoa
dịu người dân bằng cách chi ra 38 tỉ đô la để lo nhà cửa, công ăn việc
làm cho người nghèo (7). Thế nhưng, liệu đây có phải là hành động khôn
ngoan, là chính sách đúng đắn?
Nhưng dẫu cho các chính quyền độc tài có lo cho người
dân đầy đủ nhà cửa, cơm no, áo ấm mà không cho phép họ được Tự Do trong
suy nghĩ, được Dân Chủ trong lời nói, bảo đi Đông thì phải đi Đông, bảo
đi Tây thì phải đi Tây, thì người dân vẫn bị tước quyền làm Người. Đó
chỉ là một đàn chim trong lồng kín – được ăn no, phải hót theo ý chủ,
nhưng cả đời sẽ mãi không được sãi cánh để bay bổng trong bầu trời. Vậy
thì có khác gì bị cầm tù! Vậy có khác gì là một bầy cừu! Đàn gà công
nghiệp đang ở trong trại nuôi gà luôn được ăn no, ngủ ấm nhưng chúng mãi
là một lũ gà để người ta làm thịt. Bởi thế, ăn no mặc ấm tuy rất quan
trọng đối với nhân loại nhưng sự Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Tri Thức cũng
quan trọng không kém.
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mở đầu như sau:
“Xét rằng: Sự công nhận nhân phẩm của tất cả con
người trong đại gia đình nhân loại và những quyền bình đẳng không thể
tước đoạt của họ là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế
giới.
Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân
quyền đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân
loại. Việc tiến đến một thế giới trong đó tất cả mọi người được hưởng sự
tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn lo sợ hãi và nghèo khó,
phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.
Xét rằng: Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng
luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp
cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.
Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần được khuyến khích và mở rộng.
Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng
đồng Liên Hiệp Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những
quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị con người, vào
quyền bình đẳng nam nữ và cũng đã quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã
hội và cải tiến mức nhân sinh trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.
Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp
tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các
quyền tự do căn bản.
Xét rằng: Sự hiểu biết chung về nhân quyền và tự do là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên…”
Do đó, người dân đang sống dưới những chế độ độc
tài có quyền đòi hỏi những quyền sống căn bản mà đã được Liên Hiệp Quốc
công nhận là một điều hết sức chính đáng. Chỉ trong vòng hai tháng mà
hai chế độ độc tài đã cắm rễ 21 năm ở Tunisia và 31 năm ở Ai Cập đã bị
người dân hai nước này đưa lên giàn hỏa. Và cuộc Cách mạng Nhân quyền
cao cả này đang lan tỏa đến nhiều quốc gia khác. Và tất nhiên, với những
chế độ độc tài chưa bị “hỏa táng” bởi tham quyền cố vị như Gadhafi của Libya chắc chắn sẽ không có một kết cục tốt đẹp là điều đương nhiên.
III. Và những bài học
Các cuộc Cách mạng đều luôn đem lại những bài học quý
báu cho nhân loại. Do đó, cuộc cách mạng Khoa học Công nghệ và cuộc
cách mạng Nhân quyền hiện đang diễn ra cũng không là ngoại lệ. Trước khi
Microsoft chào đời, IBM là một công ty danh tiếng không có đối thủ. Mải
say mê trên hào quan chiến thắng của mình, IBM vẫn giữ lối tư duy cũ kỹ
trong chiến lược phát triển, kinh doanh công nghệ nhu liệu phần mềm của
mình. Ra đời từ năm 1986, chỉ chưa đầy 10 năm, Micrsoft của Bill Gates
đã đánh bật người khổng lồ IBM ra khỏi lãnh vực nhu liệu phần mềm một
cách ngoạn mục.
Mải say mê với những con số tăng trưởng GDP mà ông
Tổng thống Mubarak của Ai Cập đã chắc mẩm người dân nước mình hài lòng
với cuộc sống hiện tại.
Tăng trưởng kinh tế của Ai Cập (9)
Nhưng ông Mubarak đã lầm to. Và từ cái sai lầm tai
hại này mà chỉ trong 18 ngày thì ông Mubarak đã bị đẩy vào thì quá khứ –
cựu Tổng thống. Nhưng có lẽ cũng khó trách ông Mubarak đã mắc phải sai
lầm này. Bởi lẽ, sở hữu một tài sản khổng lồ khoảng chừng từ 40 -70 tỉ
đô la, ông Mubarak không thể hiểu được, thấy được, biết được đời sống cơ
cực của người dân nghèo Ai Cập.
Ngoài ra, là người luôn tự cho mình là một tổng thống
vĩ đại, do dân, vì dân để ông Mubarak có thể ung dung ngồi trên cái ghế
quyền lực của mình thì dĩ nhiên là ông Mubarak luôn nghĩ rằng đời sống
của người dân Ai Cập luôn tốt đẹp. Mà có lẽ, không chỉ một mình đồng chí
“Mu” đang mắc căn bệnh “cỡi ngựa xem hoa và tự sướng” này. Những
đồng chí “Mu” khác ở những xứ sở khác cũng có chung căn bệnh này. Có
thế, họ mới không cảm thấy xấu hổ khi nói rằng “người dân không có nhu cầu sung sướng”!
Có thế, họ mới không cảm thấy xấu hổ khi rao giảng những điều tốt đẹp
trên ở trên Thiên đàng với những người dân cùng khổ đang sống trong địa
ngục do họ cai quản.
Bài học ngủ quên trên hào quang chiến thắng của IBM
năm nào, và bài học những con số tăng trưởng GDP xơ cứng của Ai Cập hôm
nay cho thấy sự quan trọng của Tri thức, nhất là trong thời đại toàn cầu
hóa này. Chỉ có Tri thức mới có thể giúp quốc gia hưng thịnh. Chỉ có
Tri thức mới có thể khiến cho Nhà nước vững mạnh. Ngược lại, chà đạp
Nhân quyền hay cai trị đất nước bằng chính sách ngu dân thì sẽ đi vào
con đường thất bại là điều không thể tránh khỏi. Mà muốn cai trị bằng
Tri thức và tôn trọng Nhân quyền thì phải có một Nhà nước Pháp quyền –
đó là con đường duy nhất.
N. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
(*) Xin độc giả lưu ý: Nguyễn Trung trong bài này cũng như một số bài trước đây đã đăng trên BVN mà chúng tôi từng có chú dẫn, không phải là Nguyễn Trung tác giả bài Thời cơ vàng (BVN).
BẢN TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN
************************************************************************
Xét rằng: Sự công nhận nhân phẩm của tất cả con
người trong đại gia đình nhân loại và những quyền bình đẳng không thể
tước đoạt của họ là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế
giới.
Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân
quyền đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân
loại. Việc tiến đến một thế giới trong đó tất cả mọi người được hưởng sự
tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn lo sợ hãi và nghèo khó,
phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.
Xét rằng: Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng
luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp
cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.
Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần được khuyến khích và mở rộng.
Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng
đồng Liên Hiệp Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những
quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị con người, vào
quyền bình đẳng nam nữ và cũng đã quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã
hội và cải tiến mức nhân sinh trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.
Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp
tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các
quyền tự do căn bản.
Xét rằng: Sự hiểu biết chung về nhân quyền và tự do là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên.
Do đó, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc long trọng
công bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như là một khuôn mẫu chung cần
đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành
phần của xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên Ngôn, dùng
sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự
do này.
Mặt khác, bằng những phương thức tiến bộ trong
phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, phải bảo đảm sự thừa nhận và tuân
hành Bản Tuyên Ngôn một cách có hiệu lực, trong các dân tộc của các nước
thành viên, và ngay cả trong những người dân sống trên các phần đất
thuộc quyền cai quản của các nước đó.
Điều 1: Mọi người sinh ra đều được tự do và bình
đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và
lương tâm và vì thế phải đối xử với nhau trên tinh thần bác ái.
Điều 2: Mọi người đều được hưởng tất cả những
quyền và tự do được công bố trong Bản Tuyên Ngôn này và không có một sự
phân biệt nào, như chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo,
quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc
xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác. Hơn nữa,
cũng không được có sự phân biệt nào đối với con người sống trên một quốc
gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế chính trị, nền tảng luật
pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó. Cho dù quốc gia
hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị hay ở
trong tình trạng bị hạn chế về chủ quyền.
Điều 3: Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.
Điều 4: Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đòi. Chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.
Điều 5: Không một người nào phải chịu cực hình,
tra tấn, hay bất kỳ hình thức đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có
tính cách lăng nhục.
Điều 6: Ở bất cứ nơi nào, mỗi người đều có quyền được công nhận tư cách con người của mình trước pháp luật.
Điều 7: Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật, và phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt.
Tất cả đều được quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm
Bản Tuyên Ngôn này, cũng như chống lại mọi kích động dẫn đến kỳ thị như
vậy.
Điều 8: Mọi người đều có quyền được bảo vệ và
bênh vực bởi các cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền về các hành vi
vi phạm các quyền căn bản, do Hiến Pháp và Luật Pháp quy định.
Điều 9: Không một ai bị bắt bớ, cầm tù hay lưu đày một cách độc đoán.
Điều 10: Mọi người đều có bằng nhau quyền được
phân xử công khai và công bằng, trước một tòa án độc lập và vô tư, để
được phán quyết về các quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội
phạm mà mình bị cáo buộc.
Điều 11: khi truy tố trước pháp luật, mọi người
được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong
một phiên tòa công khai và tòa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm
cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự. Không ai có thể bị kết án khi
có những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc mà luật pháp của quốc gia
hay quốc tế không qui định đó là một hành vi phạm pháp. Tương tự như
vậy, không được áp đặt một hình phạt nào nặng hơn hình phạt được ấn định
vào lúc hành vi phạm pháp xảy ra.
Điều 12: Không một ai bị xâm phạm một cách độc
đoán về đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc
phạm danh dự hay tiếng tăm của mình. Mọi người đều có quyền được luật
pháp bảo vệ, trước những xâm phạm và xúc phạm như vậy.
Điều 13: Mọi người có quyền tự do di chuyển và cư
trú, trong phạm vi biên giới của quốc gia. Mọi người đều có quyền rời
khỏi lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ
sở.
Điều 14: Trước sự ngược đãi, mọi người đều có
quyền tị nạn và tìm sự dung thân tại các quốc gia khác. Quyền này không
được kể đến, trong trường hợp bị truy nã thật sự vì các tội phạm không
có tính chính trị, hay do những hành vi trái với những mục tiêu và
nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
Điều 15: Mọi người đều có quyền có quốc tịch.
Không một ai bị tước bỏ quốc tịch, hay bị từ chối quyền thay đổi quốc
tịch, một cách độc đoán.
Điều 16: Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có
quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc,
quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong
đời sống vợ chồng và lúc ly hôn. Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả
hai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự. Gia đình phải được xem
là một đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và được quyền bảo vệ của
xã hội và quốc gia.
Điều 17: Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá
nhân cũng như tập thể. Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình
một cách độc đoán.
Điều 18: Mọi người đều có quyền về tự do tư
tưởng, nhận thức và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi
tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín
ngưỡng của mình, với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay
nơi chốn riêng, bằng sự truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các
nghi thức đạo giáo.
Điều 19: Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận
và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị
xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và
tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới.
Điều 20: Mọi người đều có quyền tự do hội họp và
lập hội, một cách ôn hòa. Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào
một đoàn thể.
Điều 21: Mọi người đều có quyền tham gia vào việc
điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được
tuyển chọn một cách tự do. Mọi người đều có quyền đón nhận những dịch vụ
công cộng của quốc gia một cách bình đẳng. Ý muốn của người dân phải là
nền tảng của quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua
các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự, bằng phiếu kín, qua phương thức phổ
thông và bình đẳng đầu phiếu, hay các phương thức tương đương của bầu cử
tự do.
Điều 22: Vì là thành viên của xã hội, mỗi người
đều có quyền an ninh xã hội, qua các cố gắng của quốc gia và hợp tác
quốc tế, dựa theo phương cách tổ chức và tài nguyên của mỗi nước. Quyền
này được đặt trên căn bản của sự thụ hưởng những quyền về kinh tế, xã
hội và văn hóa, cần thiết cho nhân phẩm và sự phát triển tự do của mỗi
cá nhân.
Điều 23: Mọi người đều có quyền làm việc, quyền
tự do chọn việc làm, quyền được hưởng các điều kiện làm việc chính đáng
và thuận lợi đối với công việc, và quyền được bảo vệ chống thất nghiệp.
Mọi người, không vì lý do kỳ thị nào, đều có quyền được hưởng lương bổng
như nhau cho cùng một công việc. Mọi người làm việc đều được quyền
hưởng thù lao một cách công bằng và thích hợp, khả dĩ bảo đảm cho bản
thân và gia đình mình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm, cũng như
được trợ giúp nếu cần, qua các phương thức bảo vệ xã hội khác. Mọi người
đều có quyền thành lập và tham gia vào các nghiệp đoàn, để bảo vệ quyền
lợi của mình.
Điều 24: Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải
trí, kể cả việc hạn chế hợp lý số giờ làm việc, và các ngày nghỉ định
kỳ có trả lương.
Điều 25: Mọi người đều có quyền được hưởng một
mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao
gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết,
quyền an sinh trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, góa bụa, tuổi già
hay các tình huống thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm
soát của mình. Các bà mẹ và trẻ con phải được hưởng sự chăm sóc và trợ
giúp đặc biệt. Tất cả mọi trẻ con, sinh có hôn thú hay không, đều được
xã hội bảo vệ một cách bình đẳng.
Điều 26: Mọi người đều có quyền được giáo dục.
Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và căn bản. Giáo
dục tiểu học phải bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được
mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng bình đẳng cho mọi người,
trên căn bản tài năng xứng đáng. Giáo dục phải được điều hướng để phát
triển đầy đủ nhân cách, và củng cố sự tôn trọng nhân quyền và các quyền
tự do căn bản. Giáo dục phải nhằm cổ vũ sự cảm thông, lòng khoan dung,
và tình hữu nghị giữa mọi quốc gia, mọi nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, và
hỗ trợ việc phát triển các sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc nhằm duy trì
hòa bình. Cha mẹ có quyền ưu tiên chọn lựa phương cách giáo dục dành cho
con cái mình.
Điều 27: Mọi người đều có quyền tự do tham gia
sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thưởng thức các bộ môn nghệ thuật, và cùng
chia xẻ các tiến bộ khoa học cũng như các lợi ích của khoa học. Mọi
người đều có quyền được bảo vệ về tác quyền, trên bình diện tinh thần
cũng như quyền lợi vật chất, đối với các tác phẩm khoa học, văn chương,
hay nghệ thuật.
Điều 28: Mọi người đều có quyền đòi hỏi được sống
trong một trật tự xã hội và trật tự quốc tế, trong đó các quyền và các
tự do được đề cập trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được thể hiện đầy đủ.
Điều 29: Mọi người đều có bổn phận đối với cộng
đồng nào mà chỉ trong đó mới có thể phát triển toàn vẹn và tự do nhân
cách của mình. Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi
người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, và những hạn chế này chỉ
nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự
do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính
đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã
hội dân chủ. Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự
do này cũng không được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của
Liên Hiệp Quốc.
Điều 30: Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn
này được hiểu và hàm ý cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân nào
được quyền có những việc làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và
tự do được thừa nhận trong bản Tuyên Ngôn này.
Liên Hiệp Quốc – 10/12/1948
(Trich Boxit VN).